Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lan Hữu - Nhượng Tống

Khu vườn của Nhượng Tống Năm 1940, đúng mười lăm năm sau khi Song An Hoàng Ngọc Phách cho xuất bản Tố Tâm, Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân in Lan Hữu ở nhà xuất bản Lê Cường, Hà Nội, với "Lời tựa" của Lưu Trọng Lư. Giờ đây nhìn lại, ta chỉ có thể kinh ngạc khi thấy hai cuốn tiểu thuyết gần nhau đến thế về nhiều mặt lại có số phận khác nhau đến vậy. Cách tồn tại của Nhượng Tống ở trong hậu thế rất giống một nhà văn lớn khác cùng thời: Khái Hưng. Sau này cả hai vẫn sẽ được biết đến, nhưng chủ yếu là theo lối phiến diện. Văn nghiệp của Nhượng Tống thường chỉ được nhìn nhận qua các bản dịch (những bản dịch tuyệt vời như Nam Hoa kinh, Thơ Đỗ Phủ, Mái Tây tức Tây sương ký... nhưng cả ở mảng này người ta cũng ít biết Nhượng Tống còn dịch Ngọc Lê Hồn một cách trác tuyệt, chưa kể nhiều dịch phẩm khác nữa), trong khi ông còn là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia tài năng, về phần Khái Hưng người ta chỉ biết đến Hồn bướm mơ tiên hay Nửa chừng xuân và một số tác phẩm khác, trong khi Băn khoăn, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông, in năm 1943, mới thực sự là một kiệt tác. Rất có thể, toàn bộ mảng văn xuôi đồ sộ của văn chương tiền chiến Việt Nam chỉ có ba tiểu thuyết thực sự lớn, là Tố Tâm, Lan Hữu và Băn khoăn. Trong bộ ba ấy, chỉ mình Tố Tâm có được số phận tương đối xứng đáng với giá trị của mình. Nhưng lịch sử văn chương là câu chuyện của các giá trị, nếu không thì ta sẽ không có lịch sử văn chương. Cả Tố Tâm, Lan Hữu và Băn khoăn đều là những câu chuyện tình. Tố Tâm đã quá nổi tiếng với cốt truyện bi thảm của nó, Lan Hữu là cái nhìn đầy thương xót nhưng không kém phần tỉnh táo của một người trưởng thành nhớ lại mối tình xưa, còn Băn khoăn, với những câu chuyện tình ái lắt léo của nó, là cuốn tiểu thuyết Việt Nam xứng đáng nhất, và rất có thể cũng là duy nhất, của một giai đoạn suy đồi. Một cuốn tiểu thuyết được coi là lớn, là "giá trị" một cách toàn diện nhất, khi bên trong nó chứa đựng những điều kỳ diệu, giống như hạt mầm giấu kín ở đâu đó, sẽ hồi sinh và nảy nở mãnh liệt khi gặp được môi trường phù hợp và xứng đáng. Tố Tâm đã có một số phận như vậy, và giờ đã đến lúc chúng ta cần trả về đúng vị trí một tác phẩm khác, không kém phần kỳ diệu - Lan Hữu của Nhượng Tống. Đến nay, ngoài lần ra mắt năm 1940, nó mới chỉ tái xuất một lần duy nhất, tại nhà xuất bản Á Châu (Hà Nội) đầu thập niên 50, vài năm sau khi Nhượng Tống qua đời. Lan Hữu có thể được đọc trên ba phương diện: vì nó thuật lại rất trung thực một quãng đời tác giả, đây chính là một tài liệu quan trọng góp cho việc tìm hiểu tiểu sử Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, một tiểu sử mới chỉ được biết đến sơ sài, với rất nhiều chi tiết nhầm lẫn. Vì gia cảnh, Nhượng Tống phải bỏ học rất sớm vào năm mười tám tuổi, sau khi thân phụ qua đời (người cha bất đắc chí, tuy từng là "thủ khoa thành Nam", nhưng giữa một thời kỳ lịch sử u tối, đã chán chường mà chết: cái chết này được thuật lại rất cặn kẽ trong Lan Hữu). Vụ việc liên quan đến mấy mẫu đất gây thiệt hại lớn cho gia đình Nhượng Tống cũng được kể lại trong Lan Hữu. Đặc biệt, tác giả viết rất chuẩn xác về dòng dõi của mình: "nối dõi cái mạch thư hương của nhà tôi, truyền từ đời Lê cho đến bấy giờ". Nhượng Tống thuộc một gia đình rất thành đạt về học vấn suốt nhiều thế hệ, tiền nhân của ông từng là thầy dạy hai nhân vật lớn của "thành Nam" là Nguyễn Khuyến và Trần Bích San. Nhượng Tống bộc lộ tài năng văn chương rất sớm, mười sáu tuổi đã có bài đăng trên Khai Hóa (tờ báo của nhà tư sản Bạch Thái Bưởi), đúng như trong Lan Hữu có kể. Sự nghiệp báo chí của Nhượng Tống còn dài: vài năm sau Khai Hóa là đến giai đoạn cộng tác với tờ Thực nghiệp dân báo với yếu nhân Mai Du Lân; ngay sau đó, ông cùng vài người bạn lập ra Nam Đồng thư xã, in một số sách, tài liệu. Nhượng Tống là thành viên sáng lập của Việt Nam Quốc dân đảng, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học; vì được Nguyễn Thái Học giao nhiệm vụ ở Huế năm 1929 rồi bị mật thám Pháp bắt nên Nhượng Tống tình cờ mà thoát khỏi chuỗi án tử hình đẫm máu của thực dân đầu thập niên 30, trong đó chấn động hơn cả là "vụ Yên Bái", khi những người đồng chí thân thiết của ông như Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính bỏ mình dưới lưỡi dao máy chém. Thoát chết nhưng Nhượng Tống phải chịu cảnh tù đày ở Côn Đảo (trong Lan Hữu cũng có lúc ông ám chỉ chuyện này: "đày tôi ra Côn Đảo ba năm, tôi không sợ bằng đày tôi cửa chùa Thiên Trù suốt ba tháng hội") và tiếp theo là những năm dài bị quản thúc ở quê, định kỳ phải ra Phủ Lý trình diện mật thám. Nhượng Tống còn viết báo thêm vài năm từ sau 1945, ở các tờ như Chính nghĩa, Thời sự... ông mất năm 1949 ở Hà Nội. (Trong các tài liệu tra cứu phổ biến nhất hiện nay, ta thường đọc ở tiểu sử Nhượng Tống hai chi tiết: sinh năm 1897 và được thả từ Côn Đảo về năm 1936; hai chi tiết này đều sai, vì Nhượng Tống tuổi Bính Ngọ, sinh năm 1906 và sau các sự kiện của Việt Nam Quốc dân đảng, Nhượng Tống được thả khỏi Côn Đảo trước 1936 nhiều, bởi trước đó mấy năm ông đã lấy vợ ở quê nhà Ý Yên; các chi tiết này hiện nay đều còn lại văn bản để kiểm chứng). Trong Lan Hữu, Nhượng Tống buộc lòng phải giấu đi nhiều chi tiết để tránh kiểm duyệt của chính quyền (thế nhưng vẫn bị kiểm duyệt bỏ thêm nhiều chỗ). Chí khí cách mạng của ông có lẽ thể hiện đậm nét hơn cả trong Lan Hữu ở đoạn luận thơ với cha và bác (người bác thích Lý Bạch, người cha nhiều phẫn uất lại thích Lục Du); khi được hỏi, cậu bé Ngọc nhận là mình thích nhất thơ Đỗ Phủ, bởi: thơ ấy gồm "biết bao nhiêu bài tả những cảnh huống khổ nhục của đám dân nghèo. Mỗi khi con đọc, lại thấy như có đám người khố rách, áo ôm ấy kêu khóc ở bên tai, mà trong lòng thì uất ức muốn đứng phắt dậy... Thơ như thế mới thật là 'khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán'." Câu chuyện này cũng được Nhượng Tống kể lại bằng thơ, bài thơ ấy dùng làm lời tựa cho bản dịch Thơ Đỗ Phủ in năm 1944, sau Lan Hữu bốn năm; đoạn đầu của bài thơ như sau: Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ Trong thơ thích riêng thơ Đỗ Phủ. Một hôm thầy tôi hỏi: "Tại sao?" Đứng dậy chắp tay tôi sẽ ngỏ Rằng: "Tại thơ ông là đời ông: Lạ, đẹp, hùng tráng mọi vẻ đủ, Mà còn chan chứa một lòng thương Những kẻ nghèo nàn, phường xấu số. Vì tấm lòng ấy nên nhiều khi Đối với quan lại với vua chúa Ông thường chê trách, thường mỉa mai, Không thèm nịnh hót, không xu phụ. Ngoài một thiên tài hiếm có ra, Ông còn một tâm hồn hiếm có..." Nghe xong, thầy tôi gật đầu cười Dạy rằng: "Ồ! mày thật con bố! Thế nhưng bất lợi ở thời này! Rồi đó xem: Đời mày sẽ khổ!" Lan Hữu lại có thể được đọc như một sự "chuyển dịch cốt truyện" Hồng Lâu Mộng vào khung cảnh Việt Nam, với hai điều rất dễ thấy: đại quan viên của Vinh phủ trong Hồng Lâu Mộng được chuyển về tỉnh Thái Bình, trong khi mối tình tay ba Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa được tái hiện trong mối quan hệ của (Lương) Ngọc, (Mai) Hữu và Lan. Nhượng Tống chọn cho nhân vật của mình cái tên "Ngọc" với rất nhiều chủ ý. Nó rất gần với tên thật của ông nhưng ngay lập tức cũng gợi đến Giả Bảo Ngọc, và Ngọc của Lan Hữu cũng mau chóng nhắc thẳng tới Hồng Lâu Mộng (thông qua Thạch đầu ký), và cụ thể hơn, bài thơ "Khóc hoa" nổi tiếng mà Ngọc dùng để dò xem Hữu có yêu mình hay không. (Lan Hữu, qua chuyện Ngọc dịch "Táng hoa từ", nhắc ta nhớ đến Nhượng Tống trong vai trò một dịch giả kiệt xuất. Giai đoạn rực rỡ nhất của sự nghiệp dịch thuật Nhượng Tống là mấy năm trước 1945, chủ yếu in ở nhà xuất bản Tân Việt với ông chủ Lê văn Văng là một người thân tình với ông. Tính riêng "Lục tài tử thư" do Kim Thánh Thán bình chọn, ông đã dịch ít nhất năm: Nam Hoa kinh, Ly Tao, Sử ký, Thơ Đỗ Phủ, Mái Tây (Tây sương ký). Có tài liệu cho biết Nhượng Tống từng dịch cả Hồng Lâu Mộng, Đạo đức kinh, thậm chí cả cuốn thứ sáu của "Lục tài tử thư" là Thủy hử. Trước đó, cuối thập niên 20, ông cũng đã dịch Ngọc Lê Hồn của Từ Chẩm Á với nhan đề tiếng Việt Dưới hoa cùng một số tác phẩm nhỏ khác. Riêng năm 1945, ông in ít nhất ba cuốn sách: Nguyễn Thái Học, Tân Việt Cách mệnh đảng và Hỗ trợ. Thảo luận - đây là thời điểm Nhượng Tống chứng tỏ vai trò sử gia và nhà bình luận chính trị-xã hội của mình. Từ 1945, Nhượng Tống còn viết vài vở kịch, dịch một ít Liêu Trai chí dị và tác phẩm Hương ngọc; dùng bút danh Mạc Bảo Thần để dịch Đại Việt sử ký toàn thư và Lam Sơn thực lục. Ông còn giúp Thi Nham Đinh Gia Thuyết hiệu chỉnh và dịch thêm Ức Trai tập - tác phẩm mới chỉ ở dạng bản thảo. Trước tác của Nhượng Tống còn rải rác trong một số tuyển tập giờ đây ít người được biết đến như Tản văn mới của "Thư viện Tố Như" trước 1945; thơ của ông từng được Trúc Khê Ngô văn Triện bình luận trên Văn học tạp chí và xuất hiện không ít trong Thi thoại của Văn Hạc Lê văn Hòe in năm 1942; một nhà phê bình văn học nổi tiếng từng bình luận về văn chương Nhượng Tống là Vũ Ngọc Phan miêu tả văn chương ấy "tài hoa lãng mạn"). Bởi vì trước hết là những bông hoa: "Nguyên từ bé tôi đã có tính yêu hoa", ngay ở đầu cuốn sách, Nhượng Tống đã viết như vậy. Lan là tên một loài hoa, còn Hữu có tên đầy đủ là "Mai Hữu", cũng liên quan đến một loài hoa khác (ngay câu chuyện tình với hai cô gái trong đó một là họ hàng cũng từng xảy ra trong đời thật Nhượng Tống). Tình yêu hoa xuất phát từ tình yêu đối với người ông qua đời năm Ngọc mười bốn tuổi, một người rất gắn bó với cậu bé trong một thời gian dài: "ngoài sự sợ, tôi cũng yêu ông tôi và yêu cả những cây hoa mà ông tôi yêu. Là vì ông tôi yêu thứ hoa nào, lại cắt nghĩa cho tôi biết tại sao mà ông tôi yêu. Và tôi khi ấy, ông tôi nói gì tôi cũng cho là phải cả. Những khi tôi theo ông tôi ra vườn, lại được nghe ông tôi kể cho nghe các chuyện cổ tích về hoa. Nào chuyện Võ Tắc Thiên bắt hoa đi đày, nào chuyện Đường Minh Hoàng giục hoa phải nở. Nào vô số những chuyện hoa hóa ra người, người hóa ra hoa. Nghe nhiều những chuyện ấy, tôi thành ra coi các hoa trong vườn đều là những người bạn có cảm giác như tôi, chỉ kém tôi cái biết đi và biết nói". Nhiều khi ta tưởng như tình của Ngọc nồng nàn nhất là với các loài hoa, thậm chí còn hơn tình của Ngọc với Lan và Hữu; để tang cuộc tình suốt mấy năm trời, Ngọc đặt trước ảnh họ lọ hoa để thờ, và những câu văn đẹp nhất trong Lan Hữu là dành cho hoa: "Dưới trăng, các cây hoa hiện ra trước mắt tôi như những mặt bạn thân, vắng mấy ngày mới lại gặp", hoặc khi gặp lại Hữu trên Phú Thọ: "Dưới ánh trăng tà, các cây hoa trồng trong các chậu in bóng cành bóng lá xuống đầy sân. Tôi ước ao lại được cùng Hữu ngồi đôi nói chuyện ở giữa cảnh vườn xuân". Mối sầu tình của Ngọc trong Lan Hữu cũng có yếu tố họ hàng như cuộc tình duyên bi lụy của Hồng Lâu Mộng. Hoa và tình, nhưng cũng thêm cả mộng nữa: ít có tiểu thuyết Việt Nam nào tả mộng nhiều và hay như Lan Hữu. Về sau, cuộc tình không còn là thực nữa, chỉ là mộng mà thôi: "Trong mộng, tôi với họ cùng sống cuộc đời êm ái năm xưa. Trong mộng, nhan sắc của họ càng thêm rực rỡ, câu chuyện của họ càng thêm thơ ngây". Lan Hữu "viết lại" Hồng Lâu Mộng theo một cách thức chưa từng có, không khỏi làm ta liên hệ tới những gì mà Nguyễn Du từng làm với Kiều. Và tất nhiên, trước hết, Lan Hữu cần được đọc cho chính nó, với chính nó. Câu chuyện của Lan Hữu rất ý vị và không hề đơn giản. Nó lại được viết một cách hết sức chín chắn, bởi con mắt hồi cố của một người đã trải đời nhìn lại tuổi hoa niên thơ mộng. Ngọc không phải là Đạm Thủy của Tố Tâm, vì Ngọc ý thức rất rõ sự phi lý của tình duyên, thậm chí đến cả tính chất vớ vẩn của những mối tình thơ trẻ. Nhưng vẫn có đó nỗi ngậm ngùi khôn nguôi: "Tuy trong khi yêu ấy tôi đă tốn bao nước mắt, bao tiếng thở dài, cùng chịu bao mối cảm xúc mệt người, năm mười sáu tuổi, tôi nhìn lại vẫn là một năm có hạnh phúc"; hạnh phúc ở tuổi mười sáu là điều được Nhượng Tống nêu lên ngay từ đầu Lan Hữu, và sẽ được lặp lại nhiều lần trong suốt tác phẩm. Khởi đi là nỗi bàng hoàng của tình yêu đầu đời, càng bàng hoàng hơn vì nhận ra cùng một lúc mình yêu cả hai người con gái: "Tôi bắt đầu cảm thấy cuộc đời phiền phức vô cùng", và nảy sinh một khát vọng rất trẻ con: "Người tôi yêu chẳng phải là người tri kỷ, mà người tri kỷ lại chẳng phải là người tôi yêu! Tôi ước ao có thể hợp cả Lan lẫn Hữu làm một người". Hữu, cô em họ, xuất hiện trước, đó là mối tình đầu tiên, nên khi có thêm Lan, thoạt tiên với Ngọc, tình cảnh là: "Vướng có Lan, tôi mất cả tự do yêu Hữu", nhưng dần dần Ngọc nhận ra Lan có những điều mà Hữu không hề có, "[h]uống chi Lan yêu tôi có khi còn hơn Hữu: Lan còn biết thương cái tài của tôi nữa. Ở đời, được một người yêu mình, biết mình cũng khó lắm chứ!" Không chỉ là bạn thanh khí với Ngọc, Lan còn là tri kỷ, lại có một tấm lòng yêu tường chừng như mù quáng; Lan cũng là một con người quyết liệt, như thể sẵn sàng chống đối mọi ràng buộc gia đình, xã hội để được yêu Ngọc. Trước mối cuồng tình như vậy, một cậu bé mười sáu tuổi đầy nhút nhát khó có thể thoát được mảnh lưới đã buông, cho đến lúc phải bật ra ý nghĩ: "tôi vẫn tin ái tình chuyên nhất mới thật là ái tình, mà nay tôi tự trông thấy trái tim tôi chia đôi cho Lan và Hữu". Nhìn lại một cách tỉnh táo, pha rất nhiều "vỡ mộng", nhưng tài năng tiểu thuyết của Nhượng Tống nằm ở chỗ ông vẫn thổi được vào câu chuyện lẽ ra không mấy đặc sắc một tấm màn vi diệu của tình cảm, của lòng thành thực yêu mến tuổi trẻ; giọng văn đầy tiết chế, nhiều khi lạnh lùng, thiên hẳn về hướng phân tích, lại càng làm nổi bật lên một tâm hồn yêu đương nồng cháy, lẫn vào với những dằn vặt nội tâm không ngừng, thậm chí còn nhiều khi đi tới chỗ tự khinh bỉ chính mình. Tâm hồn ấy cũng có thể rất lạ: khi mới đến một khu vườn mới, thỏa lòng mong mỏi được kề cận với những bông hoa, trong lòng Ngọc nảy ra một ý nghĩ: "Thiếu giai nhân, tôi đành mong được gặp hồ, gặp quỷ như những anh chàng nào trong truyện Liêu Trai". Cái tâm hồn Á Đông đa tình trộn lẫn với huyền hoặc này, thỉnh thoảng ta mới thấy, một cách kỳ diệu, ở một số tác phẩm văn chương Việt Nam, chẳng hạn như khi Đinh Hùng viết những câu thơ: Có những bông hoa, tiền thân là thiếu nữ Những mùi hương rạo rực hiện hình người Hương công chúa và men say hoàng tử Cánh bướm thời gian treo võng tóc buông lơi Lan Hữu là cả một bầu trời huyền hoặc của tình tuổi trẻ được Nhượng Tống, sau khi đã thấm thìa rằng "đời là một cuộc đổi thay, muôn sự, muôn vật ở trên đời, nào có cái gì là vĩnh viễn", thuật lại một cách kỳ diệu. Dau câu chuyện này, đúng như Lưu Trọng Lư đã nhìn ra khi viết lời tựa cho bản in 1940, là chuyện mà ai cũng có, ai cũng giấu đâu đó trong ngóc ngách ký ức mình, thì cách kể của Nhượng Tống, bởi nó thu gom được những tinh túy của Hồng Lâu Mộng lẫn những gì mà chỉ mình tâm hồn Nhượng Tống mới có, vẫn còn gây rung động mãnh liệt ở độc giả sau đến ba phần tư thế kỷ. Lan Hữu chính là một khu vườn, khu vườn ngôn từ của nhà nghệ sĩ Nhượng Tống, cho đến giờ vẫn không hề cũ kỹ, thậm chí còn mới mẻ đến bất ngờ, và đó cũng là một khu vườn hoa, nhưng là một khu vườn không hề tầm thường, nơi in dấu hạnh phúc và cũng chứa đựng biết bao nhiêu thương xót của một dĩ vãng: "Kìa cảnh vườn hoa, tôi không dám bước chân ra nữa: Đấy là nơi nghĩa địa đã vùi xương [cái "tôi" mơ mộng và sung sướng]". Khu vườn ấy xứng đáng được những tâm hồn đồng điệu viếng thăm với lòng ngưỡng mộ chân thành. Cao Việt Dũng *** Lời tựa (cho ấn bản 1940) Người đề tựa với tác giả là chỗ thân tình, nhưng không phải vì cớ ấy mà tán hươu tán vượn, vẽ rồng vẽ rắn vào cuốn sách. Người đề tựa cũng không phải là cốt để giới thiệu ông Nhượng Tống với độc giả. [...] Quyển Lan Hữu chính là một trong những tập văn của Nhượng Tống viết trong thời gần đây. Một cuốn tiểu thuyết tình không hơn, không kém. [...] Nhượng Tống, trong một thuở, đã có những rung động tưng bừng, trong sáng hay âm u mà nay anh cứ việc chép lại, qua ký ức. Người ta trong một đời, ai lại không có một câu chuyện tâm sự để thuật lại hay để chép ra. Nhưng cả cái giá trị, cả nghệ thuật là ở sự kể lại mà thôi, chứ thực ra, những câu chuyện của người ta đều na ná giống như nhau cả: cũng chỉ là những bản đàn thiên cổ - tuy có đổi xoang, đổi điệu mà vẫn là những bản xưa, đã giấu ở trong lòng người, cái lòng người duy nhất, không xứ sở không kim cổ. Lan Hữu cũng chỉ là cái mộng - hay những cái bóng mộng ở trong giấc ngủ tưng bừng của các người niên thiếu, ở đây, cũng như ở trong các giấc mộng khác của người niên thiếu, người ta cũng vẫn tìm thấy ở trong, cái rộn rực, cái quằn quại, cái bâng khuâng: sự chia ly ở trong tâm hồn, ở trong cuộc đời. Nhưng mộng đẹp đến đâu, rồi cũng tàn, và chì để lại cho người ta một chút thương tiếc ở trong lòng hay đầu lưỡi. Mối tiếc thương ấy, ở văn nhân, thành gần như là một duyên nợ cả đời. Người ta lúc nhỏ ai cũng có một điều buồn não, một chuyện thương tâm. Cái buồn ấy ở một vài người thường thường mỗi năm về một lần... giống như cái cuộc du lịch hằng năm của các con chiên về đất Thánh. Truyện Lan Hữu chính là cái buồn hằng năm của người ta, đã về theo một ngọn gió đầu thu hay cuối hạ. Lan Hữu cũng là một ngọn gió hằng năm đến gợi dậy ở trong lòng ta những hình bóng âm u của một chuyện cũ - mà ai ai lại chẳng có một câu chuyện như thế...? Đó chỉ là như lời Baudelaire đã nói: Một giấc mộng nồng nàn dệt xe trên gối kẻ thiếu niên. Vì thế, Lan Hữu là cuốn sách của mọi người... Nhưng không phải là một cuốn sách tầm thường: tác giả đã cho nó một sức mạnh huyền diệu khiến cho ta không thể ngừng lại một quãng nào ở trên quyển sách. Ta chỉ muốn đọc nhanh đi cho chóng hết, để hưởng thú gấp sách lại. Tất cả giá trị, tất cả tài nghệ của cuốn sách là ở chỗ này: tác giả là một người kể chuyện rất khéo, khiến cho một câu chuyện của mình mà người tưởng như của người, một câu chuyện rất bình thường mà tưởng như rất mới lạ, một giấc mộng hằng ngày ở bên gối, mà tưởng như xa vời ở trong một trời nước xa xôi... Vì tác giả là một nhà tiểu thuyết xứng với danh nghĩa ấy. Và đó chỉ mới là sự bắt đầu... Lưu Trọng Lư Mời các bạn đón đọc Lan Hữu của tác giả Nhượng Tống.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto
  AudioBook Mùa Thu của Cây Dương   Việc cầm một cuốn sách trên tay và đọc nó đem lại cho bạn nhiều thi vị hơn là đọc sách qua màn hình máy tính nhờ ebook hay các trang web đọc sách trực tuyến. Tôi còn nhớ mãi cái cảm giác của mình khi đọc “Mùa thu của cây dương” vào những ngày tết vừa rồi. Đó là một ấn tượng đặc biệt tới từ trang bìa bắt mắt hình thảm lá rơi vàng rực, từ mùi thơm nhẹ nhàng của bookmark kẹp trong trang giấy, từ cuốn sách nhỏ chỉ dày hơn 200 trang mà tôi có thể cầm trong tay hay để gọn nơi đầu giường vào mỗi đêm sau khi đọc.        Nhưng điều cuốn hút nhất của một cuốn sách bao giờ cũng đến từ chính câu chuyện và thế giới ngôn ngữ của tác giả. “Mùa thu của cây dương” với tôi cũng vậy. Truyện mở ra trước mắt tôi một thế giới đậm chất Nhật Bản với không khí u nhã đặc trưng.        Gấp sách lại, bạn sẽ nhớ khu trang viên cây dương ngập sắc vàng vào mùa lá rụng, những căn phòng đơn sơ nơi hằng ngày những con người chất phác vẫn sinh hoạt, trò chuyện và dành tặng nhau bao điều ấm áp của cuộc sống, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Nhân vật trung tâm của câu chuyện – cô bé Chiaki đã lớn dần lên cùng với cây dương, cái cây mỗi thu, đông sang hay mỗi lúc xuân về đều thủ thỉ cùng chuyện trò; với sự chăm sóc của mẹ và bà cụ, sự gần gũi của cô Sasaki, anh Osamu hay sự đôn hậu của bác Nishioka. Cứ thế, những con người này lặng lẽ cũng nhau chia sẻ bao nhiêu vui buồn của cuộc sống, mặc năm tháng trôi đi. Trang viên cây dương như một nơi để người ta quên đi rằng thời gian vẫn chảy ở bên ngoài.        Đọc truyện, người đọc có dịp ngẫm suy sâu hơn về sự sống và cái chết. Truyện mở đầu bằng cái chết của bố Chiaki, kết thúc bằng cái chết của bà cụ. Suốt dọc câu chuyện là nỗi hoang mang ngây thơ của cô bé Chiaki về cái chết, cô sợ cái chết sẽ giống như một cái hố đen ngòm một ngày nào đó sẽ lôi tuột mình và người thân xuống đó, cô sợ lúc ngăn tủ đựng thư của bà cụ đầy chặt cũng là lúc bà sẽ phải qua đời để làm nhiệm vụ chuyển những bức thư cho người chết. Thế nhưng, cách Kazumi Yumoto nói về cái chết không gây cảm giác sợ hãi ở người đọc. Nỗi hoang mang vẩn vơ của cô bé rồi đây sẽ được bà cụ giúp giải tỏa. Sống trong tình cảm ấm áp của mọi người, Chiaki dần quên đi những sợ hãi, âu lo. Vì thế kết lại bằng cái chết, nhưng câu chuyện vẫn để lại một dư âm gì đó thật sáng tươi.        Con người không thể trốn chạy khỏi sự thật về cái chết, nhưng chúng ta có thể xua đi ám ảnh về nó và làm cho những ngày ta đang sống đẹp thêm, ý nghĩa hơn nhờ một thứ phép màu, đó chính là YÊU THƯƠNG.        Cùng với niềm vui của giây phút hồi hộp mở cuốn sách ra, giờ đây tôi có thêm niềm vui khi gấp sách lại mà vẫn thấy ấm áp, tựa như có một thứ ánh nắng đang chiếu vào tâm hồn mình từ những tán lá dương có màu của mùa thu. Nguồn: facebook        Trong cuốn sách này, các nhân vật đều quan tâm và chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt, giản đơn nhưng đặc biệt ấm áp. Cốt truyện giản đơn, nhưng tác giả Kazumi Yomoto đã cuốn độc giả vào một không gian tinh tế, như khi Chiaki nhổ cỏ cùng bà cụ chủ nhà, bà thường lén bỏ một ít cỏ vào giỏ của cô bé để em khỏi xấu hổ về việc mình nhổ được ít; khi bà cụ ăn vận kimono đẹp đẽ sang trọng để đi xin lại việc cho bác hàng xóm; hay khi bà cụ đã láu cá bịa ra đủ thứ chuyện với mọi người…      Với giọng điệu dịu dàng, lời văn đẹp, giàu chất thơ, lồng ghép những triết lý nhẹ nhàng, sâu sắc, “Mùa thu của cây dương” thực sự đã mang đến một cách cảm, cách nghĩ đậm chất phương Đông. Trích Mùa thu của cây dương: Giản dị mà day dứt mãi - Đinh Phương Linh Nguồn: Website: www.kienthuc.net.vn (http://kienthuc.net.vn/)              Không cầu kì, kiểu cách, không đao to búa lớn, “Mùa thu của cây dương” cũng nhẹ nhàng như một chiếc lá dương vàng óng xoay xoay theo làn gió thu rớt xuống khu vườn. Một câu chuyện giản dị nhưng sâu sắc lạ thường. Một câu chuyện về tình yêu, tình người, và một lần nữa, về cái chết. Nói “một lần nữa” bởi đây cũng là chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm “Khu vườn mùa hạ”. Cái chết trong câu chuyện của Yumoto Kazumi có lẽ không hề đáng sợ như nhiều người vẫn nghĩ. Cái chết, với bà cụ chủ nhà giống như một chuyến đi, một nghĩa vụ, một công việc phải làm. Cũng chính bởi thế, nên đám tang của bà cụ không hề buồn bã như những đám tang khác. Có nỗi tiếc thương cho người đã khuất, nhưng tâm trạng của ai cũng nhẹ nhõm hơn hẳn. Có lẽ bởi ai trong số họ cũng đinh ninh rằng, bà cụ đang thực hiện chuyến đi của mình, đang làm công việc mà bà đã dành thời gian nhiều năm chuẩn bị - công việc chuyển những lá thư.      Một mùa thu nữa lại trải lá vàng trên căn hộ Cây Dương, nơi lưu giữ những kỷ niệm về một con người kì lạ. Bà cụ ấy không hề được tác giả nhắc tên, suốt từ lúc bà xuất hiện trong cuộc đời cô bé Chiaki cho đến lúc qua đời. Khi bà ra đi, cũng không có ai là họ hàng thân thiết, nhưng bà lại có vô số bạn bè. Những người bạn đưa tiễn bà bằng sự quý trọng, bằng tình yêu, tình người, và trên tất cả, là một sự thanh thản, nhẹ nhàng mà không phải đám tang nào cũng có. Bà sẽ sống mãi trong trái tim họ như một biểu tượng về lòng tốt thầm lặng. Một lòng tốt giản đơn thôi, dễ dàng thôi, lòng tốt của người dưng qua đường, lòng tốt giữa con người với con người, nhưng mấy ai trong đời này có được? Trích "Mùa thu của cây dương" - Có những lòng tốt giản đơn thôi Nguồn: Website Afamily.vn (http://afamily.vn/) Giới thiệu tác giả Kazumi Yumoto   Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Những tác phẩm của Kazumi Yumoto - Mùa Thu Của Cây Dương - 2010 - Khu Vườn Mùa Hạ - 1992    
Nắp Biển - Banana Yoshimoto
Trước biển, hai cô gái trẻ gặp nhau khi hè sang. Mari đưa Hajime đi khắp thị trấn biển mà chính mình cũng vừa trở lại. Đêm dạ quang, mũi đất hoàng hôn, gốc liễu già, vương quốc thủy tề nơi hõm đá - ngày nối ngày họ thăm lại những nơi đã một thời tưng bừng rực rỡ, nay ngấp nghé tàn phai. Đế hiểu hơn cuộc đời mình qua ký ức, để chữa lành những vết thương ẩn sâu, để khi mùa hè đi dần về kết thúc, cố gắng đóng lại nắp biển còn bỏ ngỏ … Vẫn phong vị thuần khiết và thành thật đã lôi cuốn bao lứa độc giả vào thế giới của cô, nhưng Banana ở tuổi trưởng thành đã nương bớt mỹ học của cái lạ lùng để kể về chiêm nghiệm của người sống đời giản dị, về ý nghĩa sâu xa từ cái thường ngày. Nắp biển như một bài thơ mỏng nhẹ nhưng đầy ắp cảm giác, rằng cuộc sống đã là phép lạ, rằng linh hồn thế giới ngụ trong từng vốc nước nhành cây, và rằng năng lực của những con người bé nhỏ nơi góc biển cũng có thể vì tình yêu với một không gian mà khiến nó nở đầy hoa đẹp. *** Banana Yoshimoto tên thật là Mahoko Yoshimoto sinh ngày 24.7.1964, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Takaali Yoshimoto. Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn học tại trường Nihon University, tại đây cô đã lấy bút danh là “Banana”, cái tên mà theo cô là rất “chúa” và “lưỡng tính”. Trong khi làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987, Banana Yoshimoto bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập tức trở thành một hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và được tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là “Bananamania” (Hội chứng Banana). Sau Kitchen, Banana đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và đã trở thành một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như NP, Lisard, Goodbye Tugumi, Amrita, Sly, Argentina Hag, Hardboiled and Hard luck… trong đó Goodbye Tugumi (Vĩnh biệt Tugumi) đã được dựng phim và đoạt Yamamoto Shugoro Literary Prize năm 1994. Đến nay tác phẩm của Banana Yoshimoto bao gồm mười hai tiểu thuyết và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, Banana Yoshimoto đã lập gia đình và đang sống ở Tokyo. Mời các bạn đón đọc Nắp Biển của tác giả Banana Yoshimoto.
Vĩnh Biệt Tugumi - Banana Yoshimoto
VĨNH BIỆT TUGUMI          Thông Tin   Tên truyện: Vinh Biệt Tugumi Tác giả:   Yoshimoto Banana  NXB:  Đà Nẵng Dịch: Vũ Hoa Người dịch:   Lương Việt Dung Thể loại:   Tiểu thuyết , tình cảm,   ngôn tình , văn học nhật bản,   văn học phương đông . eBook:   Romance Book Nguồn:   Romance Book Đăng:   Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Bốn người bạn: Maria, Tugumi, Yoko và Yoichi đã sống cùng nhau một mùa hè cuối cùng trước khi bước vào tuổi trưởng thành, với căn nhà nghỉ cũ và bờ biển quê hương. Và Tugumi, cô gái xinh đẹp, ốm yếu, trái tính, đôi khi còn độc ác, đã là trung tâm của những liên hệ tinh thần của họ. Đối mặt với sức mạnh hoang dại bên trong thân thể yếu ớt của Tugumi cũng như kh ả năng đánh mất cô, Maria cuối cùng đã có thể tới gần nhất sự sống cốt tủy và độc đáo mà cô cất giữ. Chính trong những ngày hè cuối cùng đó, nhóm bạn đã được trải nghiệm những cảm xúc đẹp đẽ và sâu xa về cuộc sống, về cho và nhận, tĩnh tại và đổi thay, về sức mạnh của tinh thần và những ranh giới mơ hồ của cảm giác... Tinh tế và đầy âm hưởng, khi không còn quá ám ảnh với những dự cảm tăm tối về hư vô và cái chết, thế giới trong suốt, tươi mới của Banana lại hiện ra, làm say những ai đã đem lòng yêu mến lối đi nhỏ trong văn chương của cô.       Ti ể u s ử tác giả   Tên thật là  Yoshimoto Mahoko  ( 吉本   真秀子   Yoshimoto Mahoko ,  Cát Bản Chân Tú Tử ), sinh ngày 24 tháng 7  năm 1964 tại Tokyo , nhóm máu A, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Yoshimoto Takaaki . Banana tốt nghiệp ngành Văn, khoa Nghệ thuật trường Đại học Nihon . Tại đây cô đã lấy bút danh là Banana, cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một nhà hàng vào năm 1987, Banana bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen , cuốn   tiểu thuyết   đầu tay của cô ngay lập tức trở thành hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (hội chứng Banana).  Kitchen  giúp cô đoạt đuợc các giải thưởng văn học như Giải Kaien cho các nhà văn mới năm 1987,  Umitsubame First Novel Prize, Best Newcomer Artists Recommemded Prize  của Bộ Giáo Dục và Giải văn chương Izumi Kyoka cùng vào năm 1988. Sau  Kitchen , cô đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và trở thành tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như  N.P ,  Lizard ,  Asleep ,  Vĩnh biệt Tsugumi ,  Amrita ... Đến nay tác phẩm của Banana bao gồm mười hai   tiểu thuyết   và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, cô đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải Nobel Văn học . Rất đặc biệt trong cách công bố tác phẩm của mình. Cô rất hăng hái tung các tác phẩm của mình không những trên những tạp chí văn học mà còn cả ở tạp chí làm đẹp, thời trang có đông người đọc. Hành động có hàm ý là văn học không phải là một hình thức nghệ thuật dành riêng cho giới đặc tuyển có học, mà là một kiểu văn hóa cùng hàng với nhạc pop , truyện tranh , trò chơi điện tử và thời trang. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm nên hiện tượng Banana.   Những tác phẩm của Yoshimoto Banana được dịch ·        - Kitchen , Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, H. 2006  - N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006 - Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007. - Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2008. - Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008. - Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009.
Amrita - Yoshimoto Banana
Amrita    Thông Tin   Tên truyện:   Amrita  Tác giả:   Yoshimoto Banana  NXB: Hội Nhà Văn Dịch: Trần Quang Huy Người dịch:   Lương Việt Dung Thể loại:   Tiểu thuyết , tình cảm,   ngôn tình , văn học nhật bản,   văn học phương đông . eBook:   Romance Book Nguồn:   Romance Book Đăng:   Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu   Vào cửa hàng sách và cứ đứng tần ngần mãi để chọn một quyển truyện phù hợp với tâm trạng lúc bấy giờ. Lúc đấy tôi cảm thấy bản thân mình đang thấy quá nặng nề và cần cho mình một thứ gì đó thật nhẹ nhàng mà sâu lắng, lướt qua và lướt qua các kệ sách, bỗng nhiên dừng lại với Amrita. . Sau khi mất người em gái xinh đẹp của mình, một nữ minh tinh trứ danh, chết vì tự sát, Sakumi ngã cầu thang và mất trí nhớ do chấn thương sọ não. Cố gắng tìm lại trí nhớ về những người cô yêu thương và về những gì cô đánh mất, cô bắt đầu bước vào một cuộc hành trình cảm động độc nhất vô nhị, đôi khi có người yêu của em gái đã mất đồng hành, đôi khi người đồng hành lại là cậu em trai có khả năng dự cảm tương lai. Và Amrita chính là câu chuyện về hành trình khác thường của Sakumi qua nỗi đau, những giấc mơ, và bóng tối, tới một nơi mà tâm hồn được khám phá và biến đổi.   . Đọc Amrita, cả người, cả trí óc như đang chìm đắm trong một vùng kí ức xa xôi mà lâu lắm rồi tạm cất nó ở đâu đó trong một góc trái tim. Nhiều người ví tiểu thuyết của Banana Yoshimotogiống như một trò Jet-coaster – một trò chơi cảm giác mạnh, một khi đã ngồi lên rồi thì ta sẽ bị cuốn đi đến tận cùng với tốc độ của nó. Nhưng với Amrita, điều này có gì đó đúng lại cũng có gì đó không đúng. Vì đúng là khi đã đọc thì không thể dứt ra được, cứ muốn đọc mãi không thôi. Nhưng phải đọc Amrita, hay những tác phẩm khác của Yoshimoto mới thấy, giọng văn của bà quá đỗi nhẹ nhàng, như làn mây khói thoảng qua trong đầu mỗi người, mà lại thấm sâu vào từng ý nghĩ. Amrita, không cao trào và kịch tính như mọi người tưởng khi đọc xong giới thiệu. Câu chuyện cứ đan xen giữa việc Sakumi trong hành trinh tìm kiếm bản thân và việc Sakumi nhớ lại những điều trước và trong khi Mayu tự vẫn. Tôi rất thích bà mẹ và cô bạn của mẹ Sakumi- cô Junko, thích cả cách mà hai người ý sống và xử lí mọi việc xoay quanh cuộc sống của bản thân và con cái mình. Tôi rất tâm đắc với suy nghĩ của Sakumi sau khi cô tìm lại được trí nhớ : “Sớm mai ra, tôi vẫn muốn mình sẽ thức giấc ở đâu đó“. Nó tạo thêm niềm tin và sức mạnh để sống, để mà chờ đợi ngày mai đến. Amrita khiến cho chúng ta sống chậm lại hơn trong cái guồng quay hối hả của vòng đời bây giờ. Lối viết văn của Yoshimoto giúp cho mỗi ai đọc sẽ quay đầu nhìn lại những quá khứ, để biết mình đã làm những gì, để thấy lại những điều giản dị thân quen mà đôi khi, do nhịp điệu của công việc mà ta vô tình bước qua. Có một người bạn có nói với tôi, Amrita mang màu sắc của tâm linh nhiều quá nên bạn không viết review. Đúng thế. Amrita có nhưng không đến nỗi quá nhiều khiến người ta cảm giác linh thiêng thần thánh. Chỉ đơn giản là đề cập đến Yoshio – em trai của Sakumi – có khả năng dự cảm được tương lai, hay Saseko – một trong những người bạn của Ryuichiro ở Saipan – có thể nhìn thấy người chết, trò chuyện với họ hay hát cho họ nghe. Tôi rất thích những điều như thế này, chúng tuy thần bí nhưng vẫn gần gũi với cuộc sống. Sakumi và Ryuichiro, rốt cuộc cũng yêu nhau. Không hiểu sao, trong đầu tôi khi nghĩ đến tình yêu của họ, lại cảm thấy rằng Sakumi như đang yêu Ryuichiro cho cả phần của Mayu nữa. Và cách mà Sakumi đối xử với tình yêu của mình cũng khá đặc biệt. Không quá vồn vã. Không quá tình cảm. Có gì đó lành lạnh. Nhưng trong trái tim thì lại thầm cầu nguyện: “Sớm mai khi tình dậy, mong rằng anh đừng chết, đừng ra đi mãi mãi, và nếu ngày ấy có phải đến như một lẽ đương nhiên, thì cũng làm ơn đừng báo trước cho tôi điều đó.” Có lẽ, đến đây thì tâm trạng của người đang yêu cũng có phần nào phù hợp hơn với Sakumi. Đọc Amrita mất nhiều thời gian hơn tôi nghĩ. 506 trang, và là những khoảng thời gian đọc cách quãng. Thỉnh thoảng nhớ đến tôi lại lôi nó ra đọc, và lại đọc ngấu nghiến. Không phải truyện dở. Không phải vì bận bịu không có thời gian. Mà bởi, truyện nhẹ quá, đọc như không, cảm thấy cầm quyển truyện dày hơn 500 trang trên tay mà nhẹ hẫng, chẳng khác nào đang cầm một đám kẹo bông. Do vậy, nên tôi cố dứt ra khỏi trang truyện để nó không cuốn mình trôi đi. Và cứ thế, dù cho có chuyện gì xảy ra, cuộc sống của tôi vẫn không có gì thay đổi và chỉ trôi đi mãi, không ngừng.   . Cuộc đời của một con người, luôn cứ trôi chảy vô tình và đều đều như thế. Nhưng mấy ai đã thử một lần đặt chân lên hành trình đi tìm chính bản thân mình?   Ti ể u s ử tác giả   Tên thật là  Yoshimoto Mahoko  ( 吉本   真秀子   Yoshimoto Mahoko ,  Cát Bản Chân Tú Tử ), sinh ngày 24 tháng 7  năm 1964 tại Tokyo , nhóm máu A, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Yoshimoto Takaaki . Banana tốt nghiệp ngành Văn, khoa Nghệ thuật trường Đại học Nihon . Tại đây cô đã lấy bút danh là Banana, cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một nhà hàng vào năm 1987, Banana bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen , cuốn   tiểu thuyết   đầu tay của cô ngay lập tức trở thành hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (hội chứng Banana).  Kitchen  giúp cô đoạt đuợc các giải thưởng văn học như Giải Kaien cho các nhà văn mới năm 1987,  Umitsubame First Novel Prize, Best Newcomer Artists Recommemded Prize  của Bộ Giáo Dục và Giải văn chương Izumi Kyoka cùng vào năm 1988. Sau  Kitchen , cô đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và trở thành tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như  N.P ,  Lizard ,  Asleep ,  Vĩnh biệt Tsugumi ,  Amrita ... Đến nay tác phẩm của Banana bao gồm mười hai   tiểu thuyết   và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, cô đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải Nobel Văn học . Rất đặc biệt trong cách công bố tác phẩm của mình. Cô rất hăng hái tung các tác phẩm của mình không những trên những tạp chí văn học mà còn cả ở tạp chí làm đẹp, thời trang có đông người đọc. Hành động có hàm ý là văn học không phải là một hình thức nghệ thuật dành riêng cho giới đặc tuyển có học, mà là một kiểu văn hóa cùng hàng với nhạc pop , truyện tranh , trò chơi điện tử và thời trang. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm nên hiện tượng Banana.     Những tác phẩm của Yoshimoto Banana được dịch   ·        - Kitchen , Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, H. 2006  - N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006 - Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007. - Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2008. - Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008. - Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009.