Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thương Lượng Không Nhân Nhượng

Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Tích Cực Thay Đổi Cuộc Sống
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tư Duy Tích Cực Thay Đổi Cuộc Sống của tác giả Trần Đình Hoành. Với thông điệp Tư duy tích cực mỗi ngày, mỗi bài viết, mỗi chia sẻ của Tiến sĩ Trần Đình Hoành trên trang blog cá nhân bằng giọng văn một mạc, giản dị đã đi vào lòng bạn đọc và cứ từ từ thấm vào nhận thức, vào tư duy của các bạn trẻ, để từ đó ươm mầm những niềm tin, những ước mơ hoài bão và cả sự dấn thân với cộng đồng, xã hội. Mỗi ngày càng có nhiều bạn đọc hơn và rồi những bạn đọc đó lại trở thành những người viết, những người tiếp sức cùng anh trong việc truyền cảm hứng, truyền niềm tin yêu cuộc sống, gieo mầm những điều hay, điều tốt trong xã hội. Những bài viết của Tiến sĩ Trần Đình Hoành về tư duy tích cực không phải là những giáo điều khô cứng, máy móc, rập khuôn mà đó là chiều sâu tâm linh thuần kết hợp với văn hóa phương Đông. Chính vì vậy những chia sẻ của anh thuyết phục được số đông bạn trẻ và cả những người không còn trẻ. Bạn đọc cảm nhận ngay trong mỗi bài viết sự bảo ban, trao truyền kiến thức rất thông tuệ của một người thầy, sự khích lệ rất ân cần, ấm áp của người anh và sự thấu hiểu, chia sẻ rất gần gũi, thú vị của một người bạn. Từ bài viết của anh, bạn đọc dễ dàng hiểu được, cảm nhận và vận dụng vào bản thân để trở nên hoàn thiện hơn, tốt hơn và có ích hơn.  Được tập hợp và tổ chức lại từ ebook anh đã chia sẻ rộng rãi trên website của mình nhưng khi xuất bản cuốn sách Tư duy tích cực thay đổi cuộc sống vẫn thu hút được đông đảo bạn đọc và liên tục được Nhà xuất bản Phụ nữ in tái bản. Hiện tại cuốn sách đã in lần thứ 8 với gần 2 vạn bản in. Nhiều bạn đọc của trang web cá nhân đã quen thuộc với các bài trong cuốn sách vẫn tìm mua cuốn sách để giữ riêng cho mình và tặng bạn bè, người thân như một liều thuốc bổ cho tinh thần.  Đều đặn gieo hạt tốt mỗi ngày với quan niệm gieo hạt tốt để ai cũng được nhận phần trái ngọt, bản thân ta cũng có thể đang được nhận hạt tốt từ người khác, Tiến sĩ Trần Đình Hoành hài lòng khi được nhận “vitamin” mỗi ngày từ những lời cảm ơn, những lời phản hồi tích cực của bạn đọc. Và chắc chắn, anh đang góp phần giúp những bạn trẻ trưởng thành hơn, thành công hơn và có giá trị xã hội hơn bằng những bài viết tích cực của mình trên dotchuoinon và qua những trang sách.  Từng là Luật sư công tố liên bang Mỹ về luật chống độc quyền kinh tế, về tranh tụng thương mại và gần 20 năm gần đây hoạt động trong lĩnh vực đầu tư quốc tế; từng là một trong những sáng lập viên của tổ chức US-VN Trade Council nhằm hội tụ các đại công ty Mỹ thúc đẩy quan hệ ngoại giao Việt Mỹ; từng nhận bằng khen của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm trao tặng do “Có thành tích xuất sắc trong công cuộc xây dựng Tổ quốc”, cuộc sống của Tiến sĩ Trần Đình Hoành là những chuỗi ngày tất bật với rất nhiều hoạt động vì cộng đồng, xã hội; giữa thủ đô nước Mỹ xa xôi vẫn không ngừng hướng về quê hương.  Là tác giả của hai cuốn sách Tư duy tích cực thay đổi cuộc sống và 10 giá trị cốt lõi của thành công; Tiến sĩ Trần Đình Hoành xem việc viết sách là cơ hội để mình đến được với đông đảo bạn đọc hơn, đặc biệt là những người không có cơ hội tiếp cận với Internet. Mời các bạn mượn đọc sách Tư Duy Tích Cực Thay Đổi Cuộc Sống của tác giả Trần Đình Hoành.
11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates của tác giả Nguyễn Gia Linh. Quyển sách này là những bài học kinh nghiệm được Bill Gates đúc kết từ những kinh nghiệm của chính bản thân. Ông chỉ ra cho những bạn trẻ cách làm người như thế nào?; phải đối mặt với cuộc sống như thế nào?; làm thế nào để thành đạt trong cuộc sống, từ đó giúp họ tìm ra con đường đi vững chắc cho riêng mình, vượt qua những khó khăn trở ngại để từng bước tiến đến thành công. *** Đi lên từ bàn tay trắng, năm 20 tuổi, Bill Gates bắt đầu sự nghiệp của mình trong ngành công nghệ phần mềm. Năm 31 tuổi ông trở thành nhà tỷ phú trẻ nhất trong lịch sử (kỷ lục này về sau đã bị phá); năm 37 tuổi trở thành người giàu nhất nước Mỹ, đồng thời nhận được giải thưởng khoa học kỹ thuật quốc gia; năm 39 tuổi trở thành người giàu nhất thế giới. Sau khi có mặt trên thị trường cổ phiếu, Microsoft đã trở thành công ty có giá trị cao nhất trên thị trường toàn cầu; lợi nhuận thu được mỗi năm vượt qua tổng số lợi nhuận của 49 công ty phần mềm trong số 50 công ty phần mềm trên thế giới. Bill Gates đã trở thành đối tượng khiến mọi người trên thế giới - đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên kính nể và ngưỡng mộ. Bill Gates có thể thu hút được sự quan tâm của mọi người như vậy, nguyên nhân không chỉ nằm ở số tài sản của ông. Có người nghi ngờ sự thành công của Bill Gates, cũng có người gọi sự thành công đó là một thần thoại khó tin. Nhưng có một điểm không thể nghi ngờ, đó là: Bill Gates không dựa vào vận may để đạt được thành công, tập đoàn Microsoft của ông cũng không phải được xây dựng trên cơ sở của sự ngẫu nhiên. Bill Gates là một thiên tài máy tính, thiên tài quản lý, cũng là một thiên tài tinh thông về cuộc sống và công việc kinh doanh. Bill Gates cũng là một người bình thường giống như chúng ta, nhưng ông biết cách tận dụng ưu thế của bản thân để nắm lấy cơ hội và đạt được thành công, tiền bạc, danh vọng, địa vị... Đằng sau những thành công đó là những bí quyết, những bài học kinh nghiệm giúp ông đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã, là những nguyên tắc vàng mà ông đã tích lũy được; là sự ủng hộ về mặt tinh thần vào những thời khắc then chốt khi ông đang gắng sức để cứu vãn tình thế; đây chính là những tài sản vô hình quý giá hơn tiền bạc. Có một câu nói kinh điển: “Rất nhiều người nghĩ rằng cuộc sống được tạo ra từsự ngẫu nhiên và vận may. Thực ra không phải vậy, nó được tạo ra từ những quyluật và nguyên tắc”. Quy luật là nội hàm bản chất của sự vật, là nguyên tắc vàng cho sự thành bại hưng vong của sự vật. 11 lời khuyên của Bill Gates là những kinh nghiệm thành công và trí tuệ mà Bill Gates đã tổng kết được trong cuộc đời ông từ khi còn nhỏ cho tới lúc trưởng thành. Những lời khuyên chỉ cho lớp thanh thiếu niên cách sống, cách đối mặt với cuộc sống, cách hướng đến con đường thành công. Chúng ta cần thấy rằng, chỉ có chủ động khai thác, nắm bắt những nguyên tắc này mới có thể tìm ra được điểm tương thông giữa những người bình thường và những người vĩ đại, tìm ra con đường đáng tin cậy nhất để đi từ cái bình thường đến cái vĩ đại; từ đó vượt qua khó khăn trở ngại để từng bước tiếp cận thành công, hoàn thành sự nghiệp lớn! *** Tóm tắt 11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates là một cuốn sách chia sẻ kinh nghiệm của Bill Gates, một trong những người giàu nhất và thành công nhất thế giới. Cuốn sách gồm 11 chương, mỗi chương là một lời khuyên dành cho thế hệ trẻ. Trong chương 1, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên học hỏi và trau dồi kiến thức. Ông cho rằng, kiến thức là nền tảng quan trọng để thành công trong cuộc sống. Trong chương 2, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên suy nghĩ độc lập và có chính kiến của riêng mình. Ông cho rằng, mỗi người cần có suy nghĩ riêng, không nên chạy theo đám đông. Trong chương 3, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên dám dũng cảm và thử thách bản thân. Ông cho rằng, thành công chỉ đến với những người dám dũng cảm bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân. Trong chương 4, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách quản lý thời gian hiệu quả. Ông cho rằng, thời gian là tài sản quý giá, mỗi người cần biết cách sử dụng thời gian một cách hiệu quả. Trong chương 5, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách giao tiếp hiệu quả. Ông cho rằng, giao tiếp là kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta kết nối với mọi người và đạt được những thành công trong công việc. Trong chương 6, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách làm việc nhóm hiệu quả. Ông cho rằng, làm việc nhóm là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta đạt được những thành công lớn hơn. Trong chương 7, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách giải quyết vấn đề hiệu quả. Ông cho rằng, giải quyết vấn đề là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn và thử thách. Trong chương 8, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách lãnh đạo hiệu quả. Ông cho rằng, lãnh đạo là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta dẫn dắt và truyền cảm hứng cho mọi người. Trong chương 9, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách làm chủ bản thân. Ông cho rằng, làm chủ bản thân là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống, giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc và hành vi của bản thân. Trong chương 10, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách giúp đỡ người khác. Ông cho rằng, giúp đỡ người khác là một hành động đẹp, giúp chúng ta trở thành những người tốt đẹp hơn. Trong chương 11, Bill Gates khuyên các bạn trẻ nên biết cách sống hạnh phúc. Ông cho rằng, hạnh phúc là một trạng thái tinh thần, mỗi người cần biết cách tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình. Cảm nhận 11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates là một cuốn sách hay và bổ ích, mang đến cho độc giả nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Cuốn sách được viết bằng giọng văn giản dị, dễ hiểu, giúp người đọc dễ dàng tiếp thu những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Những lời khuyên của Bill Gates trong cuốn sách rất thực tế và có giá trị ứng dụng cao. Những lời khuyên này có thể giúp các bạn trẻ định hướng được bản thân, tìm ra con đường đi đúng đắn cho mình và đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách đặc biệt phù hợp với những bạn trẻ đang trong độ tuổi đi học và khởi nghiệp. Những lời khuyên của Bill Gates trong cuốn sách sẽ giúp các bạn trẻ có thêm động lực, tự tin và vững bước trên con đường phía trước. Đánh giá Cuốn sách được đánh giá 4/5* vì những điểm mạnh sau: Nội dung sách được tổng hợp từ những kinh nghiệm thực tế của Bill Gates, giúp độc giả tiếp thu được những thông tin hữu ích và có giá trị ứng dụng cao. Ngôn ngữ sách giản dị, dễ hiểu, giúp người đọc dễ dàng tiếp thu. Cuốn sách mang đến nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, giúp độc giả định hướng được bản thân và đạt được thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế sau: Một số nội dung trong sách chưa được cập nhật, phù hợp với tình hình hiện nay. Cuốn sách có thể chưa phù hợp với những người có độ tuổi trung niên hoặc cao tuổi. Mời các bạn mượn đọc sách 11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates của tác giả Nguyễn Gia Linh.
Tinh Thần Doanh Nhân Khởi Nghiệp Và Sự Đổi Mới
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tinh Thần Doanh Nhân Khởi Nghiệp Và Sự Đổi Mới của tác giả Peter F. Drucker.   Trong kinh doanh, mọi thứ sẽ thay đổi và nếu có một điều bất biến thì đó chính là sự thay đổi. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại nếu kịp đổi mới để thích ứng với sự vận động của nền kinh tế và những biến động của thị trường. Như thế có nghĩa bản thân khái niệm doanh nghiệp và doanh nhân đã hàm chứa sự đổi mới và là chủ thể của đổi mới, như nhan đề của cuốn sách này. Cách đây 60 năm có một cậu bé khởi nghiệp bằng nghề bán báo. Nhỏ bé và ốm yếu, để cạnh tranh, cậu ta phải nghĩ ra một cách làm khác. Thay vì gõ cửa, giao báo và lấy tiền rồi hoàn lại tiền thừa, cậu chỉ liệng tờ báo vào nhà này rồi nhanh chân chạy đến nhà khác. Sau khi giao hết báo, cậu ta mới vòng lại để lấy tiền. Khi công việc tiến triển tốt, có chút vốn, thì sau một tuần cậu mới đi thu tiền nhằm tránh phiền toái cho chủ nhà. Chỉ sau vài tháng, các đứa trẻ bán báo khác phải chịu thua và nhường cả khu phố đó lại cho cậu. Cũng trong những năm ấy, giữa mùa đông lạnh lẽo ở Paris có một gã ăn mày nằm phủ phục ở cửa nhà ga tàu điện ngầm với tấm biển đeo sau lưng “Tôi đói, làm ơn cho tôi ăn”. Người qua kẻ lại chắc cũng động lòng nhưng ít ai dừng lại cho gã vài xu, chỉ đơn giản vì trời quá lạnh khiến việc móc ví tiền và ở lại lâu hơn một phút ngoài trời trở nên phiền toái. Không chịu thua, vài ngày sau, khi không thể chịu nổi những cơn đói cồn cào trong giá lạnh, gã ăn mày bèn nghĩ đến việc thay một tấm biển khác “Ước gì Paris đừng có mùa đông”. Hiệu quả tức thì, thông điệp đưa ra như tìm được sự đồng cảm của nhiều người cũng đang co ro trong gió tuyết: “Mình ăn mặc thế này mà còn cóng thì gã kia sao chịu nổi”. Thế là chiếc lon đựng tiền của gã ăn mày trở nên nhỏ bé để có thể chứa hết những đồng tiền của người đi đường quăng vào. Cậu bé bán báo năm nào sau này trở thành chủ tịch tập đoàn Daewoo và một thời ông là thần tượng của giới trẻ Hàn Quốc. Còn gã ăn mày ít ai biết đó cũng trở thành triệu phú và được cho là “ông tổ” của nghề marketing khi phát minh ra một chiêu tiếp thị hướng vào khách hàng trong thời kỳ mà nền kinh tế trọng cung đang lên ngôi ở châu Âu, nơi chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp. Tại Việt Nam, chỉ sau hơn 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp đã có gần nửa triệu doanh nghiệp đăng ký hoạt động. Những năm gần đây, bình quân có khoảng 80 nghìn doanh nghiệp được thành lập mỗi năm và con số năm sau luôn cao hơn năm trước. Ra đời nhiều như vậy nhưng số thất bại chắc chắn cũng không ít, dù chưa có số liệu thống kê đầy đủ ở Việt Nam. Riêng ở Hoa Kỳ, thống kê cho thấy chỉ có 2/3 số doanh nghiệp mới thành lập tồn tại được hơn 2 năm và 44% trong số đó tiếp tục hoạt động được trên 4 năm. Có điều gì đó rất bí ẩn vì mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, nhưng lại có những người sẵn sàng hy sinh chừng ấy năm làm việc cật lực hoặc thậm chí đánh đổi một công việc ổn định, một sự nghiệp đang lên để dấn thân vào quá trình khởi nghiệp đầy gian nan, một tương lai đầy rủi ro, một kế hoạch kinh doanh còn quá nhiều yếu tố giả định. Người khởi nghiệp có phải vì tiền hay do muốn đóng góp cho xã hội? Họ tham vọng, đam mê quyền lực hay chỉ muốn khẳng định bản thân? Họ muốn giúp bạn bè và người thân hay chỉ vì tò mò muốn khám phá một thế giới mới lạ? Bất luận vì lý do gì, tôi thấy họ vẫn đáng được ngưỡng mộ. Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp là tinh thần đổi mới. Khởi nghiệp là đổi mới nhưng đổi mới phải có mục đích và có hệ thống mới dẫn đến thành công. Khái niệm khởi nghiệp không chỉ giới hạn ở việc thành lập một doanh nghiệp mới, thường có quy mô nhỏ mà bạn là ông chủ. Người khởi nghiệp có thể là giám đốc dự án; người chủ trì một dự án tái cấu trúc; người khởi xướng và thực hiện việc phát triển thêm một ngành dịch vụ hoặc sản phẩm mới trong một công ty hiện hành. Nếu bạn đã sẵn sàng mà không biết phải bắt đầu từ đâu, điều gì nên làm và không nên làm; nếu bạn là một nhà kỹ thuật am hiểu về thiết kế, chế tạo nhưng không biết liệu thị trường sẽ chấp nhận sản phẩm của mình hay không; nếu bạn vừa phải giải quyết những vấn đề nhức đầu hàng ngày vừa ấp ủ một dự tính táo bạo trong tương lai hay nếu bạn cho rằng khởi nghiệp đồng nghĩa với rủi ro và người khởi nghiệp là kẻ mạo hiểm… thì cuốn sách này sẽ giúp bạn hóa giải những vấn đề nói trên, giúp bạn hạn chế những “tai nạn khởi nghiệp” không đáng có và tự tin theo đuổi con đường mình đã lựa chọn. Bạn đang có trong tay một cuốn sách giá trị của Peter Drucker – người được coi là cha đẻ của ngành Quản trị Kinh doanh hiện đại ‒ về quản lý khởi nghiệp theo tinh thần đổi mới. Có thể nó chưa phải là cuốn cẩm nang chi tiết về thực hành quản trị, nhưng với các chủ doanh nghiệp thì ý tưởng bao giờ cũng quan trọng. Đi từ một ý tưởng, một nguyên tắc chung, mỗi người sẽ tự sáng tạo ra cách làm riêng của mình. “Người thành công không làm những điều khác biệt, họ làm mọi điều một cách khác biệt”. Chúc các bạn thành công! TP. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2011 LÊ TẤN PHƯỚC TGĐ CÔNG TY SEAREFICO *** Tóm tắt Cuốn sách "Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới" của Peter F. Drucker là một tác phẩm kinh điển về khởi nghiệp và đổi mới. Cuốn sách cung cấp cho độc giả những kiến thức và kỹ năng cần thiết để thành công trong kinh doanh, bao gồm: Cách tìm kiếm và xác định cơ hội đổi mới Cách phát triển một ý tưởng kinh doanh khả thi Cách xây dựng và quản lý một doanh nghiệp khởi nghiệp Review Cuốn sách được chia thành 6 chương, mỗi chương đề cập đến một khía cạnh khác của tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới. Chương 1: Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp Chương này giải thích khái niệm tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới. Drucker cho rằng tinh thần doanh nhân khởi nghiệp là khả năng nhìn thấy những cơ hội mới và phát triển các giải pháp sáng tạo để đáp ứng nhu cầu đó. Sự đổi mới là quá trình thực hiện các giải pháp đó. Chương 2: Tìm kiếm cơ hội đổi mới Chương này thảo luận về cách tìm kiếm và xác định cơ hội đổi mới. Drucker cho rằng cơ hội đổi mới thường nằm ở những nơi không ai ngờ đến. Để tìm thấy những cơ hội này, doanh nhân cần có sự tò mò, suy nghĩ sáng tạo và khả năng nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. Chương 3: Phát triển ý tưởng kinh doanh Chương này hướng dẫn doanh nhân cách phát triển một ý tưởng kinh doanh khả thi. Drucker cho rằng một ý tưởng kinh doanh khả thi phải đáp ứng được 5 tiêu chí: Giải quyết được một vấn đề hoặc nhu cầu thực tế Có thị trường tiềm năng Có thể thực hiện được Có lợi nhuận Có thể thu hút được nguồn lực cần thiết Chương 4: Xây dựng doanh nghiệp khởi nghiệp Chương này cung cấp cho doanh nhân khởi nghiệp những kiến thức và kỹ năng cần thiết để xây dựng một doanh nghiệp thành công. Drucker cho rằng doanh nghiệp khởi nghiệp cần có một kế hoạch kinh doanh rõ ràng, một đội ngũ nhân viên giỏi và một chiến lược marketing hiệu quả. Chương 5: Quản lý doanh nghiệp khởi nghiệp Chương này thảo luận về những thách thức và cơ hội khi quản lý một doanh nghiệp khởi nghiệp. Drucker cho rằng doanh nhân khởi nghiệp cần có khả năng thích ứng với sự thay đổi, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và có tinh thần cầu thị. Chương 6: Thành công và thất bại Chương này phân tích các yếu tố dẫn đến thành công và thất bại của doanh nghiệp khởi nghiệp. Drucker cho rằng thành công trong kinh doanh đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm và sự kiên trì. Đánh giá "Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến khởi nghiệp và đổi mới. Cuốn sách cung cấp cho độc giả những kiến thức và kỹ năng cần thiết để thành công trong kinh doanh. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cung cấp kiến thức và kỹ năng thực tế về khởi nghiệp và đổi mới Được viết bởi một chuyên gia hàng đầu về quản trị kinh doanh Dễ đọc và dễ hiểu Một số hạn chế của cuốn sách: Một số thông tin trong cuốn sách có thể đã lỗi thời Cuốn sách tập trung nhiều vào khía cạnh kinh doanh của khởi nghiệp Kết luận "Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới" là một cuốn sách kinh điển về khởi nghiệp và đổi mới. Cuốn sách cung cấp cho độc giả những kiến thức và kỹ năng cần thiết để thành công trong kinh doanh. Mời các bạn mượn đọc sách Tinh Thần Doanh Nhân Khởi Nghiệp Và Sự Đổi Mới của tác giả Peter F. Drucker.
Bí Quyết Của Các Tỷ Phú Tự Thân Lập Nghiệp
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bí Quyết Của Các Tỷ Phú Tự Thân Lập Nghiệp của tác giả John Sviokla & Mitch Cohen.   Bất cứ khi nào bạn thấy mình đang nằm trong số đông, đó là lúc bạn nên dừng lại và suy ngẫm. – Mark Twain Hãy thử tưởng tượng liệu Atari1 có thể đã đạt được những gì vào đầu những năm 1980 nếu như Steve Jobs vẫn tiếp tục làm việc tại công ty này để phát triển loại máy tính cá nhân phổ thông đầu tiên? Hay liệu Steve Case2 có thể làm được những gì cho PepsiCo nếu ông quyết định ở lại chứ không gia nhập công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực trò chơi điện tử mà sau này trở thành AOL? Liệu Redken3có trở thành nhãn hiệu chăm sóc tóc đầu tiên làm bùng nổ thị trường các sản phẩm chăm sóc tóc chất lượng cao nếu John Paul DeJoria – nhà đồng sáng lập John Paul Mitchell Systems, không bị sa thải vì phong cách tổ chức bán hàng khác thường của mình? Liệu Miles Laboratories có thành công nếu họ theo đuổi ý tưởng của Michael Jaharis4 – lúc đó còn là một luật sư trẻ – nhằm xây dựng thương hiệu và tiếp thị tích cực loại thuốc điều chế từ acetaminophen5 trước khi Tylenol trở thành cái tên quen thuộc của mọi gia đình? Điều gì sẽ xảy ra nếu Salomon Brothers6 giữ chân được Michael Bloomberg hay Bear Stearns7 tận dụng được những ý tưởng đột phá của Stephen Ross? Jobs, Case, DeJoria, Jaharis, Bloomberg và Ross, cũng như Mark Cuban8 – người sáng lập trang Broadcast.com, Mo Ibrahim9 – người sáng lập Celtel, hay T. Boone Pickens10 – ông trùm dầu khí cùng hàng chục doanh nhân xuất chúng khác, tất cả đều từng làm việc cho các doanh nghiệp có tên tuổi trước khi thành lập công ty của riêng mình. Một số do muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của các tổ chức lớn. Số khác bị buộc thôi việc. Tất cả đều đã trở thành các tỷ phú tự thân lập nghiệp. Họ đã xây dựng nên những doanh nghiệp – trong một số trường hợp là nhiều doanh nghiệp – hiện đã trở thành những thương hiệu tiêu biểu nhất. Tầm ảnh hưởng của những con người này, cũng như của khoảng 800 tỷ phú tự thân lập nghiệp hiện vẫn còn sống khác, rộng lớn đến nỗi có lẽ trên toàn thế giới chỉ có rất ít người có thể sống một ngày mà không sử dụng, nhìn thấy, hoặc bằng một cách nào đó tương tác với các sản phẩm và dịch vụ mà họ đã tạo ra. Nhưng nếu những con người sáng tạo giá trị xuất chúng này quyết định theo đuổi và hiện thực hóa những ý tưởng của họ ngay tại những doanh nghiệp từng thuê họ làm việc, thì những tổ chức ấy giờ đây sẽ ra sao? Hay nói một cách khác, tại sao những doanh nghiệp đó lại không thể tạo ra giá trị lớn theo cách mà những tỷ phú tự thân này đã thực hiện? Trong khá nhiều trường hợp, các tập đoàn lớn thật sự đã từng sở hữu những tài năng đúng nghĩa để làm điều đó – những tỷ phú tự thân này đã từng làm việc cho họ. Câu hỏi đó thực chất vẫn luôn thường trực trong tâm trí của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ngày nay – những nhà quản lý thông minh, giàu kinh nghiệm và thành đạt đang chứng kiến doanh nghiệp của mình bị những thay đổi quá nhanh chóng trong môi trường kinh doanh đẩy tới giới hạn. Trong môi trường đó, toàn bộ nền tảng cơ bản về cách thức xây dựng và duy trì giá trị đều ở trong trạng thái không ngừng thay đổi: Điều gì làm nên quy mô hợp lý? Đối thủ cạnh tranh của chúng ta là ai? Khách hàng của chúng ta là ai? Họ cần gì? Ai đang sở hữu cái gì? Rủi ro nằm ở đâu? Trong một cuộc khảo sát các Giám đốc Điều hành do PwC11 tiến hành gần đây, hơn một nửa số người trả lời dự đoán rằng họ sẽ cần thay đổi từng phần hoặc toàn bộ chiến lược của mình trong vài năm tới. Gần 70% trong số đó nói rằng vấn đề họ lo lắng là tài năng, và 25% đã không theo đuổi một cơ hội rõ ràng nào trong năm qua vì họ tin rằng mình không đủ tài năng để tận dụng nó.12Rất nhiều tỷ phú tự thân đã từng nắm giữ vị trí quản lý trong các công ty có quy mô từ trung bình đến lớn trước khi bắt đầu thành lập công ty riêng. Thực tế đó cho thấy những người trả lời khảo sát có thể đã nhận định sai về vấn đề này. Họ có tài năng nhưng không dành thời gian để xác định hoặc nuôi dưỡng nó. Tổng hợp các kết quả điều tra, nghiên cứu này cho thấy rõ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp không biết chắc mình sẽ đối phó như thế nào với thách thức phải liên tục tạo ra giá trị trong môi trường kinh doanh như hiện nay. Trong suốt sự nghiệp của mình, những nhà lãnh đạo này đã rất cẩn trọng nuôi dưỡng và khuyến khích các nhà quản lý phát triển óc suy xét sáng suốt của mình, tức khả năng nhìn nhận thế giới một cách khách quan và đưa ra những quyết định chiến lược khôn ngoan dựa trên thực tế. Năng lực phán xét này mang lại hiệu quả cao nhất khi luật chơi đã rõ ràng và mọi biến số đều có thể lường trước. Nhưng bạn sẽ làm gì trong một thế giới không ngừng thay đổi với các biến số không thể định trước? Để trả lời câu hỏi đó chúng tôi đã quyết định quan sát kỹ hơn các nhà lãnh đạo và doanh nghiệp đang phát triển rực rỡ trong kỷ nguyên của những thay đổi không ngừng. Bất chấp thách thức của thời đại, bất chấp sự thiếu tương xứng hiển nhiên giữa kỹ năng sẵn có và cơ hội lớn lao, vẫn có một nhóm người tạo ra giá trị với tốc độ và quy mô bùng nổ – họ là các tỷ phú đã tự thân lập nghiệp. Chúng tôi định nghĩa tỷ phú tự thân là những cá nhân có tài sản trên 1 tỷ đô-la từ hoạt động kinh doanh; kể cả những người được thừa kế một số nguồn lực tài chính hoặc một doanh nghiệp hiện hữu nhưng đã mở rộng giá trị nguồn lực đó lên gấp 100 lần hoặc hơn. Năm 2012, có hơn 800 tỷ phú tự thân trên toàn thế giới, chiếm tới hơn 2/3 số tỷ phú trên toàn cầu.13 Xét trên tổng thể, tài sản của họ còn tăng trưởng nhanh hơn toàn bộ nền kinh tế thế giới, tăng gấp ba lần từ 2% lên đến 7% GDP toàn cầu trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến năm 2012. Tại sao chúng tôi lại tập trung vào các tỷ phú tự thân? Bởi việc tạo ra giá trị hàng tỷ đô-la hoặc hơn thế quả thực là một kỳ tích đáng nể. Nếu bạn làm việc chăm chỉ và có tính kỷ luật, có thể bạn sẽ trở thành một kế toán hay luật sư xuất sắc. Nhiều năm cống hiến cùng một chút may mắn có thể sẽ đưa bạn lên vị trí thành viên hợp danh của PwC hay một công ty luật trứ danh nào đó, hoặc trở thành quản lý cấp cao của một công ty nằm trong danh sách Fortune 500. Cứ nỗ lực theo cách đó, bạn sẽ có cơ hội sở hữu nhiều triệu đô-la, nhưng cơ hội trở thành tỷ phú thì vẫn gần như bằng không. Có những con đường chắc chắn sẽ dẫn bạn tới sự giàu có, nhưng để trở nên cực kỳ giàu có thì không có con đường nào định sẵn. Các tỷ phú phải làm được điều thực sự khác biệt để sự giàu có của họ không ngừng gia tăng. May mắn cũng đóng một vai trò nhất định, nhưng vận may sẽ chỉ biến một ý tưởng trị giá triệu đô thành một triệu đô tương ứng. Trở thành tỷ phú đòi hỏi vận may và hơn thế nữa. Các tỷ phú tự thân gây dựng cơ đồ trong thế giới của những biến thiên không ngừng nghỉ. Dietrich Mateschitz, nhà sáng lập Red Bull, là một ví dụ. Ông đã cống hiến hết mình cho một loại thức uống mà ngay cả những người nghiện nó nhất cũng đồng ý rằng nó có vị giống như si-rô ho. Hay như Sara Blakely, cựu diễn viên hài độc thoại14/nhân viên bán máy fax, đã trở thành tỷ phú nhờ khao khát giải quyết rắc rối muôn thuở của phụ nữ là chiếc quần bó trong luôn thò ra khỏi gấu quần ngoài. Spanx, công ty dệt kim do Sara sáng lập để làm ra sản phẩm mà cô mong muốn, đã nhận được những lời khen tặng từ Oprah Winfrey. Sự tăng trưởng bùng nổ của nó diễn ra trong thời kỳ mà những gã khổng lồ dệt kim phải chứng kiến doanh thu của họ lao dốc không phanh. Hay Joe Mansueto, nhà sáng lập trầm lặng của Morningstar. Ở tuổi 23, anh đã buộc phải đọc qua hàng tá các bản cáo bạch của các quỹ đầu tư tương hỗ để có thể quản lý danh mục đầu tư cá nhân nhỏ bé của mình. Bị bao vây bởi hàng đống tài liệu, anh đã nghĩ: “Trời, mình có thể lập một doanh nghiệp để làm việc này luôn ấy.” Mateschitz, Blakely, Mansueto và hàng trăm người khác chính là những người đã sáng lập nên những doanh nghiệp đang tạo ra nhiều lợi nhuận nhất trên thế giới hiện nay. Khi quan sát các tỷ phú tự thân lập nghiệp kỹ lưỡng hơn, chúng tôi thấy rằng óc suy xét sáng suốt là phẩm chất mà tất cả họ đều sở hữu. Những con người đó luôn nhìn nhận thế giới một cách chân thực, đưa ra những lựa chọn khó khăn và đặt cược dựa trên những thực tế khắc nghiệt. Tuy nhiên, điều khiến họ thật sự trở nên nổi bật là óc xét đoán của họ luôn đồng hành với một tầm nhìn sáng tạo khác biệt. Nuôi dưỡng sự cân bằng giữa hai phẩm chất này là một nhiệm vụ đầy thử thách. Các kết quả nghiên cứu trong khoa học thần kinh cho rằng đối với hầu hết mọi người, óc xét đoán và trí tưởng tượng thường là hai cực trái ngược của một phổ trạng tâm thần (mental spectrum). Một người càng giỏi trong việc nhìn nhận sự việc như nó đang xảy ra (óc xét đoán) lại càng ít có khả năng nhìn nhận sự việc như nó có thể xảy ra (trí tưởng tượng).15 Thế nhưng bằng cách nào đó, các tỷ phú tự thân đã vô hiệu hóa được hai cực của phổ trạng tinh thần, nơi óc xét đoán và trí tưởng tượng luôn được đặt ở hai phía trái ngược nhau. Những cách thức và thói quen mà chúng tôi cho là chìa khóa giúp họ đạt được sự cân bằng đó chính là nội dung cốt lõi của cuốn sách này. Chúng sẽ gợi ý những bài tập thực hành mà các tổ chức cũng như cá nhân có thể ứng dụng để nâng cao khả năng sáng tạo ra giá trị của mình. Vậy đâu là nguồn gốc của hiệu ứng tỷ phú tự thân? Điều gì giúp họ tạo ra giá trị lớn lao đến vậy? Làm thế nào họ thoát khỏi sự đánh đổi hiển nhiên giữa óc xét đoán và trí tưởng tượng? Những kỹ năng, thói quen, kinh nghiệm sống hay tài năng nào đã giúp họ vượt lên trên số đông? Và quan trọng nhất, những hiểu biết này dạy cho chúng ta điều gì về những nhân tài mà chúng ta, với tư cách là nhà điều hành, cần tìm kiếm và nuôi dưỡng để tổ chức của mình tiếp tục phát triển trong những thời kỳ khó khăn? Chúng tôi sẽ bắt đầu trả lời những câu hỏi trên ngay trong Chương 1 của cuốn sách này. Chương này, chúng tôi sẽ trình bày những phát hiện cơ bản nhất của mình về những yếu tố khiến các tỷ phú tự thân khác biệt so với các nhà điều hành doanh nghiệp khác. Phát hiện này không chỉ khiến chúng tôi kinh ngạc mà còn thay đổi cả cách suy nghĩ của chúng tôi về những người có tài trong quản lý cũng như những điều chúng tôi cần tìm kiếm ở những tài năng mà chúng tôi có và nuôi dưỡng họ trong tổ chức kinh doanh của mình. *** Đánh giá Bí Quyết Của Các Tỷ Phú Tự Thân Lập Nghiệp là một cuốn sách thú vị và bổ ích, cung cấp cái nhìn sâu sắc về những kỹ năng và thói quen giúp các tỷ phú tự thân thành công. Tác giả John Sviokla và Mitch Cohen đã dành nhiều năm nghiên cứu các tỷ phú tự thân và rút ra một số phát hiện quan trọng. Cuốn sách bắt đầu bằng việc xác định hai phẩm chất quan trọng nhất mà các tỷ phú tự thân sở hữu: óc suy xét sáng suốt và tầm nhìn sáng tạo. Ôc suy xét sáng suốt giúp họ nhìn nhận thế giới một cách khách quan và đưa ra những lựa chọn khó khăn. Tầm nhìn sáng tạo giúp họ hình dung ra những điều mới mẻ và khác biệt. Sviokla và Cohen lập luận rằng, đối với hầu hết mọi người, óc suy xét sáng suốt và tầm nhìn sáng tạo là hai cực trái ngược của một phổ trạng tâm thần. Một người càng giỏi trong việc nhìn nhận sự việc như nó đang xảy ra lại càng ít có khả năng nhìn nhận sự việc như nó có thể xảy ra. Tuy nhiên, các tỷ phú tự thân đã có thể đạt được sự cân bằng giữa hai phẩm chất này. Cuốn sách tiếp tục khám phá các yếu tố cụ thể giúp các tỷ phú tự thân đạt được sự cân bằng này. Các tác giả đề cập đến một số kỹ năng và thói quen quan trọng, bao gồm: Khả năng đặt câu hỏi: Các tỷ phú tự thân không ngại đặt câu hỏi về những điều hiển nhiên. Họ luôn tìm kiếm những góc nhìn mới và thách thức những giả định hiện có. Khả năng suy nghĩ hệ thống: Các tỷ phú tự thân có thể nhìn nhận một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. Họ có thể hiểu được mối quan hệ giữa các yếu tố khác nhau và cách chúng tác động lẫn nhau. Khả năng chấp nhận rủi ro: Các tỷ phú tự thân sẵn sàng chấp nhận rủi ro để theo đuổi tầm nhìn của họ. Họ biết rằng thành công đòi hỏi sự mạo hiểm. Khả năng học hỏi và thích ứng: Các tỷ phú tự thân luôn học hỏi những điều mới. Họ biết rằng thế giới luôn thay đổi và họ cần phải thích ứng với những thay đổi đó. Cuối cùng, cuốn sách kết luận bằng việc thảo luận về những ứng dụng thực tế của những phát hiện của tác giả. Sviokla và Cohen đề xuất một số cách thức mà các tổ chức và cá nhân có thể sử dụng để phát triển các kỹ năng và thói quen giúp họ đạt được thành công. Bí Quyết Của Các Tỷ Phú Tự Thân Lập Nghiệp là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến việc phát triển bản thân và đạt được thành công. Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về những phẩm chất và kỹ năng cần thiết để thành công trong thế giới kinh doanh ngày nay. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về những kỹ năng và thói quen giúp các tỷ phú tự thân thành công. Các tác giả đã dành nhiều năm nghiên cứu các tỷ phú tự thân và rút ra một số phát hiện quan trọng. Cuốn sách cung cấp nhiều ví dụ thực tế về cách các tỷ phú tự thân đã áp dụng các kỹ năng và thói quen của họ. Cuốn sách có thể được áp dụng cho các tổ chức và cá nhân ở mọi cấp độ. Mời các bạn mượn đọc sách Bí Quyết Của Các Tỷ Phú Tự Thân Lập Nghiệp của tác giả John Sviokla & Mitch Cohen.