Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới
Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” bắt đầu được phát hành từ 1912 và ngay lập tức lượng phát hành lên tới trên 200 nghìn bản. Nhưng trong suốt 70 năm sau, rất nhiều người Mỹ muốn tìm đọc nó nhưng hoài công vô ích. Tại sao vậy ? Mãi sau này, bí mật trên được hé lộ. Một số ông chủ doanh thương tư bản Mỹ đột nhiên làm ăn phát đạt nhờ đọc quyển sách này. Họ không muốn người khác cũng được học và làm theo “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” này nữa. Bằng mọi biện pháp, cuối cùng họ đã thành công trong việc mua đứt bản quyền xuất bản, đồng thời vận động giáo hội ngăn chặn không để cho cuốn sách này tiếp tục được xuất bản. Thế là những điều thần kỳ trong cuốn sách quý giá này đã bị dìm vào bóng tối suốt 70 năm ròng. Vậy cuốn sách này có gì đặc biệt? Giáo sư Charles E. Haanel – tác giả đã đưa ra một phương pháp, khai thác tiềm năng của từng cá nhân rất hoàn chỉnh, giúp bạn đọc nắm được những nguyên tắc cơ bản dẫn tới thành công trên đường đời. Đồng thời, ông đã dựa vào những kinh nghiệm thực tế của bản thân, đúc kết lại thành những nguyên tắc khả thi có tính kinh điển, có thể áp dụng vào kinh doanh và mọi mặt của cuộc sống. Nhà đại Doanh Nghiệp Henry Ford từng nói : “Bất kỳ ai cứ hễ làm được một việc hữu ích đều nhận được một khoản thù lao. Khoản thù lao đó chính là kinh nghiệm mà họ thu được qua việc làm đó. Kinh nghiệm chính là khoản thù lao có giá trị lớn nhất vậy”. Cuốn sách này thực chất là một bản đúc kết kinh nghiệm, nó chính là “Khoản thù lao lớn nhất” ( Theo cách nói của Henry Ford ). Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ hiểu rõ tại sao nhiều ông chủ trở thành các triệu phú, tỷ phú nhanh chóng nhờ vào những kinh nghiệm chỉ dẫn quý giá của sách. Điều thần kỳ vĩ đại nhất cũng đến với bạn khi áp dụng các kinh nghiệm đó vào công việc làm ăn, kinh doanh của mình, bạn sẽ dễ dàng phát hiện ra những kết quả kỳ diệu, hiếm có ấy. Thông thường, chúng ta hay bị truyền thống cũ ràng buộc, dễ bị ảnh hưởng từ hoàn cảnh bên ngoài, thậm chí mọi người coi nhân tố bên ngoài quyết định sự thành bại. Ở đây, tác giả đã bác bỏ điều đó và sẽ hướng dẫn cho bạn biết cách tự khống chế số phận mình. Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới (dành cho ông chủ)” không phải là một thứ sách giáo khoa khô khan, vô vị, nhạt nhẻo. Nó có một sức mạnh kỳ diệu, có thể biến một người dân thường thành một nhà triệu phú! Thực ra ban đầu, Giáo sư Charles E.Haanel đúc kết kinh nghiệm thành 24 bài học là theo yêu cầu của hiệp hội doanh thương Hoa Kỳ. Nhưng tác dụng vĩ đại của nó lại khiến chính họ tìm mọi cách hạn chế số người biết đến nó. Sau khi sách được xuất bản một thời gian, giáo hội Mỹ đã đưa ra biện pháp cấm lưu hành. Dù vậy, những bản sao của nó cũng lén lút truyền tay nhau đọc. Năm 1982, dư luận nước Mỹ lại một lần nữa xôn xao đòi xuất bản lại cuốn sách khi biết tin tỷ phú Bill Gates sau khi đọc cuốn sách này, đã bỏ học ở đại học Harvard danh tiếng, đi theo một con đường mới. Từ đó ông trở thành một nhà đại doanh nghiệp vĩ đại nhất của thế giới ngày nay. Vì sao cuốn sách lại trở nên thần kỳ như vậy? Có lẽ lời giải được sáng tỏ dần khi ta nghiền ngẫm từng câu thần chú trong các trang sách này. ***   Con người sinh ra đều bình đẳng, đó là quan niệm được đa số người tin theo. Thực tế trong cuộc sống, con người đâu có được bình đẳng, tuy đều do cha mẹ sinh ra, cấu tạo cơ thể đại thể giống nhau nhưng tư tưởng ý thức lại khác nhau rất xa. Sự khác biệt này do bên ngoài nhìn không rõ nhưng chính nó là nhân tố quyết định thành bại, giàu nghèo, sang hèn, giỏi kém của người đời. Trong cuộc sống người bị thất bại thường luôn miệng than phiền số phận hẩm hiu, thiếu may mắn! không giống như các nhà triệu phú và cho đó là họ có số giàu có. Thực tế, sự khác biệt giữa người bình thường với người thành đạt chính là do tư tưởng và tinh thần quyết định tức là tâm trí quyết định. Tư tưởng con người vốn có sức sáng tạo vô cùng to lớn, tác dụng của nó hết sức phi thường. Mọi vật, mọi việc diễn ra trên thế giới không phải lộn xộn, lung tung mà đều có quy luật nhất định. Thế giới tinh thần của con người cũng có quy luật riêng, giống như thế giới vật chất vậy. Chính các quy luật đang khống chế thế giới đạo đức và thế giới tinh thần của chúng ta. Các bạn nên nhớ kỹ, chính tư tưởng của chúng ta mới là nguồn năng lực và sức mạnh. Chỉ dựa vào ngoại viện, chúng ta sẽ trở thành một kẻ yếu đuối. bạn nên trở thành một kẻ mạnh để giúp đỡ người khác, không nên là một kẻ yếu hèn chỉ biết tiếp nhận sự giúp đở của kẻ mạnh. “Trồng cây nào ăn quả đó” quy luật tự nhiên này cũng thích hợp với bộ não con người. Đầu óc nghĩ nhiều đến những chuyện khó khăn, tiêu cực sẽ là những nhân tố đưa bạn đến chỗ bị thất bại. Trong xã hội ngày nay, khoa học được ứng dụng vào mọi lĩnh vực, con người không ai dám coi thường quy luật nhân quả, ai cũng hiểu rõ cái đạo lý “nhân” sinh ra “quả”. Muốn thực hiện được chí hướng và nguyện vọng của mình, chúng ta cần nỗ lực tạo ra những điều kiện cần thiết. Quy luật thường không được bộc lộ rõ ràng nó ẩn mình trong nhiều biểu tượng và giả tượng khác nhau. Chúng ta phải nghiên cứu, so sánh rất nhiều sự việc riêng lẻ để tìm ra những nét chung, từ đó mới phát hiện được quy luật. Đó là phương pháp “suy lý quy nạp”. Suy lý quy nạp là phương pháp khoa học nhất. Mọi sự việc như đất nước hưng thịnh, học thuật phát triển, tuổi thọ kéo dài… đều là những kết quả bắt nguồn từ phương pháp này. Điều tôi bức xúc muốn làm là giúp các bạn nhận ra cơ hội, tăng cường năng lực suy lý kiên định ý chí, có được trí tuệ trong sự lựa chọn, có tinh thần chủ động tiến tới, kiên nhẫn dẻo dai và giúp các bạn biết cách tận hưởng một cuộc sống có chất lượng cao! Tôi đâu phải là một đạo sĩ, một nhà thôi miên và cũng chẳng phải là một bậc thầy phù thuỷ. Mục đích của cuốn sách này không phải là dùng pháp thuật làm mê muội lòng người, mà để hướng dẫn cho các bạn biết cách sử dụng năng lượng tinh thần của bản thân mình. Tôi tin vào cái đạo lý “trồng cây sẽ có ngày được ăn quả”, rất mong muốn cùng bạn đọc nghiên cứu và thực hành chân lý đó. Tôi tin rằng, nếu các bạn ra sức khai thác nguồn năng lượng tinh thần của mình, nhất định sẽ không bị nó phụ bạc. Có được năng lượng tinh thần, tức là các bạn đã cảm nhận được những quy tắc cơ bản của giới tự nhiên, hòa hợp thành một thể thống nhất với giới tự nhiên vĩ đại. Điều đó cũng có nghĩa các bạn sẽ có một nguồn sức mạnh dồi dào không bao giờ cạn kiệt. Có được năng lượng tinh thần, các bạn đã trở thành một khối nam châm đồ sộ cuốn hút người khác, được mọi người hâm mộ, vây quanh. “Hãy làm giàu thêm cảm nhận của bạn về sinh mệnh, hãy khống chế chắc bản thân, chăm lo bảo vệ sức khỏe, tăng cường khả năng ghi nhớ, nâng cao khả năng quan sát, hãy nhìn thẳng vào cơ hội và khó khăn. Tất cả những điều đó có thể làm thay đổi số phận hàng triệu người trên hành tinh này.” Năng lực quan sát có thể giúp bạn nhìn rõ bản chất của sự việc, khắc phục được các hiện tượng do dự, hoài nghi, u uất, lo sợ. Cuốn sách này sẽ giúp các bạn bồi dưỡng năng lực quan sát, tăng cường tính độc lập, nâng cao được tầm nhìn xa. “Coi trọng và tiếp thu sử dụng các nguyên tắc chính xác là điều quan trọng bậc nhất”, đó chính là một câu danh ngôn của chủ tịch tập đoàn gang thép Albert Gali (Mỹ) và nó cũng là một pháp bảo giúp ông thành đạt! Mục đích của cuốn sách này không phải chỉ là hướng dẫn cho bạn đọc biết được các nguyên tắc chính xác, cũng không phải là một thứ sách giáo khoa giảng dạy người học. Bởi loại sách đó đã quá nhiều, mà nó còn muốn giúp bạn đọc biết cách thực hành các nguyên tắc đó. Nó cho các bạn biết: Một số khá đông suốt ngày vùi đầu vào sách vở, chăm chú nghe thầy giảng bài nhưng rồi suốt đời chẳng làm nên trò trống gì. Đó là vì các nguyên tắc trên sách vở là vô dụng, phải vận dụng được nó vào cuộc sống mới có giá trị. Cách học thông minh nhất là phải vận dụng các nguyên tắc trên sách vở vào cuộc sống. Mọi việc trên đời này đều đang biến đổi, đang vận động. Các quan niệm tư tưởng của con người cũng không ngừng biến động. Thế giới sinh vật, thế giới khoáng vật đều đang biến động. Người da đen hay da trắng, người giàu hay nghèo, giáo dân đạo này và đạo khác, giới thượng lưu hay giới lao động thấp kém, tất cả đều đang biến đổi, đang làm cách mạng, đang thay đổi các quan niệm tư tưởng của mình. Ngày nay, khoa học phát triển rầm rộ, phát hiện ra vô số tài nguyên, vô số khả năng và lực lượng mới. Các nhà khoa học ngày càng khó khẳng định thật chắc chắn một lý luận nào đó mà cũng rất khó phủ định một luận đề xem ra có vẻ rất vô lý! Thế kỷ XX là một thời kỳ hết sức huy hoàng trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XXI sẽ còn sáng tạo ra những kỳ tích mới, sức mạnh tinh thần và sức mạnh tâm linh, có những bước tiến bộ vĩ đại. Từ phân tử đến nguyên tử, từ nguyên tử tới lượng tử, mọi thực thể hữu hình trên thế giới đều đã được con người “vi hóa” (làm nhỏ) đến cực điểm. Do đó, công việc tiếp theo của chúng ta là phải “vi hóa” tinh thần, tìm ra “lượng tử” của tinh thần. Lực lượng mạnh nhất trong giới đại tự nhiên là gì? Là một thứ lực lượng vô hình. Theo đạo lý đó lực lượng mạnh nhất của con người là lực lượng tinh thần. nó cũng là một thứ lực lượng vô hình không được xem thường. Tư duy là phương thức hoạt động duy nhất của tinh thần, quan niệm là sản phẩm duy nhất của hoạt động tư duy. Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua con đường duy nhất – hoạt động tư duy. Sự biến động của sự đời chẳng qua chỉ là công việc của tinh thần. Suy lý, xét đoán là một quá trình của tinh thần. Quan niệm là do tinh thần thai nghén. Nêu vấn đề thực chất là logic học – ngọn đèn pha chiếu sáng của tinh thần. Khi chúng ta suy nghĩ về một chủ đề nào đó, tổ chức cơ thể con người sẽ có biến động. Đó là vì sự suy nghĩ tất sẽ gây ra phản ứng vật chất trong cơ thể, ví dụ như đại não, thần kinh, cơ bắp chẳng hạn. Khi người ta lột bỏ được cái cũ, cái mới sẽ xuất hiện. Đó chính là quá trình đi từ thất bại đến thành công, một sự tái sinh trong tinh thần. Vì vậy, sinh mệnh sẽ có ý nghĩa mới, niềm vui mới, hy vọng mới. Trước đây bạn mò mẫm trong bóng tối u ám, nhưng nay bạn nhìn thấy cơ hội thành công và sẽ phát hiện ra một khả năng mới. Bạn suy nghĩ nhiều về thành công và niềm vui đó sẽ bức xạ sang người khác, tự nhiên họ trợ giúp bạn tiến lên đỉnh cao hơn. Muốn giành được ưu thế vượt bậc, bạn cần tin rằng và chuẩn bị thật tốt từ trước – có một thế giới hoàn toàn mới xuất hiện. Charles F. Haanel Mời các bạn đón đọc 24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới của tác giả Charles E. Haanel.
Tìm Kiếm Bên Trong Bạn - Tạo Ra Lợi Nhuận, Vượt Qua Đại Dương Và Thay Đổi Thế Giới
MỞ ĐẦU Tìm Kiếm Bên Trong Bạn Hãy nhìn vào bên trong; đó là suối nguồn của mọi điều tốt đẹp. - Marcus Aurelius Người hạnh phúc nhất thế giới trông như thế nào? Chắc chắn trông không giống tôi rồi. Thực ra, ông trông giống một người Pháp, đầu trọc, mặc áo choàng Tây Tạng. Tên ông là Matthieu Ricard. Matthieu sinh ra và lớn lên ở Pháp. Năm 1972, sau khi hoàn thành chương trình tiến sỹ về di truyền học phân tử tại Học viện Pasteur, ông quyết định trở thành một nhà sư Tây Tạng. Tôi nói với ông rằng ông trở thành nhà sư là do vào năm 1972, ông đã không được vào Google – và đi tu có vẻ như là lựa chọn nghề nghiệp tốt thứ hai. Lựa chọn nghề nghiệp của Matthieu dẫn chúng ta đến với câu chuyện về cách Matthieu trở thành “người hạnh phúc nhất thế giới”. Khi Đạt-lai Lạt-ma quan tâm đến khoa học về thiền, ông đã mời các nhà sư Tây Tạng đến tham gia các nghiên cứu khoa học. Matthieu tất nhiên là một đối tượng được lựa chọn vì ông vừa là một nhà khoa học đích thực, am hiểu cả tư duy của phương Tây và Tây Tạng, vừa là người đã thực hành thiền theo phương pháp cổ điển trong nhiều thập kỷ. Não của Matthieu đã trở thành đối tượng của nhiều nghiên cứu khoa học1. Một trong những khía cạnh của Matthieu được đem ra đo đạc là mức độ hạnh phúc của ông. Hóa ra là có một cách để ước lượng mức độ hạnh phúc ở trong não: đó là đo mức độ hoạt động tương đối giữa một phần thuộc võ não trước trán bên trái với một phần thuộc vỏ não trước trán bên phải2. Bên trái càng mạnh so với bên phải bao nhiêu thì càng có nhiều cảm xúc tích cực bấy nhiêu, chẳng hạn như vui sướng, nhiệt tình, giàu năng lượng, v.v.. Điều ngược lại cũng đúng; những người có mức độ hoạt động cao hơn ở bên phải sẽ có các cảm xúc tiêu cực. Quét não của Matthieu cho thấy độ hạnh phúc của ông hoàn toàn nằm ngoài biểu đồ. Cho đến giờ, ông là người hạnh phúc nhất từng được khoa học đo lường. Giới truyền thông nhanh chóng đặt cho ông biệt danh “người hạnh phúc nhất thế giới”. Bản thân Matthieu hơi khó chịu vì biệt danh đó, một nghịch lý thật hài hước. Hạnh phúc tối thượng không phải là thành tựu duy nhất mà não của Matthieu đạt được. Ông trở thành người đầu tiên được khoa học công nhận có thể ngăn cản phản xạ giật mình tự nhiên của cơ thể – hiện tượng cơ mặt co giật nhanh để phản ứng lại những tiếng động to và bất chợt. Giống như mọi phản xạ khác, đáng ra con người không thể kiểm soát phản xạ này theo ý mình, nhưng Matthieu lại có thể kiểm soát nó trong thiền. Hóa ra, Matthieu còn là một chuyên gia trong việc phát hiện những biểu hiện cảm xúc thoáng qua trên gương mặt, hay còn gọi là những biểu hiện vi tế. Người ta có thể học để phát hiện và đọc những biểu hiện vi tế, nhưng Matthieu và một thiền sinh khác, cả hai đều không được học, nhưng đều thể hiện hai độ lệch chuẩn tốt hơn bình thường, vượt qua mọi chuyên gia đã qua đào tạo. Câu chuyện về Matthieu và các thiền sư khác chứa đầy cảm hứng. Những vị này đã chứng minh rằng mỗi người chúng ta đều có thể phát triển một tâm trí phi thường, cực kỳ an bình, hạnh phúc, và từ bi. Cả bạn và tôi đều có thể tiếp cận những phương pháp để phát triển một tâm trí phi thường như vậy. Và đó chính là nội dung của cuốn sách này. “Thưa ngài Ricard, có mấy chú nai đến gặp ngài để học cách ngăn cản phản xạ giật mình đấy ạ.” Ở Google, nỗ lực phổ biến những phương pháp này bắt đầu khi chúng tôi tự hỏi rằng: nếu mọi người cũng có thể sử dụng các phương pháp thiền để giúp họ thành công trong cuộc sống và sự nghiệp thì sao? Nói cách khác, nếu những phương pháp thiền có thể đem lại lợi ích cho cả sự nghiệp của cá nhân và lợi nhuận của công ty thì sao? Bất cứ cái gì tốt cho cả con người và công ty đều sẽ lan tỏa rất nhanh. Nếu chúng tôi có thể biến điều này thành hiện thực, mọi người trên khắp thế giới đều có thể trở nên thành công hơn trong việc đạt được mục tiêu. Tôi tin rằng những kỹ năng được cung cấp ở đây sẽ giúp tạo ra an bình và hạnh phúc lớn hơn trong cuộc đời bạn cũng như trong cuộc sống của những người xung quanh bạn, và cuối cùng, hạnh phúc cùng an bình sẽ có thể lan tỏa ra khắp thế giới. Để tạo điều kiện cho sự đổi mới, Google hào phóng cho phép các kỹ sư của mình sử dụng 20% thời gian cho các dự án không thuộc công việc chính của họ. Nhóm chúng tôi đã sử dụng “20% thời gian” của mình để thực hiện cái mà sau này trở thành khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Cuối cùng, chúng tôi tạo ra một giáo trình trí thông minh cảm xúc dựa trên thiền với sự giúp đỡ của một nhóm những con người cực kỳ tài năng đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm một thiền sư, một CEO, một nhà khoa học của Đại học Stanford, và Daniel Goleman, người đã viết sách về trí thông minh cảm xúc. Nghe như đoạn đầu của một câu chuyện đùa thú vị ấy nhỉ (“Một thiền sư và một CEO bước vào phòng…”). “Ở đây chúng tôi sử dụng chỉ số Đạo Jones.” Tên của giáo trình trí thông minh cảm xúc dựa trên thiền là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Giống như nhiều thứ khác tại Google, cái tên đó lúc đầu chỉ là đùa nhưng cuối cùng lại thành thật. Cuối cùng, tôi trở thành kỹ sư đầu tiên trong lịch sử Google rời khỏi bộ phận kỹ thuật để gia nhập People Ops (cái tên chúng tôi đặt cho phòng nhân lực) nhằm quản lý chương trình này cũng như các chương trình phát triển cá nhân khác. Tôi cảm thấy buồn cười vì Google lại để một kỹ sư dạy về trí thông minh cảm xúc. Đúng là một công ty kỳ lạ. Hóa ra lại có những lợi ích bất ngờ khi để một kỹ sư như tôi dạy một khóa học như Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Đầu tiên, do có một tâm trí đầy khoa học và hoài nghi, tôi sẽ cực kỳ xấu hổ nếu phải dạy bất cứ thứ gì không có nền tảng khoa học vững chắc, vì vậy Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có cơ sở khoa học rất vững chắc. Thứ hai, sau nhiều năm làm kỹ sư ở Google, tôi có kinh nghiệm đáng tin cậy về việc áp dụng các biện pháp trí thông minh cảm xúc trong công việc hàng ngày như tạo ra sản phẩm, quản lý đội nhóm, xin tăng lương, v.v.. Vậy là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã được thử nghiệm và có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày theo cách không theo lẽ thường. Thứ ba, bộ não kỹ sư giúp tôi dịch các bài giảng từ ngôn ngữ thiền truyền thống sang ngôn ngữ bắt buộc phải thực dụng để những người như tôi có thể xử lý được. Ví dụ, nếu ngôn ngữ thiền là “chú tâm sâu hơn đến các cảm xúc”, thì tôi sẽ nói là “nhận thức quá trình cảm xúc ở độ phân giải cao hơn”, rồi sau đó giải thích thêm rằng, đó là khả năng nhận thức một cảm xúc vào đúng khoảnh khắc nó xuất hiện, khoảnh khắc nó biến mất, và tất cả những thay đổi nhỏ diễn ra ở giữa. Đó là lý do tại sao Tìm Kiếm Bên Trong Bạn sở hữu những đặc điểm vô cùng hấp dẫn: có nền tảng khoa học, cực kỳ thực tiễn, và được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ mà tôi cũng hiểu được. Bạn thấy không? Tôi biết là cái bằng kỹ sư của tôi thể nào cũng có ích mà. Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã được giảng dạy tại Google từ năm 2007. Nó đã thay đổi cuộc đời của nhiều học viên, cả trong công việc lẫn trong đời sống cá nhân. Sau khóa học, chúng tôi đã nhận được nhiều phản hồi kiểu như: “Tôi biết điều này nghe hơi khó tin nhưng tôi thực sự nghĩ rằng khóa học này đã thay đổi cuộc đời tôi”. Ở công ty, một số học viên đã tìm ra được ý nghĩa mới cũng như sự thỏa mãn trong công việc của họ (thậm chí có người đã lật lại quyết định rời khỏi Google sau khi tham gia Tìm Kiếm Bên Trong Bạn!), trong khi một số người khác trở nên tiến bộ hơn nhiều trong những việc họ làm. Ví dụ, trưởng phòng kỹ thuật, Bill Duane, đã nhận ra tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian một cách chất lượng, vì vậy anh đã giảm bớt giờ làm việc xuống còn bốn ngày một tuần. Sau khi làm vậy, anh đã được thăng chức. Bill dành thời gian đểchăm sóc bản thân và khám phá những cách giúp anh đạt được nhiều hơn mà chỉ phải làm ít hơn. Tôi đã hỏi Bill về những thay đổi quan trọng nhất mà anh trải qua trong suốt khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, và anh trả lời rằng anh đã học được cách lắng nghe tốt hơn, kiểm soát cơn giận, và am hiểu tình huống tốt hơn, thông qua việc mà anh gọi là “học cách tách biệt các câu chuyện ra khỏi thực tế”. Tất cả những điều này biến anh trở thành một người quản lý hiệu quả hơn nhiều, từ đó đem lại lợi ích cho những người làm việc dưới quyền anh. Với Blaise Pabon, một kỹ sư kinh doanh, Tìm Kiếm Bên Trong Bạn giúp anh trở nên đáng tin cậy hơn nhiều đối với khách hàng bởi giờ anh đã tiến bộ hơn trong việc bình tĩnh vượt qua sự phản đối trong suốt các buổi trình diễn sản phẩm, nói chuyện một cách mềm mỏng với các đối thủ, can đảm và trung thực khi nói với khách hàng về sản phẩm. Tất cả những phẩm chất này khiến anh được khách hàng vô cùng kính trọng. Một kỹ sư trong lớp học thấy mình sáng tạo hơn nhiều sau khi tham gia Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Một kỹ sư khác nói với chúng tôi rằng hai trong số những đóng góp quan trọng nhất của anh đối với dự án xuất hiện khi anh thực hiện những bài tập thiền đã được học trong Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người thấy Tìm Kiếm Bên Trong Bạn thậm chí còn hữu dụng hơn trong cuộc sống cá nhân. Nhiều người đã báo cáo rằng họ thấy bình tĩnh hơn và hạnh phúc hơn hẳn. Ví dụ, một học viên đã nói: “Tôi hoàn toàn thay đổi cách tôi phản ứng với các yếu tố gây căng thẳng. Tôi bình tĩnh suy xét mọi việc và thông cảm với hoàn cảnh của người khác trước khi đi đến kết luận. Tôi yêu con người mới của tôi!”. Một số thấy chất lượng đời sống hôn nhân của họ được nâng cao. Những người khác báo cáo rằng đã vượt qua được những khủng hoảng cá nhân nhờ sự giúp đỡ của Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Ví dụ, một người đã nói với chúng tôi rằng: “Trong thời gian tham gia khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, tôi đã trải qua một bi kịch – anh trai tôi qua đời – và [lớp học] đã giúp tôi kiểm soát nỗi buồn theo cách tích cực”. Một người khác thì chỉ đơn giản nói rằng: “Giờ tôi nhìn bản thân và thế giới thông qua đôi mắt thấu hiểu hơn, thương yêu hơn”. Quyển sách này được dựa trên giáo trình Tìm Kiếm Bên Trong Bạn tại Google. Chúng tôi đã chứng kiến cách những kiến thức và phương pháp này cải thiện khả năng sáng tạo, năng suất, và hạnh phúc của những người tham gia khóa học. Bạn sẽ tìm thấy nhiều thứ hữu dụng trong cuốn sách, một số thứ thậm chí còn khiến bạn ngạc nhiên. Ví dụ, bạn sẽ học được cách ổn định tâm trí khi cần thiết. Khả năng tập trung và sáng tạo sẽ được cải thiện. Càng ngày bạn sẽ càng nhận thức được rõ ràng các quá trình cảm xúc và tư duy. Bạn sẽ khám phá ra rằng, nếu tâm được luyện tập thì sự tự tin có thể xuất hiện một cách tự nhiên. Bạn sẽ học được cách khai mở tương lai lý tưởng của mình, đồng thời phát triển tinh thần lạc quan cũng như khả năng phục hồi, những yếu tố cần thiết để thành công. Bạn sẽ thấy rằng sự cảm thông có thể được cải thiện thông qua luyện tập và kỹ năng xã hội là những thứ hoàn toàn có thể rèn luyện được, bạn có thể giúp những người khác yêu thương mình. Thành quả tôi thấy đáng giá nhất là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã có tác dụng rất tốt đối với những người bình thường trong môi trường doanh nghiệp của một xã hội hiện đại. Nếu Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có tác dụng tốt đối với những người xuất thân từ những nền văn hóa có truyền thống về thiền, những người có khả năng rút vào rất sâu bên trong các cõi thiền hay một nơi nào đó thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng đây là những người Mỹ bình thường, đang làm việc trong một môi trường áp lực cao, có cuộc sống bình thường, với gia đình và nhiều thứ khác, nhưng họ vẫn có thể thay đổi cuộc đời chỉ trong 20 tiếng học tập trải dài trong bảy tuần. Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có ba bước: Rèn luyện khả năng chú ý Tự phát triển kiến thức và tự làm chủ bản thân Tạo ra các thói quen hữu ích cho tâm. Rèn luyện khả năng chú ý Chú ý là nền tảng của mọi năng lực cảm xúc và nhận thức cao hơn. Do đó, bất cứ giáo trình rèn luyện trí thông minh cảm xúc nào cũng đều phải bắt đầu với việc rèn luyện khả năng chú ý. Ý tưởng ở đây là rèn luyện khả năng chú ý để tạo ra một tâm trí vừa an bình vừa sáng sủa. Một tâm trí như vậy sẽ tạo nền tảng cho trí thông minh cảm xúc. Tự phát triển kiến thức và tự làm chủ bản thân Sử dụng khả năng chú ý đã qua rèn luyện để nâng cao khả năng nhận thức quá trình cảm giác và tư duy của bạn. Từ đó, bạn có thể quan sát ngày càng rõ ràng dòng suy nghĩ và quá trình cảm giác của mình, với sự khách quan như từ góc nhìn của một người thứ ba. Khi làm được như vậy, bạn sẽ tạo ra một loại kiến thức sâu sắc do bạn tự khám phá ra và loại kiến thức này cuối cùng sẽ dẫn đến sự tự làm chủ bản thân. Tạo ra các thói quen hữu ích cho tâm Hãy tưởng tượng rằng bất cứ khi nào bạn gặp ai đó, ý nghĩ đầu tiên, theo bản năng, theo thói quen của bạn là, tôi muốn người này được hạnh phúc. Có những thói quen như vậy sẽ thay đổi mọi thứ ở nơi làm việc, vì ý tốt chân thành này sẽ được người khác cảm nhận một cách vô thức, và tạo ra loại tin tưởng dẫn đến những sự hợp tác có hiệu quả cao. Những thói quen như vậy có thể được rèn luyện để trở thành tự nhiên. Trong quá trình phát triển Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, chúng tôi đã thu thập những dữ liệu khoa học tốt nhất và tập hợp những bộ não tốt nhất về chủ đề này để tạo ra một giáo trình đã được chứng minh là có hiệu quả. Bạn sẽ không muốn bỏ lỡ nó đâu; nó có thể thay đổi cuộc đời bạn. Thật đấy. Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ là nguồn tham khảo có giá trị khi bạn dấn thân vào hành trình thú vị của mình. Tôi hy vọng hành trình của bạn an sẽ vui và lợi lạc. Và vâng, nó cũng sẽ đóng góp cho hòa bình thế giới nữa. Mời các bạn đón đọc Tìm Kiếm Bên Trong Bạn - Tạo Ra Lợi Nhuận, Vượt Qua Đại Dương Và Thay Đổi Thế Giới của tác giả Chade Meng Tan.
31 Tuổi Thì Đã Làm Sao?
Giờ đây tôi đã 31 tuổi, à không, tôi mới chỉ 31 tuổi! "Cô ấy đã 31 tuổi, phần bụng dưới trong bộ lễ phục size nhỏ vẫn rất phẳng phiu, khó có thể tưởng tượng rằng đó đã là mẹ một đứa trẻ. Dáng người cô ấy rất cao, mỗi lần gặp mặt là một lần tóc của cô ấy trở nên ngắn hơn, và đến nay đã là một mái tóc siêu ngắn. Một sự hấp dẫn mất cân bằng toát ra khiến người ta khó đoán được cô ấy trưởng thành rồi hay vẫn là thơ trẻ. Không thể coi cô ấy là một mỹ nhân, nhưng cũng lại rất thông minh, và dễ chịu. "Tại sao chúng mình không lấy nhau? Nghe thấy câu hỏi của tôi, cô ấy mỉm cười. "Câu này năm nào anh cũng nói đấy". *** Review: 31 tuổi thì đã làm sao (Fumio Yamamoto) Một cuốn sách viết cho riêng tuổi 31. Bạn ạ, nếu bạn 31, chắc chắn bạn sẽ thấy mình trong cuốn sách này  Như mình, thấy bản thân ở ngay câu chuyện đầu tiên, đọc mãi cho tới khi hết thì thấy hình như bà này viết riêng cho mình :)) Quyển này không phải tiểu thuyết mà cũng không phải truyện ngắn. Nó không được gọi là truyện ngắn vì theo mình nó chả có nội dung hay cốt cụ thể :)) Nhưng, như mình đã nói ở trên, bạn sẽ bắt gặp bản thân trong đó, với điều kiện bạn chòm chèm 30 :)) Sách tập hợp các đoạn thời gian ngắn trong đời của các cô gái. Điểm chung duy nhất của các cô ấy là 31, còn lại thì hoàn cảnh sống, sự nghiệp rất khác nhau, tâm lý cũng khác nhau & muôn trạng. Thực ra mình coi ý tưởng này rất hay, kiểu như tập hợp từng mẩu nhỏ về đoạn thời gian sống của các nhân vật rồi ghép lại ấy mà. Nếu là tiểu thuyết, nhân vật chính là một cô gái 31 thì chắc tác giả sẽ đánh vật với các trường đoạn về diễn tiến tâm lý nhân vậy :v Gái đã 31 – qua cmn 1/3 cuộc đời rồi – sẽ có chút hoảng loạn, sẽ có chút trầm lắng, có ít của cải hoặc vẫn đang rỗng túi, khao khát yêu đương và đôi khi đi ngược lại với nguyên tắc đời mình: dan díu với đàn ông có vợ, sự nghiệp vững chắc hoặc vẫn bấp bênh nhưng điểm chung là cứ kệ meh đời đến đâu thì đến :)) Quyển này mình đọc khá nhanh và không nhớ tên nhân vật làm gì :v Thực ra hồi xưa mình nhớ tên rất giỏi, sau thấy lãng phí bộ nhớ quá nên quay ra nhớ chi tiết thôi :)) Còn một điểm nữa là tên Nhật tuy rất dễ đọc và nhớ nhưng quên cực nhanh vì nó cứ na ná nhau. Bìa sách khá đẹp & lãng mạn khiến bạn nghĩ đó là ngôn tình (dahhh). Nội dung thì  như này (chi tiết hơn): – Tập hợp các truyện nhỏ xíu, có truyện chả có kết thúc, chỉ lửng lơ. Nhưng hợp lý đấy, các cô gái 31 lửng lơ là chuyện thường. Đọc xong quyển này mình càng nhận ra & dám chắc: có những thứ chỉ cần lửng lơ thôi, đừng có đoạn kết. Có đoạn kết rồi người ta sẽ mau quên, lửng lơ mới là cái nhớ mãi cả đời  Và, ai muốn nghe đoạn kết cuộc đời các cô gái 31 chứ, nó vẫn biến thiên liên tục, nó sẽ đổi như chảo chớp giống tâm lý nhanh cười nhanh khó của các cô vậy nên nó chả có đoạn kết luôn đâu mà chờ – ít nhất là trong khuôn khổ cuốn sách. – Có những ví dụ điển hình về nhân vật trong sách như sau: Có cô chả quan tâm gì đến đời sống, có cô bỏ hẳn nhà đi sau khi dỗi bố mẹ & mua một chiếc xe BMW rồi ngủ luôn trên đó mà không thuê nhà (việc tắm rửa các kiểu thì dùng phòng tắm của phòng tập gym cao cấp), có cô đi ngược lại nguyên tắc đời mình là không cặp kè với người đã lập gia đình, có cô đã làm mẹ rồi và khủng hoảng khi con trai cãi lại mình, có cô bị đá sau 5 năm yêu nhau và nuôi một con thỏ rồi nhận ra thỏ là loài có thể bị chết vì cô đơn.. Đại khái thế vì có quá nhiều câu chuyện nhỏ tập hợp trong đây  Dù sao mình cũng coi những mẩu chuyện này rất thực tế ấy :)) Bạn biết chứ, mình đã đọc rất nhiều những đoạn đầu (đoạn sau mình đoán được nên đếch thèm đọc nữa) xáo rỗng kể về một (hoặc một vài) cô gái xinh đẹp có sự nghiệp và giàu có nhưng bỏ việc đi theo đam mê, hoặc cứ phải là xinh, cứ phải là giàu rồi đau khổ.. Nên khi vớ được quyển này mình mới về với thực tế một tý :)) Thực tế là: như mình đây, 31, không thực sự xuất sắc, không thực sự xinh đẹp, không khéo léo nữa.. nhưng đó mới là cuộc sống thực tại chứ không phải cổ tích. Vì vậy, sẽ không có chỉ dẫn khoa học hay bằng chứng nào thể hiện là mình cứ tốt thì sẽ rút thăm được đoạn kết có hậu đâu, tất cả phải do mình cố gắng, nỗ lực hoặc dành lấy mới được! Vậy đó, sách chỉ đơn giản có vậy, nhưng nhận ra điều gì là do người đọc & hoàn cảnh của người ta lúc ấy  Còn mình, từ lâu rồi mình cũng đã dám chống nạnh quát thẳng vào những ai hay tọc mạch: 31 thì đã làm sao? 31 hay 41 cũng chỉ là một con số thôi mà  Bạn sống như nào, ăn mặc ra sao và có biết hưởng thụ tuổi trẻ không đó mới là điều quan trọng nhất! Điểm trừ duy nhất & khó chịu nhất: QUÁ – NHỀU – LỖI – CHÍNH – TẢ. Mình thích cuốn sách này  *** Fumio Yamamoto sinh năm 1962 ở Kanagawa, là tiểu thuyết gia đương đại nổi tiếng của Nhật Bản. Với giọng văn mộc mạc, sâu lắng và cũng đầy trải nghiệm, các tác phẩm của bà nhanh chóng nhận được sự yêu thích của độc giả trong và ngoài nước, có thể kể đến như "Bến bờ thơm mùi dứa", "Anh chắc chắn sẽ khóc", "Trúng độc yêu", "Không phải nơi khác mà ở ngay đây"… Năm 1999 bà đã vinh dự nhận được giải tương văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc. ”…Một mình lái xe trên đường quốc lộ giữa đêm khuya, tuy biết là uổng công vô ích, nhưng tôi vẫn hướng lên những vì sao và cầu nguyện: “Kiếp sau, xin hãy để tôi được làm giun dẹp.”   Tác phẩm: Xanh Một Màu Xanh Khác Trốn Thoát Khỏi Thực Tại 31 Tuổi Thì Đã Làm Sao? Trúng Độc Yêu .... Mời các bạn đón đọc 31 Tuổi Thì Đã Làm Sao? của tác giả Fumio Yamamoto & Vũ Hà Lan Hương (dịch).
Thông Minh Hơn, Nhanh Hơn, Giỏi Hơn
Tặng Harry, Oliver, Doris, John, Andy, và, trên tất cả, Liz! LỜI GIỚI THIỆU Câu chuyện về khoa học năng suất đã được bắt đầu vào mùa hè năm 2011, khi tôi nhờ người bạn của mình một việc. Khi đó, tôi sắp hoàn thành một cuốn sách về thần kinh học và tâm lý học của quá trình hình thành thói quen. Tôi đang bước vào các công đoạn cuối cùng, quay cuồng với quá trình viết − hàng loạt các cuộc điện thoại, viết lại trong hoảng loạn, rồi sửa đổi vào phút cuối − và cảm thấy như mỗi ngày mình bị tụt lại phía sau một xa hơn. Vợ tôi, người cũng làm việc toàn thời gian, vừa mới sinh đứa con thứ hai. Tôi là một phóng viên điều tra tại New York Times, ban ngày chạy theo những câu chuyện và đêm xuống gõ lại các trang sách. Cuộc sống của tôi là một guồng quay của những danh sách những việc cần làm, những e-mail cần trả lời ngay lập tức, những cuộc họp vội vã và những lời xin lỗi vì đến trễ. Giữa tất cả những cuộc chạy đua hối hả này − dưới chiêu bài xin một vài lời khuyên nhỏ về xuất bản − tôi đã gửi vài dòng cho tác giả mà tôi ngưỡng mộ, người bạn của một đồng nghiệp tại Thời báo New York. Tác giả 46 tuổi này dường như đã có tất cả mọi thứ. Ông là nhà văn của một tạp chí uy tín đồng thời là bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng tại một bệnh viện hàng đầu quốc gia. Ông là phó giáo sư tại Đại học Harvard, cố vấn của Tổ chức Y tế Thế giới và là nhà sáng lập tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các thiết bị phẫu thuật cho những vùng còn thiếu thốn về y tế trên thế giới. Ông đã viết ba cuốn sách − đều là các cuốn sách bán chạy nhất − đã kết hôn và có ba con. Năm 2006, ông đã được trao giải thưởng “Thiên tài” MacArthur* − và đã quyên tặng giải thưởng 500.000 đô-la để từ thiện. Một số người tỏ ra đạt được năng suất cao trong công việc, với bản lý lịch ấn tượng cho đến khi bạn nhận ra tài năng lớn nhất của họ chính là tiếp thị bản thân. Lại có những người, như tác giả này, dường như tồn tại trên một mặt phẳng khác mà ở đó họ gặt hái được nhiều thành tựu. Những bài báo của ông vừa sắc sảo vừa hấp dẫn, và như mọi người nói, ông là bác sĩ tài ba trong phòng phẫu thuật, nỗ lực vì bệnh nhân và là một người cha tận tụy. Bất cứ khi nào được phỏng vấn trên truyền hình hoặc đài phát thanh, ông đều tỏ ra bình tĩnh, thoải mái và sâu sắc. Các thành tựu của ông về y học, viết lách và sức khỏe cộng đồng đều rất quan trọng và thực tế. Tôi đã gửi e-mail cho ông để xin một cuộc hẹn. Tôi muốn biết làm thế nào ông có thể đạt được năng suất như vậy. Bí quyết của ông là gì? Và nếu học được nó, liệu tôi có thể thay đổi được cuộc sống của chính mình không? “Năng suất” có nghĩa khác nhau tùy từng bối cảnh. Một người có thể dành một giờ để tập thể dục buổi sáng trước khi đưa con đến trường và cho rằng hôm đó là ngày thành công. Người khác có thể dùng thời gian đó chỉ để nhốt mình trong văn phòng, trả lời các e-mail, gọi điện cho một vài khách hàng và cũng cảm thấy hài lòng. Một ngày cuối tuần năng suất rất khác một ngày làm việc năng suất. Năng suất, nói một cách đơn giản, là tên gọi cho những nỗ lực của mỗi người trong việc tìm ra những cách thức tối ưu để sử dụng năng lượng, trí tuệ và thời gian ít nhất có thể khi cố gắng đạt được điều gì. Nói cách khác, đó chính là hoàn thành công việc mà không phải hy sinh tất cả những gì chúng ta quan tâm. Tác giả ấy dường như đã giải quyết khá tốt việc này. Vì vậy, tôi đã gửi e-mail đến ông. Vài ngày sau, ông gửi e-mail lại bày tỏ sự hối tiếc. “Tôi ước tôi có thể giúp được anh,” ông viết, “nhưng tôi cũng đang rất bận.” Ngay cả ông dường như vẫn có những giới hạn. “Tôi hy vọng anh sẽ hiểu.” Cuối tuần đó, tôi đã nhắc đến cuộc trao đổi này với người bạn chung của chúng tôi. Tôi đã bày tỏ rõ ràng rằng tôi không thất vọng − bởi trên thực tế, tôi ngưỡng mộ sự tập trung của tác giả. Tôi tưởng tượng ra những ngày làm việc ông dành để chữa bệnh, giảng dạy sinh viên y khoa, viết báo và tham mưu cho tổ chức Y tế lớn nhất thế giới. “Không,” người bạn của tôi nói rằng tôi đã hiểu sai. Tác giả chỉ đột nhiên bận rộn trong tuần đó bởi ông đã mua vé tới một chương trình nhạc rock với các con. Và sau đó, ông có một kỳ nghỉ ngắn với vợ. Thực tế, tác giả đã nói với người bạn của chúng tôi rằng tôi nên gửi lại e-mail cho ông một lần nữa vào cuối tháng đó, khi ông có thời gian. Ngay lúc đó, tôi đã nhận ra hai điều: Thứ nhất, rõ ràng tôi đã làm điều gì đó sai vì tôi không nghỉ một ngày nào trong suốt chín tháng qua. Thực tế, tôi dần lo lắng rằng nếu được lựa chọn giữa cha chúng và người giữ trẻ, các con tôi sẽ chọn người giữ trẻ. Thứ hai, quan trọng hơn cả, có những người biết làm thế nào để năng suất hơn. Tôi chỉ cần thuyết phục họ chia sẻ những bí quyết đó với tôi. * * * Cuốn sách này là kết quả những cuộc điều tra của tôi về cơ chế hoạt động của năng suất và nỗ lực của tôi trong việc tìm hiểu lý do vì sao một số người và một số công ty lại đạt được năng suất cao hơn nhiều so với những người khác và những công ty khác. Kể từ khi liên lạc với một tác giả cách đây bốn năm, tôi đã tìm đến các nhà khoa học, các doanh nhân, các quan chức chính phủ và các chuyên gia về năng suất khác. Tôi đã nói chuyện với những người đứng sau bộ phim Frozen, và tìm hiểu cách họ tạo ra một trong những bộ phim thành công nhất trong lịch sử dưới áp lực về thời gian vô cùng lớn − và cách tránh được một bộ phim thảm họa trong gang tấc − bằng cách tích cực bồi dưỡng áp lực về sáng tạo cho đội ngũ của họ. Tôi đã nói chuyện với các nhà khoa học dữ liệu ở Google và các nhà biên kịch của Saturday Night Live1, những người nói rằng các nhóm ở cả hai tổ chức đạt được thành công, một phần vì họ đều tuân theo một chuỗi các quy tắc bất thành văn khuyến khích sự ủng hộ cũng như chấp nhận những rủi ro. Tôi đã phỏng vấn các đặc vụ FBI, những người nói với tôi rằng họ đã giải quyết một vụ bắt cóc nhờ vào các nguyên tắc quản lý linh hoạt và một văn hóa chịu ảnh hưởng từ một nhà máy ô tô cũ. Tôi đã lang thang khắp các sảnh của các trường công lập ở Cincinnati và thấy một sáng kiến cải thiện giáo dục đã thay đổi cuộc sống của các học sinh như thế nào bằng một cách, thật nghịch lý, đó là khiến thông tin trở nên khó tiếp thu hơn. Khi nói chuyện với mọi người − các nhà thần kinh học, những người chơi poker, các nhà tâm lý học, các phi công, các tướng lĩnh trong quân đội, các giám đốc điều hành và các nhà khoa học nhận thức – tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Tôi nhận thấy mọi người liên tục đề cập đến một số khái niệm. Từ đó, tôi tin rằng những ý tưởng này là cốt lõi, giải thích vì sao một số người và một số công ty lại đạt được nhiều thành tựu đến thế. Vì thế, cuốn sách này được chia thành tám chương, mỗi chương khám phá một ý tưởng có mức độ quan trọng khác nhau trong việc thúc đẩy năng suất. Một chương chia sẻ về việc làm thế nào cảm giác kiểm soát có thể tạo ra động lực, và làm thế nào quân đội có thể khiến những thanh niên không có định hướng trở thành những lính thủy quân lục chiến thực thụ bằng cách dạy cho họ những lựa chọn “thiên về hành động”. Một chương khác xem xét việc làm thế nào chúng ta duy trì được sự tập trung bằng cách xây dựng các mô hình tư duy − và các câu chuyện mà một nhóm phi công tự nhủ để ngăn chặn việc 440 hành khách rơi khỏi bầu trời. Các chương của cuốn sách này chỉ ra cách chính xác để thiết lập mục tiêu − bằng cách nắm bắt cả những tham vọng lớn và những mục tiêu nhỏ − và vì sao các nhà lãnh đạo của Israel bị ám ảnh bởi những mong muốn sai lầm khi cuộc chiến Yom Kippur đã cận kề. Các chương đưa ra tầm quan trọng của việc ra quyết định bằng cách hình dung về tương lai với rất nhiều khả năng chứ không phải bám víu vào những gì bạn hy vọng sẽ xảy ra, và một phụ nữ đã sử dụng kỹ thuật đó ra sao để thắng giải vô địch poker quốc gia. Các chương mô tả cách một số công ty hàng đầu ở thung lũng Silicon trở thành những gã khổng lồ bằng cách bỏ qua những lợi ích hấp dẫn và những nhà ăn đẹp đẽ − thay vào đó xây dựng văn hóa hỗ trợ nhân viên khi gặp khó khăn. Kết nối tám ý tưởng này là một nguyên tắc cơ bản mạnh mẽ: Năng suất không phải là làm việc nhiều hơn hoặc đổ mồ hôi công sức nhiều hơn. Nó không chỉ đơn giản là kết quả của việc dành nhiều thời giờ hơn ở bàn làm việc hay chịu những hy sinh lớn. Thay vào đó, năng suất là đưa ra những lựa chọn nhất định. Cách chúng ta lựa chọn để nhìn nhận bản thân và định hình các quyết định phải đối mặt hằng ngày; những câu chuyện chúng ta nói với các đồng nghiệp và các mục tiêu dễ dàng đạt được mà chúng ta bỏ qua; ý thức về cộng đồng mà chúng ta xây dựng giữa các thành viên trong nhóm; văn hóa sáng tạo mà chúng ta thiết lập khi lãnh đạo: Đây là những điều phân biệt sự bận rộn đơn thuần với năng suất thực sự. Ngày nay, chúng ta sống trong một thế giới mà ở đó chúng ta có thể giao tiếp với các đồng nghiệp bất cứ lúc nào, truy cập các tài liệu quan trọng bằng điện thoại thông minh, nắm bắt các sự kiện chỉ trong vòng vài giây và gần như bất kỳ sản phẩm nào cũng đều có thể được giao đến tận nơi trong vòng 24 giờ. Các công ty có thể thiết kế các đồ dùng ở California, thu thập đơn hàng từ các khách hàng ở Barcelona, gửi bản thiết kế qua e-mail tới Thâm Quyến và theo dõi việc giao hàng từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Các bậc cha mẹ có thể tự động đồng bộ hóa lịch trình của gia đình, thanh toán hóa đơn trực tuyến khi ở trên giường, nhờ một người lạ đi mua hàng tạp hóa và định vị điện thoại của con cái mình chỉ một phút sau lệnh giới nghiêm. Chúng ta đang trải qua một cuộc cách mạng kinh tế và xã hội sâu sắc, bằng nhiều cách, như những cuộc cách mạng nông nghiệp và công nghiệp ở các thời đại trước. Những tiến bộ trong truyền thông và công nghệ đáng lẽ phải khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Thay vào đó, dường như chúng lại đang lấp đầy một ngày của con người bằng nhiều công việc và áp lực hơn. Một phần vì chúng ta đã quá chú trọng đến những đổi mới sai lầm. Chúng ta chỉ chăm chăm vào những công cụ tạo ra năng suất, thay vì những bài học chứa đựng trong đó. Tuy nhiên, có một số người đã tìm ra cách làm chủ thế giới đang thay đổi này. Một số công ty đã phát hiện ra cách để tìm ra các lợi thế giữa những thay đổi chóng mặt này. Giờ đây chúng ta biết năng suất thực sự hoạt động như thế nào. Chúng ta biết những lựa chọn nào là quan trọng nhất và mang thành công đến gần hơn. Chúng ta biết làm thế nào để thiết lập các mục tiêu, để có thể thực hiện những mong muốn táo bạo; làm thế nào điều chỉnh lại các tình huống thay vì nhận ra các vấn đề, chúng ta chọn ra những cơ hội tiềm ẩn; làm thế nào để mở rộng tâm trí với những sự kết nối sáng tạo và mới mẻ; làm thế nào để học nhanh hơn bằng cách làm chậm lại dòng chảy dữ liệu thần tốc xung quanh chúng ta. Cuốn sách nói về việc làm thế nào để nhận ra những lựa chọn, vốn có khả năng tiếp thêm nhiên liệu cho năng suất đích thực. Đây là một cẩm nang về những nghiên cứu, những chiến thuật và những cơ hội làm thay đổi cuộc sống. Có những người đã học được cách để thành công hơn với ít nỗ lực hơn. Có những công ty tạo ra nhiều điều tuyệt vời hơn với ít sự lãng phí hơn. Có những nhà lãnh đạo đã thay đổi được những người xung quanh họ. Đây là cuốn sách nói về việc làm thế nào để trở nên thông minh hơn, nhanh hơn và giỏi hơn trong tất cả mọi việc bạn làm. − Charles Duhigg *** Huấn luyện cơ bản, Sự trỗi dậy của những lính thủy quân lục chiến và ý thức làm chủ Robert lên kế hoạch tổ chức sinh nhật lần 60 của mình bằng một chuyến đi kéo dài 29 ngày tới Nam Mỹ cùng vợ ông, bà Viola. Đầu tiên, họ sẽ tới Brazil và Chile rồi băng qua dãy Andes để tới Bolivia và Peru. Lịch trình của hai người gồm các chuyến tham quan những tàn tích của người Inca, đi thuyền trên hồ Titicaca, thăm chợ phiên bán đồ thủ công và đi xem các loài chim. Robert đã nói đùa với những người bạn trước khi đi rằng kỳ nghỉ này có vẻ không suôn sẻ. Ông cũng đã lường trước rằng sẽ phải gọi điện trao đổi công việc với thư ký của mình. Trong hơn nửa thế kỷ qua, Robert Philippe đã biến một trạm xăng nhỏ thành một đế chế sản xuất linh kiện ô tô ở vùng quê Louisiana nhờ sự cần mẫn, uy tín và tài xoay xở của mình. Ngoài công ty linh kiện ô tô, ông còn sở hữu một công ty hóa chất, một công ty cung cấp giấy và một công ty bất động sản. Giờ đây, ở độ tuổi 60, bà Viola đã thuyết phục ông gác lại công việc để dành một tháng đặt chân tới một vài đất nước, những nơi mà ông ngờ rằng khó tìm được một chiếc ti vi chiếu trận đấu bóng bầu dục giữa đội LSU và Ole Miss. Robert2 thường hay nói rằng chẳng có con đường đất hay ngóc ngách nào dọc suốt vùng bờ vịnh này mà ông chưa ghé qua để mở rộng kinh doanh. Cùng với việc phát triển Tập đoàn Philippe, Robert đã nổi tiếng khắp vùng vì kéo được những thương nhân thành thị từ New Orleans và Atlanta tới những quán bar tồi tàn và ngăn họ rời khỏi quán cho đến khi chén sạch những dẻ sườn và uống cạn chỗ rượu. Trong khi ai cũng chịu những cơn đau đầu vì rượu vào sáng hôm sau thì Robert sẽ thuyết phục họ ký những bản hợp đồng trị giá hàng triệu đô-la. Những nhân viên pha chế ở quầy bar luôn biết phải rót cho ông soda trong khi đó lại phục vụ cocktail cho những nhân vật quan trọng kia. Nhiều năm rồi Robert thậm chí còn chẳng đụng tới một giọt rượu nào. Ông còn là hội viên Đoàn các Thánh Tử đạo (Knight of Columbus) và Phòng Thương mại, (Chamber of Commerce) cựu chủ tịch Hiệp hội Bán sỉ Linh kiện ô tô Louisiana và Ủy ban cảng Baton Rouge, chủ tịch một ngân hàng địa phương, nhà quyên góp trung thành cho bất cứ đảng phái chính trị nào có khả năng cao sẽ cấp phép kinh doanh cho ông vào thời đó. “Anh chắc chắn chưa bao giờ gặp ai yêu công việc nhiều như ông ấy,” con gái ông, Roxann, đã nói với tôi như vậy. Robert và Viola đã lên kế hoạch cho chuyến đi tới Nam Mỹ này trong nhiều tháng. Nhưng khi họ hạ cánh ở La Paz, Robert bắt đầu cư xử lạ lùng, Viola cảm giác như chồng mình có vẻ say xỉn. Ông bước đi lảo đảo ở sân bay và phải ngồi xuống để thở ở khu nhận hành lý. Khi một đám trẻ con đến gần xin tiền, Robert ném mấy đồng tiền lẻ vào chân chúng và cười lớn. Trên ô tô về khách sạn, Robert bắt đầu nói to và cứ thế độc thoại dông dài về các nước ông đã đến và sự hấp dẫn của những phụ nữ ở đó. Viola nghĩ rằng nguyên nhân có thể là do độ cao. Ở độ cao 12.000 feet (hơn 4.000m) so với mực nước biển, La Paz là một trong những thành phố cao nhất trên thế giới. Về tới khách sạn, Viola nài nỉ Robert chợp mắt một lúc nhưng ông không chịu. Ông muốn ra ngoài đi lại. Trong một tiếng đồng hồ sau đó, ông đã diễu quanh thị trấn, mua một ít đồ nữ trang rẻ tiền và nổi cơn thịnh nộ bất cứ khi nào người bản địa không hiểu được tiếng Anh. Cuối cùng ông cũng đồng ý về khách sạn rồi ngủ thiếp đi, nhưng thức giấc liên tục vào buổi đêm vì nôn ói. Sáng hôm sau, ông cảm thấy đầu óc váng vất nhưng lại giận dữ khi Viola bảo ông nghỉ ngơi. Cả ngày thứ ba sau đó ông chỉ nằm một chỗ. Vào ngày thứ tư, Viola cho rằng thế là quá đủ và quyết định rút ngắn lại chuyến đi. Trở về nhà ở Louisiana, Robert cảm thấy khá hơn. Chứng rối loạn đỡ dần và ông cũng thôi nói năng linh tinh. Tuy nhiên, vợ con ông vẫn không khỏi lo lắng. Robert khá đờ đẫn và không chịu ra khỏi nhà trừ khi bị buộc phải đi. Viola những tưởng chồng mình sẽ lao đến văn phòng để tiếp tục công việc ngay khi trở về từ chuyến đi nhưng suốt bốn ngày sau đó, ông cũng không trao đổi nhiều với thư ký. Khi Viola nhắc ông rằng mùa săn hươu sắp đến và ông cần lấy bằng thì Robert nói ông định năm nay sẽ từ bỏ việc đó. Bà đã gọi cho một bác sĩ. Ngay sau đó, họ lái xe tới phòng khám Ochsner ở New Orleans.3 Vị trưởng khoa thần kinh, tiến sĩ Richard Strub, đã tiến hành một loạt xét nghiệm. Các dấu hiệu sinh tồn hoàn toàn bình thường. Kết quả kiểm tra máu không cho thấy điều gì bất thường. Không có dấu hiệu của nhiễm trùng, bệnh tiểu đường, đau tim hay có dấu hiệu đột quỵ. Robert hiểu rõ những gì báo chí viết hôm đó và có thể kể về tuổi thơ một cách rành rọt. Ông còn kể lại một truyện ngắn. Thang đánh giá Wechsler Adult Intelligence Scale** cũng cho thấy chỉ số IQ của ông ở mức cao. “Anh có thể kể về công việc kinh doanh của mình không?,” tiến sĩ Strub hỏi. Robert giải thích về cách tổ chức công ty và chi tiết một số hợp đồng họ vừa giành được. “Vợ anh nói rằng anh đang cư xử rất khác thường,” tiến sĩ Strub nói. “Ồ phải,” Robert đáp lại. “Gần đây tôi dường như không được nhanh nhẹn và nhiều năng lượng như trước.”   Mời các bạn đón đọc Thông Minh Hơn, Nhanh Hơn, Giỏi Hơn của tác giả Charles Duhigg.