Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trậm Điểu

Tay tỷ phú lừa đảo Charles Merick đang ngồi tù. Hắn lấp lửng công khai bí mật về một tài sản vẫn còn đang được giấu đâu đó. Điều này đã kích thích lòng tham của một bầy “cá mập” bủa vây chờ ngày hắn được ra tù và cả những nạn nhân của trò lừa đảo tài chính của hắn. Thẩm phán Hammond Birk, người đã cứu vớt cuộc đời Gibson Vaughn khi anh còn là một thanh niên gặp rắc rối trong cuộc sống cũng là một trong số những nạn nhân đó. Để trả món nợ ân tình, Gibson quyết định sẽ cướp lấy số tiền của Merrick. Đối đầu với những đối thủ sừng sỏ, khát máu, Gibson sẽ làm gì? Những đồng tiền chưa bao giờ lên tiếng, nhưng âm thanh leng keng đến chói tai của chúng khiến người ta phải điên loạn mà nổ súng, giết người không ghê tay, mọi giá trị đạo đức hay pháp luật đều trở nên vô nghĩa khi đồng tiền lên ngôi. Trậm Điểu là những cuộc đào tẩu và âm mưu đen tối kinh hoàng. *** "Chiến đấu cho ra trò, nhưng đừng bao giờ để họ chọn sân đấu." ________________ Nếu như Sợi dây thừng nghiệt ngã là câu chuyện móc nối quá khứ để mở ra hiện thực thì Trậm Điểu là chính là kết quả của hiện thực mà Gibson đã lún chân vào. Trậm Điểu là một cuộc chơi khác, nơi mà những câu chuyện ở quá khứ vẫn bám lấy anh, vẫn tác động lên cảm xúc và trực giác của Gibson nhưng lại ít ám ảnh hơn trong Sợi dây thừng nghiệt ngã. Lần này anh đòi hỏi bị thách đấu ở một phương diện khác, khi mà kẻ anh thách đấu lại có một vị trí đặc biệt: gã ở tù bị săn đón nhiều nhất. Cuộc đấu trí lần này là cái giá của hiện thực mà Gibson buộc phải chấp nhận. Nó cuốn người đọc không ở việc tìm ra bí ẩn hay những quá khứ đen tối mà là ở quá trình tranh đấu giữa hai bên, đã vậy kẻ còn lại không khác gì vô hình. Có một điều thú vị tớ nhận thấy là trong câu chuyện này, để nói rõ ai trắng ai đen trong truyện này rất khó, mà việc đó cũng không phải quan trọng. Chỉ riêng những tình tiết nảy sinh và diễn ra liên hồi cũng đủ để cuốn sách này là một cuốn trinh thám xuất sắc. Phần sau là hồi gay cấn nhất. Có hành động, có twist. Cái twist truyện không nhảy cái đùng một phát xuống dòng, nó chỉ thả nhẹ ở một tình tiết thôi, không hề gây sốc ngay lập tức nhưng lại đủ sức lật câu chuyện sang hướng mới. Đọc mà thực tâm cảm khái tác giả viết tốt quá, mọi thứ đều rất chặt chẽ và logic. Đoạn cuối cũng là một cú lật ngoạn mục, một cú nhử mà tới giờ tớ nghĩ lại vẫn cay, cuốn sách tiếp theo đâu. Chào thân ái từ tinh cầu nóng chảy! *** Review // Không spoil ~ TRẬM ĐIỂU ~ Tác giả: Matthew FitzSimmons. Dịch giả: Trần Trọng Hải Minh Thể loại: Trinh thám phương Tây. Mức độ ưa thích: 9.5/10 ————————- Sau vụ việc với phó tổng thống Benjamin Lombard trong quyển “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, tưởng rằng có thể yên ổn sống tiếp nhưng rốt cuộc chàng thám tử Gibson Vaughn lại bị “nhờ vả” tham gia cuộc điều tra xoay quanh Charles Merrick – tù nhân kinh tế sắp mãn hạn tám năm tại nhà tù Niobe. Tuy ban đầu không muốn nhưng rồi Gibson Vaughn vẫn dấn thân vào vì một lý do khá cảm tính. Cuộc điều tra đòi hỏi khả năng tin tặc của anh, sự bền bỉ linh hoạt, lòng dũng cảm và cả bản tính hài hước gợi đòn. Mọi chuyện diễn biến càng lúc càng tệ khi Gibson phải đối mặt với nhiều phen nguy hiểm tính mạng và thậm chí bị bắt bởi CIA. Sau khi đọc “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, Biển có ấn tượng tốt với truyện trinh thám của Matthew FitzSimmons nên rất hào hứng đọc tiếp Trậm Điểu. Đúng như mong đợi, Trậm Điểu có cốt truyện thật sự hấp dẫn ly kỳ. Tác giả không cố tình viết giựt gân kiểu như “bỗng một bóng đen xuất hiện bên cạnh tôi” nhưng câu chuyện vẫn cuốn hút ngay từ những trang đầu tiên, nhiều đoạn khiến Biển căng thẳng do quá hòa mình vào câu chuyện. Giọng văn rành rọt phân minh, tuy thường xuyên có những câu dài như cả đoạn nhưng đọc vẫn dễ hiểu. Những câu văn dài cũng cho thấy kỹ năng dịch thuật thượng thừa và nỗ lực của dịch giả. Biển không hiểu rõ những đoạn về kinh tế hay âm mưu chính trị trong truyện, nhưng điều đó không ngăn cản Biển thưởng thức chất trinh thám của Trậm Điểu. Nửa sau quyển sách sẽ khiến độc giả muốn đọc một mạch để nhanh biết kết cuộc. Tuy không có nhiều đoạn triết lý nhưng Matthew FitxSimmons đã khéo léo lồng ghép tâm lý nhân vật vào các đoạn văn, khiến người đọc cảm nhận và thấu hiểu được cách suy nghĩ, hành xử của các nhân vật trong truyện. “Thêm nữa, đàn ông ở tuổi anh ta có xu hướng không coi trọng phụ nữ ở tuổi cô và cô nhận ra rằng bị đánh giá thấp là điều hữu ích”. Trậm Điểu cũng có đề cập một chút đến khả năng mà tội phạm được chấp nhận hòa nhập với XH sau khi mãn hạn tù. Tuy biết phải khoan dung với đồng loại nhưng hầu hết người dân thường – những người không có tiền án tiền sự – sẽ rất khó cảm thấy an toàn và tin cậy để sống chung / làm việc chung với những người đã từng phạm tội. “Một người phạm tội hình sự như ông phải ghi rõ lịch sử phạm tội khi xin việc. Và bởi vì việc phân biệt đối xử đối với tội phạm hình sự đã bị kết án không phải là bất hợp pháp, có ít người chịu tuyển dụng họ. Kẻ tội phạm còn lại lựa chọn gì ngoài việc tiếp tục cuộc đời tội ác?” [Đoạn tiếp theo đây Biển không nghĩ là spoil, nhưng bạn nào sợ spoil thì xin đừng đọc ^_^]. Nhân vật chính Gibson Vaughn không được xây dựng hình tượng siêu anh hùng như Jack Reacher, đọc Trậm Điểu mà nhiều lần Biển tức tối nôn nóng khi thấy anh bị đánh, bị ép phải quy phục trước cường quyền. (Người có thể coi là nữ chính trong truyện này) là Lea Regan, một phụ nữ dũng cảm nhưng không kém phần cố chấp. Trong Trậm Điểu, số phận của cô bị bỏ ngỏ khiến Biển khá lo lắng. Cũng muốn nói một chút về kết cuộc của truyện, Biển không biết tiếng Anh nên không biết cách tìm hiểu xem loạt truyện “Điệp vụ Gibson Vaughn” có bao nhiêu cuốn, nhưng sau phần kết của Trậm Điểu thì Biển đoán tác giả phải viết tiếp ít nhất là một quyển khác, vì nếu số phận của Gibson Vaughn kết thúc như trong Trậm Điểu thì đúng là tác giả muốn khiến độc giả tức chết. Ngay khi nhìn thấy thông tin phát hành và bìa của cuốn Trậm Điểu thì Biển liên tưởng đến loài chim trẩm từng đọc được trong tác phẩm Trâm của tác giả Châu Văn Văn. Trong quyển “Trâm – Tình lang hờ” có đoạn Lý Thư Bạch nói như sau: “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc”. Còn trong Trậm Điểu, có phần chú thích của dịch giả rằng “trậm điểu” là loài chim độc trong truyền thuyết TQ. Sách “Sơn Hải Kinh” mô tả Trậm Điểu là loài chim bụng màu tía, cổ dài, mỏ màu hồng điều. Nó cực độc vì chuyên ăn rắn lục. Con trống gọi là Hồi Dương, con mái gọi là Âm Uân. Bìa sách thoạt nhìn hơi khó hiểu nhưng rất hợp với tựa đề Trậm Điểu. Chất giấy trong sách rất đẹp, vốn là một mọt sách giấy nhưng khi đọc sách Biển ít khi quá “tôn sùng nâng niu” sách, thậm chí còn hay gấp góc để đánh dấu những đoạn hay, nhưng đối với Trậm Điểu, sách đẹp đến nỗi Biển đọc kiểu 45 độ và chịu khó ghi chép lại tất cả chứ không nỡ gấp góc. Chữ in to rõ dễ đọc, còn vài lỗi chính tả và lỗi đánh máy không đáng kể. Số điểm 9.5/10 là Biển chấm cho toàn bộ các yếu tố từ ngoại hình đến nội dung, thiếu 0.5 là vì phần kết khiến Biển bứt rứt lo lắng! Cũng như các loạt truyện về Jack Reacher của Lee Child hay loạt truyện của David Baldacci, series về Gibson Vaughn của Matthew FitzSimmons chắc chắn là những quyển sách không thể bỏ qua đối với các mọt trinh thám. (Sea, 25-8-2019) Bookmark tự vẽ, lấy ý tưởng từ Internet. Camellia Phoenix *** Những ngọn đèn tỏa ra luồng ánh sáng huỳnh quang sâu thẳm. Khắp nơi quanh gã, Merrick nghe thấy âm thanh của những người đang bị ép phải thức giấc. Những tiếng cót két của lò xo nệm cũ kỹ. Những cuộc trò chuyện, đã ngưng lại vào tối hôm trước khi đèn tắt, lại tiếp nối như thể mới chỉ vài giây trôi qua. Những câu chuyện dễ nối lại vì chúng vẫn là những cuộc đối thoại tầm thường giống như buổi sáng hôm trước và trước đó nữa, kéo dài lê thê suốt tám năm trời mà Merrick lúc nào cũng thức giấc cùng với chúng. Nhà tù chỉ quanh quẩn bàn luận với mấy chủ đề - cuộc đời trước khi vào tù, cuộc sống trong tù và lời hứa hẹn về một cuộc đời tốt đẹp hơn sau đó. Kẻ thù và bạn hữu, đàn bà, người thăm nuôi, nhà ăn và đồ ăn dở tệ. Chẳng bao lâu đã hết chuyện và từ đó trở đi chỉ còn những biến thể của một chủ đề. Tù nhân đến rồi đi, nhưng những cuộc đối thoại đó vẫn cứ tiếp diễn mãi. Được truyền miệng cho nhiều thế hệ phạm nhân còn chưa tới, như thể những cuộc đối thoại ấy mới là những khách trú đích thực duy nhất của nhà tù, còn tù nhân đơn giản chỉ là tiếng nói chuyển tiếp những gì đã được nói ra từ rất lâu trước đó. Hay đó là điều mà Charles Merrick sẽ hạnh phúc khi tưởng tượng về việc gã vĩnh viễn bỏ lại nhà tù liên bang Niobe sau lưng trong 142 ngày nữa. Merrick tung chân khỏi giường và xỏ thẳng vào đôi tông để chân gã không bao giờ phải chạm vào mặt sàn của nơi đáng ghê tởm này. Chỉ trong bốn động tác nhanh gọn, thuần thục, gã đã dọn xong giường của mình. Chiếc chăn lông thô đến nỗi chó cũng không thèm đắp. Con Morgan thì chắc chắn là không rồi - con chó Tây Ban Nha dòng King Charles của gã, nó đã qua đời khi gã ở trong này. Gã nhớ con vật đó: con vật trung thành duy nhất mà gã từng biết. Mấy tay lính gác đi qua khu nhà giam, bắt đầu lượt điểm danh lúc bảy giờ sáng. Bọn chúng còn hai lượt điểm danh vào lúc ba và năm giờ sáng nữa. Đó là phần khó khăn nhất với gã khi ở trong tù - giấc ngủ của gã cứ bị cắt ngang bởi những tiếng rầm rì vô nghĩa cùng tiếng bấm từ chiếc máy đếm nhỏ chỉ vì ý nghĩ nực cười rằng bọn chúng đang đếm thầm trong đầu. Những kẻ với trình độ tốt nghiệp phổ thông thậm chí còn không đủ tiêu chuẩn làm việc trong phòng văn thư của Merrick Capital. “Sẵn sàng cho ngày trọng đại chưa, Lọ Lem?” Những tay lính gác đã dọa dẫm gã nhiều tuần liền. Kể từ khi giám đốc nhà tù chấp thuận cuộc phỏng vấn, Merrick không còn nghĩ được chuyện gì khác. Gã đã không có khách thăm nào ngoại trừ các luật sư của gã từ nhiều năm rồi, nên xin hãy tha thứ cho sự phấn khích về cuộc phỏng vấn của gã. Đám lính gác cùng lũ tù nhân đều không ngừng mỉa mai gã như những đứa trẻ ghen tức, nhưng gã hiện đang có tâm trạng quá tốt để mà bận lòng về chuyện đó. Ngay khi các lính gác ra hiệu là mọi việc đã sẵn sàng, Merrick lao nhanh về phía phòng tắm. Gã hẳn đã chạy nếu được phép. Bình thường, gã không bao giờ vội vã đi đâu; sau mỗi góc quanh vẫn là nhà tù, vậy thì việc gì phải vội? Nhưng hôm nay gã muốn là người đứng đầu hàng, gã không muốn đang tắm lại hết nước nóng. Tắm xong, Merrick cạo râu cẩn thận và chải mái tóc vàng dày của gã cho đúng nếp. Nó đã ngả bạc hơn so với hồi gã mới đến nhà tù liên bang Niobe, nhưng gã vẫn còn mái tóc đó và thế là đủ. Nếu có gì khác, thì hôm nay gã thấy mình khá hơn. Cường độ làm việc kinh khủng ở Merrick Capital đã tổn hại đến sức khỏe và vùng bụng của gã. Phải vào tù gã mới phát hiện ra tình yêu với việc tập thể dục. Đẩy tạ như một tù nhân đích thực. Chiếc dao cạo rẻ tiền làm gã bị xước ở dưới tai, gã đắp vào đó một miếng giấy vệ sinh. Gã nhớ da diết chiếc bệ đá cẩm thạch cũ với những đồ dùng vệ sinh đắt tiền được đặt lên. Gã nâng niu cả một lọ nước hoa bản mẫu ưa thích của mình - thứ đã khiến gã tốn bao nhiêu là công sức và mưu mẹo. Gã đã phải hy sinh cả một tháng lương thực của mình để đưa lậu nó vào đây dành cho hôm nay. Gã mở nắp và ngay lập tức biết rằng nó hoàn toàn xứng đáng. Một giọt vào gáy và ba, không, bốn giọt nơi cổ tay trái, cần xịt thêm để che đậy mùi hôi hám của nơi này. Gã chà xát hai cổ tay với nhau và tự ngưỡng mộ mình trong gương. Một lính gác đi ngang qua ngửi thấy mùi và dừng lại. “Mùi quái gì thế, thằng tù?” “Chanel’s Pour Monsieur,” Merrick nói. “Pour Monsieur?” Tay lính gác nói, nhại gã bằng thứ giọng Pháp tệ hại. “Chà, mày có mùi như trong phòng phá thai ấy. Nhanh lên, Lọ Lem, không thì lỡ bữa tiệc đấy.” Merrick mặc bộ áo liền quần tẻ nhạt của nhà tù và cố gắng làm cho nó thẳng thớm lại trong gương, không mấy tác dụng. Gã đã yêu cầu được mặc bộ vét ở tòa cho buổi phỏng vấn để rồi bị cười nhạo trong văn phòng giám đốc trại giam. Có lẽ đằng nào thì bộ đồ đó cũng không vừa với gã nữa, vì gã đã gọn gàng hơn nhiều so với khi tới đây. Gã sẽ cần những bộ vét mới, bắt đầu là mười lăm hay hai mươi bộ và hy vọng rằng tay thợ may quen của gã ở Savile Row chưa về hưu. Người ta không thể tùy tiện thay đổi thợ may được. Lúc ăn sáng, Merrick ngồi một mình và chọn đại món được tạm gọi là trứng bác. Gã không thích ý tưởng bước vào một cuộc phỏng vấn mà chưa được chuẩn bị, nhưng bên tạp chí đã bác bỏ yêu cầu gửi trước câu hỏi. Lúc còn là đối tác quản lý điều hành của Merrick Capital, gã có hai hay ba cuộc phỏng vấn mỗi tuần. Cánh nhà báo xếp hàng để gặp gã và nhóm quan hệ công chúng của gã xem trước câu hỏi, lên kịch bản cuộc gặp để phô bày thương hiệu Charles Merrick trong thứ ánh sáng lộng lẫy nhất có thể. Việc bước vào một cuộc phỏng vấn chưa được chuẩn bị trước sẽ là trải nghiệm mới, nhưng Finance là một tạp chí đàng hoàng, chuyên nghiệp ở đẳng cấp cao nhất. Họ chắc chắn sẽ cử tới một người giỏi. Gã không biết người phụ nữ Lydia Malkin này, nhưng cô ta sẽ chứng tỏ năng lực của mình. Gã đang cảm thấy muốn cởi mở và ý tưởng về cuộc trò chuyện hấp dẫn với gã. Trò chuyện thực sự. Đã lâu rồi không ai hỏi gã một câu khiến gã phải suy nghĩ. Khi đến giờ phỏng vấn, lính gác dẫn Merrick vào một trong những căn phòng tư vấn pháp lý chật hẹp. Căn phòng trơ trọi, không có gì ngoài một chiếc bàn dài và những chiếc ghế kim loại chẳng thoải mái chút nào. Gã từng ở trong phòng này, hay một căn phòng tương tự, không biết bao nhiêu lần. Một phụ nữ cỡ tuổi con gái gã đang ngồi ở bàn, khoảng chừng hai mươi lăm? Cô ta đang hí hoáy ghi chép trên một tập giấy ghi chú. Ngay cả khi gã chấm điểm rộng tay thì trông cô ta cũng không hấp dẫn lắm. Có lẽ là một phóng viên tập sự được cử tới cùng để có chút kinh nghiệm hiện trường. Được thôi, được thôi. Hai phụ nữ luôn tốt hơn là một. Cô ta đặt bút xuống và đứng lên chào gã. “Rất vui được gặp ông, ông Merrick.” “Bao lâu nữa cô ấy mới tới đây?” “Xin lỗi?” “Lydia Malkin. Bao lâu nữa cô ấy tới? Tôi không biết tay lính gác cho chúng ta bao nhiêu thời gian. Họ có thể… khó chịu,” gã nói như thể mô tả dịch vụ phòng ở một khách sạn. “Tôi chính là Lydia Malkin.” Cô đưa tay ra. Gã nhìn bàn tay và cảm thấy huyết áp tăng lên với suy nghĩ có người đã cử đứa nhóc tì này tới phỏng vấn gã. “Cô là phóng viên tờ Finance?” “Phải, là tôi.” “Cô bao nhiêu tuổi? Hai mươi hả? Cô học xong đại học chưa?” “Tôi hai mươi sáu. Tôi có bằng thạc sĩ báo chí của trường Northwestern.” “Thậm chí cô có biết tôi là ai không?” “Ông là Charles Merrick.” “Tốt cho cô. Nhưng tôi biết rất rõ là tờ Finance không cử một phóng viên hai mươi sáu tuổi đi thực hiện bài phỏng vấn trang bìa bao giờ.” Cô nhìn gã tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi lấy làm tiếc nếu có trục trặc trong khâu liên lạc. Đây không phải bài trang bìa.” “Cô nói sao cơ?” “Đây chỉ là một phần hồ sơ nhân vật nhỏ: ‘Giờ ông ấy ở đâu?’ Đại loại thế. Bởi ông sẽ sớm ra khỏi đây.” “Một phần hồ sơ nhân vật? Peter vẫn còn là tổng biên tập chứ?” “Peter Moynihan là tổng biên tập,” cô nói với giọng mệt mỏi làm Merrick phát bực. “Và anh ta nghĩ rằng sẽ là ý hay nếu viết… Cô nói sao nhỉ? Một ‘phần hồ sơ nhân vật nhỏ’ về tôi?” “Thực ra Peter không mặn mà lắm với ý tưởng đó. Lúc đầu là vậy.” “Lúc đầu.” “Tôi đã thuyết phục ông ấy.” “À, cảm ơn cô nhiều,” Merrick nói. “Vì đã nói hộ tôi.” “Có lẽ tôi nên ra về.” Gã nhìn cô thu dọn những tài liệu đã bày ra trên bàn. Ngày xưa, gã sẽ cười lớn khi tiễn một phóng viên ra khỏi văn phòng của gã nếu người đó thử một chiến thuật rõ ràng như thế. Gã cực kỳ muốn để cô ta rời nhà tù Niobe trong thất vọng và trắng tay, nhưng gã ngăn cô lại vì điều đó sẽ còn làm gã tổn thất hơn nhiều. “Tại sao họ không quan tâm?” Cô dừng lại và nhìn thẳng vào mắt, đánh giá gã một cách tự tin. Gã không quan tâm nhưng buộc phải mỉm cười. Dù không muốn thừa nhận, nhưng gã cần Lydia Malkin hơn là cô cần gã. “Ông muốn biết thật sao? Không ai quan tâm cả,” cô nói. “Rất nhiều người ghét cay ghét đắng thỏa thuận nhận tội của ông với Bộ Tư pháp. Tám năm tù cho những hậu quả mà Merrick Capital gây ra cho các nhà đầu tư của nó là điều thật lố bịch. Và tổng tài sản tịch thu không bõ bèn gì để đền bù cho các nạn nhân của ông - những cuộc đời đã bị hủy hoại.” Merrick bác bỏ ý kiến rằng thỏa thuận của Bộ Tư pháp với gã là hết sức độ lượng. Giá mà cô Lydia Malkin bé bỏng này biết được dù chỉ là một nửa câu chuyện. Món quà gã đã trao cho đất nước vĩ đại này để đổi lấy cái được gọi là sự khoan hồng. CIA lẽ ra phải tổ chức một cuộc diễu hành để vinh danh gã thay vì nhốt gã ở đây. “Đó là chưa nói tới thực tế là ông được đưa vào đây thay vì một nhà tù thực sự.” “Một nhà tù thực sự sao? Chà, thay vì ‘câu lạc bộ đồng quê’ này hả?” “Phải.” “Cô có biết là chúng tôi thực ra không có sân quần vợt không? Chúng tôi từng có, nhưng họ đã san phẳng nó rồi. Biết tại sao không? Vì ý tưởng cho rằng đây là một ‘câu lạc bộ đồng quê.’ Như thế là phân biệt đối xử.” “Phân biệt đối xử sao?” “Chính xác là thế. Tôi đã bị từ chối một hình thức tập thể dục chính đáng. Vì sao? Vì đó là một môn thể thao mà những người như tôi rất thích, như thế là phân biệt đối xử. Xong rồi để bọn họ chơi bóng rổ, một trò chơi bọn họ cũng thích thú như thế. Vậy thì công bằng ở đâu?” “Bọn họ?” Cô hỏi, tìm cách khiến gã mắc câu. Gã không mắc vào trò đó. “Vậy… Nếu chẳng ai bận tâm, thì tại sao cô lại ở đây?” “Để xem nhà tù có làm thay đổi một người được biết đến với tên gọi là Madoff Đệ nhị hay không.” “Madoff Đệ nhị?” “Người ta gọi ông thế. Ông chưa bao giờ nghe hả?” “Tất nhiên tôi nghe rồi. Tôi chỉ không tin nổi là cái tên đó lại hợp lý.” “Tại sao không?” “Vì Merrick Capital không phải là tài chính đa cấp, vậy đó. Đây là một sự sỉ nhục. Hoạt động kiểu Madoff là kiểu nghiệp dư. Ai cũng biết hắn ta làm gì. Rõ rành rành. Hãy lưu ý là không hề có công ty lớn nào ở Phố Wall đầu tư dù chỉ một xu với Madoff. Điều này chẳng phải hơi lạ lùng khi mà Madoff chỉ báo lỗ có bốn tháng trong hai mươi năm hoạt động sao? Điều đó như thể một cầu thủ bóng chày có tỉ lệ đánh trúng bóng .900 một mùa mà vẫn không được một đội lớn ký hợp đồng. Lý do duy nhất Madoff không bị bắt sớm hơn là vì SEC mắc kẹt với đám nhân viên bất tài, thiếu ngân sách. Họ đã điều tra hắn sáu lần. Sáu! Họ lẽ ra phải tóm hắn từ năm ’99 khi Harry Markopolos cảnh báo về hắn, nhưng SEC không bao giờ bận tâm xác nhận những cáo buộc về hắn với DTC. Vì vậy, phải, tôi khó chịu vì bị đánh đồng với gã cặn bã đó.” Cô bắt đầu bật máy ghi âm đặt ở giữa bàn. “Merrick Capital thì khác gì chứ?” “Merrick Capital là công trình nghệ thuật của chúng tôi. Các chiến lược đầu tư của chúng tôi hoàn toàn hợp pháp và lợi nhuận cho nhà đầu tư của chúng tôi là không có tiền lệ.” “Merrick Capital bắt đầu làm giả số liệu lợi nhuận từ năm 1998.” Gã có thể cảm thấy máu dồn lên tai. “Những khách hàng của tôi vẫn trở nên giàu có.” “Không phải vào năm 2008, năm đó thì không. Ông mất cả gia tài vì đặt cược vào mỏ niken ở Tây Úc.” “À phải, vụ sụp đổ lớn,” Merrick nói. “Giá mà người dân Mỹ biết cách trả tiền vay thế chấp đúng hạn.” “Ông bị bắt là lỗi của người dân Mỹ sao?” “Cô nói chuẩn đét đấy. Nếu vụ sụp đổ lớn không khiến giá niken lao dốc, thì vụ cá cược của tôi, như cô gọi nó, đã có lãi.” “À, đó chắc chắn là góc nhìn có một không hai,” cô nói, nghiêng người về phía trước. “Nhưng đó vẫn là một vụ được ăn cả ngã về không. Ông ít ra phải thừa nhận điều đó. Các kinh tế gia gọi đó là một trong những màn đánh cược vô trách nhiệm nhất trong ngành tài chính hiện đại, dù có hay không có cuộc khủng hoảng tài chính. Vậy mà giờ ông ngồi đây, tự tin về một kết quả khác. Làm sao ông biện minh được cho sự đoán chắc đó?” Trong thâm tâm Merrick biết, thậm chí là khi đó, rằng gã lẽ ra nên suy nghĩ cẩn trọng hơn. Thay vì thế, gã đã trả lời câu hỏi của cô. Mời bạn mượn đọc Trậm Điểu của tác giả Matthew Fitzsimmons & Trần Trọng Hải Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Và Rồi Chẳng Còn Ai
“Mười…” Mười người bị lừa ra một hòn đảo nằm trơ trọi giữa biển khơi thuộc vịnh Devon, tất cả được bố trí cho ở trong một căn nhà. Tác giả của trò bịp này là một nhân vật bí hiểm có tên “U.N.Owen”.  “Chín…” Trong bữa ăn tối, một thông điệp được thu âm sẵn vang lên lần lượt buộc tội từng người đã gây ra những tội ác bí mật. Vào cuối buổi tối hôm đó, một vị khách đã thiệt mạng.  “Tám…” Bị kẹt lại giữa muôn trùng khơi vì giông bão cùng nỗi ám ảnh về một bài vè đếm ngược, từng người, từng người một… những vị khách trên đảo bắt đầu bỏ mạng. “Bảy…” Ai trong số mười người trên đảo là kẻ giết người, và liệu ai trong số họ có thể sống sót? “Một trong những tác phẩm gây tò mò hay nhất, xuất sắc nhất của Christie.” – Tạp chí Observer “Kiệt tác của Agatha Christie.” – Tạp chí Spectator *** “Và rồi chẳng còn ai” (tên Tiếng Anh: And Then There Were None), còn có tên gọi khác là “Mười người da đen nhỏ” (tên Tiếng Anh: Ten Little Nigger) - một tác phẩm trinh thám đủ sức gây ám ảnh. 1.Về tác giả Agatha Christie Agatha Christie (sinh năm 1890 - mất năm 1976) là một nữ nhà văn trinh thám đến từ nước Anh. Người ta biết đến bà với tiếng vang của nhân vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot và sau đó là nhân vật Bà Marple. Một điều ấn tượng đầy thú vị cho thấy sức ảnh hưởng của thám tử Hercule Poirot chính là việc ông là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ The New York Times (khi ông bị bà Christie “giết chết” trong tác phẩm Curtain). Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Có quá nhiều thứ để nói về Agatha Christie, về tác phẩm và cả cuộc đời bà. Christie đã cho ra đời hơn 80 tiểu thuyết trinh thám, có thể kể đến những tác phẩm quen thuộc như Thời khắc định mệnh, Vụ án sát ông Roger Ackryo, Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông, Chuỗi án mạng ABC, Án mạng trên sông Nile… Tuy nhiên, ít ai biết rằng “nữ hoàng trinh thám” cũng viết tiểu thuyết lãng mạn với cái tên Mary Westmacott - bút danh mà bà đã giữ kín gần 2 thập kỷ. Theo Sách kỷ lục Guiness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau William Shakespeare). Bên cạnh đó, vở kịch The mousetrap (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, khi được diễn lần đầu năm 1952 và tiếp tục được diễn cho đến nay. Tác phẩm của Christie phản ánh con người và cuộc đời bà. Christie có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Trong Thế chiến thứ nhất, bà làm việc tại bệnh viện và tiệm thuốc, do đó, rất nhiều vụ giết người trong tác phẩm của bà được thực hiện bằng các loại thuốc độc. Christie cho rằng sử dụng thuốc độc là một hành vi bớt bạo lực và tạo ra cảm giác bí hiểm nhiều hơn. Cha của Christie qua đời khi bà 11 tuổi, đẩy Christie vào sự ám ảnh tài chính. Bà sợ đói nghèo. Tiền bạc thường là trung tâm trong các tiểu thuyết của bà. Hai nhân vật nổi tiếng mà bà tạo ra là thám tử Poirot và bà Marple đều coi tiền bạc là động cơ hàng đầu trong mỗi tội ác - Theo lời Laura Thompso trong cuốn tiểu sử Agatha Christie: An English Mystery. Cuộc đời Agatha Christie đã từng có một cuộc mất tích bí ẩn 11 ngày vào năm 1926, thời điểm mà cuộc hôn nhân của bà gặp nhiều đau khổ cùng với nỗi đau đớn khi người mẹ qua đời. Gia đình và cảnh sát đã đi tìm bà khắp nơi, nhưng phải mất đến tận 11 ngày, người ta mới tìm thấy bà trong một khách sạn nghỉ dưỡng. Sau lần mất tích đó, Agatha Christie dường như quên sạch mọi thứ về bản thân. Bà khăng khăng mình đến từ Nam Phi, không nhận ra chồng và con cái. Đối với Christie, đây là ‘sự kiện không bao giờ nên được nhắc lại”. Nói thêm một chút về điều mà mình ấn tượng với Agatha Christie. Chúng ta biết rằng Arthur Conan Doyle - cha đẻ của Sherlock Holmes đã quyết định kết thúc cho nhân vật của mình bằng “cái kết” gây phẫn nộ. Trong lúc ‘cuộc chiến” giữa Holmes và Moriarty đang trong hồi gay cấn, Doyle đã để hai nhân vật này cùng nhau bỏ mạng tại thác Reichenbach. Quyết định này khiến người hâm mộ choáng váng và tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội. Cuối cùng, ông đã phải hồi sinh nhân vật của mình. Lý giải cho cái chết của Holmes, Conan Doyle bảo rằng thời điểm đó ông cần tập trung nhiều cho sự nghiệp phòng khám của mình. Tuy nhiên, có một sự thật rõ ràng rằng phòng khám của Doyle không thật sự phát triển, trong khi Holmes của ông lại đang rất thành công. Do đó, nhiều người cho rằng Doyle đã bước vào giai đoạn bế tắc trong sáng tác, không biết nên tiếp tục Holmes như thế nào. Một nhân vật vĩ đại cũng cần một kết thúc vĩ đại. Đó thật sự là áp lực của một người cầm bút. Nhưng điều này thì liên quan gì đến Agatha Christie? Bà cũng đã từng cảm thấy chán ngán với thám tử Poirot của mình. Christie từng viết trong nhật ký rằng bà “không thể chịu đựng nổi” với Poirot, nhưng bà đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu Poirot khi ông vẫn đang còn nổi tiếng. Với Christie, viết lách là phụng sự, bà phục vụ khán giả, và chừng nào khán giả còn yêu thích Poirot, bà không muốn chấm dứt niềm yêu thích đó. Trên thực tế, từ lúc phát sinh cảm giác chán ngán đó, đến tận 35 - 45 năm sau, Agatha mới viết cho Poirot một cái kết. Agatha Christie đã sống 85 năm trên cuộc đời. Thế giới của bà có quá nhiều chuyện để người ta muốn lắng nghe và tìm hiểu. Từ cuộc hôn nhân đổ vỡ, cuộc mất tích bí ẩn, những tổn thương trong tâm hồn, áp lực của một người sáng tác… cho thấy một Agatha Christie rất có chiều sâu và chiều rộng.  2. “Và rồi chẳng còn ai” - "Mười người da đen nhỏ" "Mười tên lính nhỏ đi ăn Một tên chết nghẹn, giờ còn chín tên Chín tên thức muộn trong đêm Một quên không dậy, tám tên ngậm ngùi. Devon du thuyền chúng chơi Một tên nằm lại, bảy thời ra đi. Một tên bổ củi làm chi, Bổ đôi một đứa, sáu tên muộn phiền. Sáu đem tổ ong ra nghiền, Một ong đốt chết, còn năm sững sờ. Đến toà năm đứa kia chờ, Một vào Thượng thẩm, bốn ra biển ngồi. Bốn tên cùng ra biển trời. Trích đỏ nuốt một, giờ còn lại ba. Vườn thú ba đứa la cà, Gấu to vồ một, còn hai vẹn toàn. Hai tên đi dưới nắng vàng, Một cong khô chết, một tên bơ phờ. Còn tên lính nhỏ thẫn thờ Hắn đi treo cổ mình lên trần nhà. Và rồi chẳng còn ai" Frank, 1869 Bài thơ đầy ám ảnh! Đây là bài thơ được xuất hiện nhiều lần trong câu chuyện. Cùng với cái tên, có thể dễ dàng đoán được rằng những vụ án mạng sẽ được diễn ra giống như những gì mà bài thơ nói đến. Câu chuyện bắt đầu với sự xuất hiện của Wargarave - một vị thẩm phán mới về hưu, trên chuyến tàu ra Đảo Chiến Binh. Đảo Chiến Binh là một địa điểm đầy bí ẩn với nhiều lời đồn đoán và thổi phồng về nó. Ông tới Đảo Chiến Binh theo lời hẹn của quý cô Constance Culmington - một người ông từng gặp ở nước Ý. Cứ như thế, thêm 7 nhân vật nữa là cô Vera Claythorne, Philip Lombard - đại uý, cụ bà Emily Brent, tướng Macarthur, bác sĩ Armstrong, Tony Marston và ông Blore cùng đi ra hòn đảo Chiến Binh nằm trên vịnh Devon, theo những lời đề nghị vô cùng hợp lý và hấp dẫn. Sau khi tới hòn đảo, chỉ có hai người được thuê làm quản gia đón tiếp họ, đó là vợ chồng Thomas và Ethel Roger. Vậy là đủ 10 người, còn nhân vật bí ẩn đã mời họ đến hòn đảo này thì lại chẳng thấy đâu. Sau khi nhận phòng, họ nhận ra rằng trong phòng mỗi người đều có một bài thơ chết chóc giống hệt nhau, báo hiệu thời gian sắp tới sẽ mù mịt và u ám. Bữa tối kết thúc, một giọng nói vang lên, liệt kê lần lượt những tội ác mà 10 con người kia đã từng làm trong quá khứ. Đối với họ, đây là những lời buộc tội vô lý và không có căn cứ hay bằng chứng nào để xác nhận. Nhưng họ ám ảnh với những lời buộc tội đó. Và đây cũng là khởi nguồn của một màn bi kịch đẫm máu. Không khó để biết rằng kết cục của 10 con người này sẽ tương ứng với những lời được nêu trong bài thơ. Nhưng cái tài tình của cô Agatha Christie là khiến cho người ta biết trước rồi mà vẫn hồi hộp đến thót tim. Agatha Christie thật sự là người kỹ lưỡng với những chi tiết, đặc biệt là chi tiết mang tính biểu tượng.  Vụ án trên hòn Đảo Chiến Binh là vụ án bí ẩn kinh điển, những fan truyện trinh thám ắt hẳn quá quen với những cái gọi là “vụ án trong phòng kín” hay “vụ án bất khả thi”. Người ta suy nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra được ai là kẻ bí ẩn đứng sau tội ác, bởi không có dấu hiệu cho thấy có người thứ 11 xuất hiện trên hòn đảo này. Nhưng dĩ nhiên là Agatha Christie đã giải đáp mối nghi ngờ đó. 3. Cảm nhận của bản thân mình. Điều mình ấn tượng nhất ở “Mười người da đen nhỏ” là cách cô Agatha Christie xây dựng các chi tiết, thật sự sắc sảo, hợp lý và thông minh. Nhưng ở một khía cạnh nào đó, mình thấy hơi hụt hẫng vì dựa trên bài thơ, độc giả có thể đoán được sơ bộ nội dung của câu chuyện. Tất nhiên là cái kết vẫn gây nên sự bất ngờ! Mình cũng thích cách cô Christie truyền tải thông điệp trong tác phẩm này. Là một người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, mình hiểu rằng trên đời này có những tội ác, biết rõ mười mươi nhưng vì nhiều lý do mà pháp luật không thể yêu cầu kẻ gây nên phải đền tội. Và bởi thế, trong tác phẩm của cô Christie, đã xuất hiện một kẻ mang trong mình hai trạng thái đối nghịch: một mặt là “khát vọng chết chóc”, mặt khác là “ý thức sâu sắc về lẽ công bằng”. Chính hắn cũng đã bảo rằng: “Tôi có một thú vui điên cuồng là chứng kiến hay gây nên sự chết chóc”, nhưng “đối với tôi thì việc bất cứ một con người hay một sinh vật vô tội nào phải chịu đau khổ hay phải chết dưới tay mình là một việc không thể dung thứ”. Chính điều này đã tiết lộ cách mà hắn điều khiển câu chuyện như thế nào. Nhưng có một điều rằng mình không hề thích cái kết mà cô Agatha Christie lựa chọn. Có lẽ nó hơi trái ngược những quan niệm của mình về cuộc sống. Với mình, không ai nhân danh công lý được bằng chính bản thân sự thật. Không ai có thể tự trao cho bản thân cái quyền trừng phạt, phán xét và định đoạt cho bất kỳ kẻ gây ra tội ác nào.  Một số người cho rằng “Và rồi chẳng còn ai” là tác phẩm ấn tượng nhất của cô Agatha Christie, bởi cách xây dựng câu chuyện khá lạ và mạo hiểm. Nhưng mình vẫn highly recommend mọi người đọc một số quyển khác như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông hay Án mạng trên sông Nile… Mình thích những tác phẩm này hơn! Tuy nhiên, mình đã bị ám ảnh với “Và rồi chẳng còn ai”, mặc dù mình đọc không quá ít về dòng trinh thám. Có lẽ do tính biểu tượng của chi tiết ở trong câu chuyện này quá mạnh, nó khiến mình suy nghĩ rất nhiều về những gì đang diễn ra trong cuộc đời này, nó thực tế đến mức đáng sợ. Có lẽ, mỗi một giây phút nào đó trên thế giới này, một tội ác cũng đang được thực thi.   Mời các bạn đón đọc Và Rồi Chẳng Còn Ai của tác giả Agatha Christie & Việt Hà (dịch).
Thời Hoang Dã
Một kị sĩ dưới cái lạnh âm hai mươi lăm độ giữa thảo nguyên mênh mông. Một cô gái điếm giữa căn phòng khách sạn vắng. Sáu đứa trẻ trong một container tại kho hàng bỏ hoang. Một phụ nữ dưới đáy hố khai thác sỏi. Một giáo sư điểu học bên ngoài căn lều giữa mùa dzüüd khủng khiếp. Họ đều không còn sống khi được tìm ra. Họ được phát hiện gần như cùng thời điểm. Các cuộc điều tra đưa Yeruldelgger cùng cộng sự đến với lãnh thổ nhiều quốc gia, khiến câu chuyện mở ra một hướng hoàn toàn khác Sau Công lý thảo nguyên, Ian Manook lại gói gọn những phong cảnh, tập tục, ẩm thực và cả những bí mật của một vùng đất xưa nay vẫn luôn bí ẩn với thế giới vào trong một cuốn “đại” trinh thám, nơi ông một lần nữa tái khẳng định tài năng trong việc xây dựng các tình tiết và soi chiếu sâu sắc vào nhiều vấn đề của xã hội hiện đại. Giải thưởng Saint-Pacôme cho thể loại trinh thám năm 2015. *** Bộ sách Yeruldelgger gồm có: Công Lý Thảo Nguyên Thời Hoang Dã ... *** Ian Manook (tên thật là Patrick Manoukian) sinh ngày 13/8/1949 tại Meudon, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Luật châu Âu và Khoa học chính trị thuộc Đại học Sorbonne và Học viện Báo chí Pháp, ông làm phóng viên độc lập, biên tập viên và nhà văn.Ông là người ưa thích du lịch, và đã đi rất nhiều nơi: Mỹ, Canada, Ấn Độ, Kathmandu, Iceland, Belize, Braxin,…Trong sự nghiệp viết văn, ông đã được nhận giải Gulli 2012 cho tiểu thuyết Anh em Bertignac. Công lý thảo nguyên là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Patrick Manoukian, được viết dưới bút danh Ian Manook, đã đạt nhiều giải thưởng danh giá: SNCF, Elle Polar, Quais du polar (năm 2014) và Audiolib 2015,… và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   ***   …và đặt tay lên cò súng. Rụt cổ trong chiếc áo choàng lót lông có mũ, thanh tra Oyun cố gắng tìm hiểu tổng thể mọi việc. Cô ngồi xổm trên lớp tuyết lạo xạo và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Cái lạnh rạch đứt hai bên đồng tử của cô, còn không khí giá buốt như cào xoang mũi mỗi lần hít vào. Cảm giác chẳng khác gì đang hít phải những mảnh thủy tinh vỡ. Xung quanh cô, thêm một dzüüd[^b1] khủng khiếp nữa bao trùm lên thảo nguyên trắng xóa. Đây là năm thứ ba liên tiếp nỗi bất hạnh trắng giáng xuống đất nước này. Những mùa đông lạnh giá vùng cực dài dằng dặc nối tiếp bằng những mùa hè nóng hừng hực quá ngắn ngủi. Những cơn bão tuyết kéo dài nhiều ngày khiến người ta không thể nhìn thấy cả căn lều, lạc lối để rồi đứng chết cóng khi chỉ cách lều có một mét. Rồi đến những ngày bầu trời xanh như sơn mài bị xuyên thủng bởi vầng dương nhỏ xíu trắng bệch chiếu lên một vùng đất đông cứng trong băng. Oyun không có chút ký ức nào về những dzüüd như thế trong tuổi thơ của mình. Lần đầu tiên cô còn nhớ là mùa đông năm 2001. Một mùa đông khắc nghiệt và kéo dài tới mức bảy triệu gia súc đã chết trên toàn quốc. Cô nhớ như in trong ký ức hình ảnh hàng nghìn người du mục, mới vài tháng trước còn đầy kiêu hãnh và cứng cỏi, bị đẩy dạt về thành phố để ăn xin và chết trong im lặng, rét cóng dưới cống ngầm ở Oulan-Bator. Đàn ông mất hết ngựa, phụ nữ mất hết bò và dê, trẻ con thì mất hết cừu non, thậm chí cả lũ cún con. Mùa đông năm đó đã cướp đi nhiều sinh mạng ở Mông Cổ hơn cả mấy chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi ở Manhattan. Và trong hai năm tiếp theo, những dzüüd khác đã tàn sát nốt những gì còn lại của đàn gia súc yếu ớt. Đã từng có những nỗi bất hạnh đen, những mùa hè nóng như thiêu làm mặt đất nứt nẻ bị nung cháy đến tận tầng sâu, lẫn những nỗi bất hạnh trắng khi mà tuyết trùm kín thảo nguyên dưới một lớp vỏ băng giá. Hai nỗi bất hạnh khiến lũ gia súc bị bỏ mặc suốt mùa đông. Những con vật tản mát đi tìm thức ăn, lạc đàn, rồi chết vì đói và lạnh. Chỉ tới mùa xuân người ta mới tìm thấy hàng nghìn cái xác gầy trơ xương, bị tuyết làm chín cả da lẫn thịt. Thậm chí là hàng triệu, khi một dzüüd hội tụ trong nó nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả hai nỗi bất hạnh đen và trắng. Đống xác nhỏ là chỗ nhô lên duy nhất trong bán kính nhiều kilômét thảo nguyên xung quanh. Oyun tự hỏi điều gì có thể lý giải sự hiện diện của nó, nhưng tránh tìm câu trả lời ở phía chân trời. Không khí lạnh căm khiến đường viền của những chỏm núi trở nên rõ nét tới mức mắt cô nhức như bị xé. Cô tập trung vào đám xác chất đống. Người lính lái chiếc xe bọc thép cổ lỗ từ thời Liên Xô xuống khỏi buồng lái chiếc AT-L cũ kỹ rồi đi tới bên cô. Cô nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại, đanh gọn như tiếng một thân cây rỗng bị gãy, rồi tiếng lạo xạo đều đều của tuyết bị ép lún xuống dưới đôi bốt anh ta đi. Không nói một lời, anh ta ngồi xổm cạnh cô, đưa cho cô một cái ca sắt tây rồi lấy bình giữ nhiệt từ trong cái áo vạt dài truyền thống chần bông. “Ở trên cùng là một con bò Tây Tạng thuần hóa, cái này thì chắc rồi!” người lái xe xác nhận. “Một con bò Tây Tạng thuần hóa hoặc một con bò lai,” Oyun chỉnh lại. “Người du mục ở đây chỉ có bò lai. Hiếm khi có bò Tây Tạng hoang dã.” “Hoặc một con bò lai,” người lái xe nhượng bộ trong lúc xoay nắp chiếc bình giữ nhiệt giữa hai bàn tay đeo găng lót lông cừu to tướng. Anh ta tự rót cho mình một ca trà bơ nóng bỏng trước khi mời Oyun một ca. Là bò thuần hay bò lai, điều đó cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều. Cái xác bị phanh bụng của con vật phủ lên những cái xác khác. Băng bện thành những lọn lấp lánh các đốm sương giá trên bộ lông và trong bụng con vật. Con vật phủ phục, bốn chân xoạc ra, nom thật ghê tởm, phủ phần ruột gan đóng băng lên những thứ nằm dưới bụng nó. Ít nhất cũng không có mùi gì. Vào mùa hè, khi nhiệt độ ở cùng địa điểm lên tới hơn bốn mươi độ, đống xác chết này hẳn đã phả ra mùi xú uế không thể nào chịu nổi. Không khí lạnh giá khử trùng cho mọi thứ, kể cả nỗi kinh hoàng. Người lái xe cúi xuống để nhìn qua những rẻ sườn bị gãy của con vật, rồi lách một bàn tay vào giữa khối phủ tạng cứng đơ, rắn chắc… “Bò cái!” anh ta nói. “Đây là con cái.” “Cũng chả quan trọng!” Oyun vừa thở dài vừa bấu chặt ngón tay vào ca trà. “Thế còn bên dưới?” “Bên dưới là một con ngựa,” người lái xe nói không chút do dự. Có thể nhận ra điều đó nhờ những chiếc móng đóng vào bốn cái chân bị bẻ trật khớp nằm lẫn lộn với chân của con bò Tây Tạng. Phần thân con vật mà Oyun nhìn thấy có vẻ đã bị gãy ở lưng. Xác một con bò cái Tây Tạng bị phanh bụng phủ lên xác bị đánh gãy của một con ngựa, trong điều kiện âm hai mươi lăm độ và ở cách Oulan-Bator năm trăm kilômét, đây không hẳn là cuộc điều tra thuộc đội cảnh sát hình sự. Có lẽ cô sẵn sàng để lại vụ này cho cảnh sát địa phương. Thế nhưng lại còn cái chân đó. Một cái chân đi ủng, bàn chân vẫn còn mắc vào bàn đạp thúc ngựa, trồi ra giữa phần lưng đóng băng của con ngựa chết và cái bụng mở phanh của con bò Tây Tạng. “Đó là người kỵ sĩ,” anh lính giải thích. “Tôi hơi nghi ngờ chuyện đó,” Oyun đáp, hai bên hông đột nhiên đau buốt vì giá lạnh và mệt mỏi. “Vấn đề là tìm xem anh ta làm gì ở đó!” “Anh ta đã ở trên lưng ngựa,” người lính nhận xét. “Phải, và bây giờ anh ta ở dưới con bò!” nữ thanh tra bực bội. “Ta đã có manh mối gì về việc đây có thể là ai chưa?” “Chưa,” người lính trả lời. “Ta mới chỉ có mỗi cái chân.” “Và anh đã không tìm cách kéo anh ta ra để tìm kiếm manh mối sao?” “Tôi là quân nhân,” người lính bật ra cụt lủn. Oyun quay đầu nhìn anh ta chằm chằm không chút e dè. Yeruldelgger đã kể với cô về những người du mục trở thành viên chức nhà nước. Mọi điều tạo nên phẩm chất của người du mục cũng chính là hạn chế của người viên chức. Nhất là nếu anh ta lại là quân nhân. “Dẫu sao cũng có thể thử tìm hiểu xem người này là ai, phải không?” Oyun quỳ gối xuống tuyết mà không chờ câu trả lời, rồi nắm lấy chiếc ủng mà băng giá đã gắn chặt phần da vào bàn đạp. Cô cố kéo cái chân của xác chết ra nhưng không ăn thua. Cẳng chân, cứng đơ như một thân cây hóa thạch, không nhúc nhích lấy một li. Cô liền chống người tạo thành đồn bẩy, tì vai vào xác con bò, và trong lúc thực hiện hành động của mình, cô bắt gặp ánh mắt người lính. Anh ta không có vẻ tán thành việc cô làm. “Sao hả?” cô bực bội, thở hổn hển vì gắng sức. Cô vã mồ hôi dưới lớp áo khoác, trong khi hai lá phổi của cô như bị băng giá phủ kín từ bên trong. Cô không trong tâm trạng có thể chịu đựng vẻ uể oải cam chịu của người lính. “Không nên làm thế,” anh ta lẩm bẩm chê trách. “À vậy hả? Thế sao lại không?” nữ thanh tra vừa đáp lại vừa kéo cái chân như một tên tù khổ sai đẩy mái chèo. “Vì băng giá.” “Bởi vì anh tin là nó…” Có thứ gì đó gãy rắc và Oyun ngã bật ra sau trong tiếng lạo xạo của tuyết bị đè bẹp. Khi cô nhổm dậy, khuôn mặt bị giá lạnh cứa vào, Oyun giật mình kinh hãi vội ném ngay cái cẳng chân ra xa. “Tôi từng thấy những mùa dzüüd làm thân bạch dương bị đóng băng tới tận lõi khiến chúng trở nên giòn như thủy tinh,” người lính giải thích. “Thế nên một cái chân…” “Tôi không tin chuyện đó!” Oyun vừa lẩm bẩm vừa nhặt cái chân đóng băng cứng giơ lên. Cả xương lẫn da thịt bị bẻ gãy ngang đùi, cũng như phần vải của ống quần. Nó không còn chút đặc tính nào của một cái chân người. “Ít nhất tôi cũng có thứ để yêu cầu xét nghiệm ADN…” Cô nhìn lần cuối đống xác chết nhỏ, ngẫm nghĩ một lát, rồi ra hiệu bảo anh lính lại gần. “Theo anh, chúng ta có thể chằng một sợi xích vòng quanh rồi dùng xe của anh kéo bật cả đống này lên được không?” “Cô sẽ làm gãy con ngựa và có thể là cả người kỵ sĩ nữa…” “Chúng ta không thể để anh ta lại đó suốt mùa đông được! Sớm muộn gì lũ thú ăn xác chết cũng tìm tới.” “Cô có thể nán lại hai ngày không?” “Ở đây á?” Oyun thốt lên. “Ở chỗ tôi, tại đồn.” “Làm thế sẽ giúp công việc của tôi tiến triển như thế nào?” “Nếu cô muốn mang ba cái xác của cô về, cần rã đông chúng, và tôi biết phải làm thế nào.” “Phải, tôi cũng đã nghĩ tới chuyện đó,” Oyun đáp. “Chúng ta có thể đốt lửa xung quanh…” “Chúng sẽ không trụ được qua đêm đâu. Ở đồn có một chiếc lều cũ do những người du mục bỏ lại sau một mùa dzüüd. Chúng ta sẽ quây lều xung quanh đống xác. Rồi đốt hai hay ba lò than bên trong, và tôi có hai chiếc máy sưởi điện nhỏ. Tất cả sẽ tan chảy trong hai mươi bốn giờ. Cô có thể ra về với trọn vẹn anh chàng gãy chân của cô.” “Này, nói năng tôn trọng một chút!” Oyun cắt ngang. “Đó là một nạn nhân.” “Tôi đâu phải người đã bẻ giò anh ta!” người lính nói đùa. “Đồng ý. Nhưng dù sao cũng tôn trọng anh ta. Tôi đủ hối tiếc về những gì mình đã gây ra cho anh ta rồi.” “Cô không phải hối tiếc đâu, cô em. Cô giúp anh ta chán vạn ra rồi!” “À thế sao?” “Phải. Tổ tiên chúng tôi nghĩ rằng phải bẻ xương người chết để linh hồn họ có thể thoát ra. Họ để người chết ngoài thảo nguyên mà không chôn cất để cho thú hoang tới gặm xương và giải phóng linh hồn những người này.” Oyun chợt nhớ Yeruldelgger từng kể cho cô nghe điều tương tự. Cô cũng nhớ lại tất cả những gì ông đã dạy cô về việc tôn trọng lều du mục. “Nhất trí về chiếc lều, nhưng đừng xúc phạm các linh hồn từng sống trong đó.” “Cô đừng có lo. Các linh hồn đã rời khỏi căn lều này từ lâu rồi. Hơn nữa chúng ta sẽ không bít kín các khe. Chúng ta chỉ phủ kín nó bằng mái lều lớn thôi. Linh hồn người xưa trú ẩn trong lớp dạ. Chúng ta sẽ không quấy quả họ.” “Được,” Oyun đáp, cô bắt đầu thấy có cảm tình với anh chàng quân nhân ngày càng ít chất quân nhân và nhiều chất du mục này. “Tôi sẽ quay lại cùng anh. Tôi nợ nạn nhân cụt chân khốn khố này điều đó.” Trước khi quay trở lại chiếc xe bọc thép, cô đưa mắt nhìn đống xác lần cuối, và người lính đoán ra điều cô đang nghĩ. “Tôi từng thấy lũ bò Tây Tạng nhảy chồm lên như dê bất chấp trọng lượng của chúng. Người ta nghĩ chúng lờ đờ và điềm đạm, nhưng nếu bị săn đuổi, chúng có thể trở nên nhanh nhẹn và hung hãn. Người kỵ sĩ có thể đã đuổi theo con bò cái để bắt nó về chuồng. Có thể con ngựa của anh ta đã trượt chân, và thế là trong cơn hốt hoảng, con bò cái đã nhảy chồm tới đè lên anh ta trước khi anh ta kịp nhảy khỏi ngựa.” “Và làm gãy lưng con ngựa sao?” “Một con bò cái to có thể nặng tới ba trăm kí lô.” “Nhưng nếu vậy thì vì sao con bò cái lại bị phanh bụng ra?” “Chúng ta không biết người kỵ sĩ ở bên dưới là người như thế nào. Có khi anh ta có một cây urga. Có thể là cây sào buộc thòng lọng đã gãy trong cú ngã và con bò cái bị xuyên thủng bụng chăng?”   Mời các bạn đón đọc Thời Hoang Dã của tác giả Ian Manook & Lê Đình Chi (dịch).
Dưới Một Mái Nhà Ở Paris
“Nghệ thuật là một lời nói dối khiến chúng ta hiểu được sự thật…” Paris, một xưởng vẽ giấu mình cuối một ngõ nhỏ rợp bóng cây xanh. Madeline đã thuê căn xưởng làm nơi nghỉ ngơi và tách mình khỏi thế giới. Do một nhầm lẫn ngẫu nhiên, nữ cảnh sát trẻ người Luân Đôn chạm trán với Gaspard, một nhà biên kịch đến từ Mỹ cũng thuê trọ tại chính nơi này. Họ buộc phải sống cùng nhau trong vài ngày, và chính ở đó, cùng nhau khám phá số phận bí ẩn của họa sĩ nổi tiếng Sean Lorenz, chủ căn nhà, người đã để lại ba bức tranh bí ẩn cuối cùng trước khi qua đời. Để vén được bức màn sự thật về Sean Lorenz, hai người buộc phải đối mặt với quỷ dữ ngự trị chính trong bản thân mình, trên một hành trình điều tra sẽ dẫn tới lối rẽ không ngờ khiến cuộc đời họ thay đổi mãi mãi. Một lần nữa Guillaume Musso ghi dấu tên tuổi mình với một cuốn tiểu thuyết trinh thám quyến rũ và gây nghiện bởi những nhân vật đậm chất nhân văn. Một sự dấn thân đáng kinh ngạc vào thế giới huyền bí của sáng tạo. “Một thành công tuyệt đối. Cuốn sách của sự trưởng thành và táo bạo.” - Bernard Lehut, RTL *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người. Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Công Viên Trung Tâm Cô Gái Brooklyn Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn Cô Gái Và Màn Đêm Cô Gái Vô Danh Trên Sông Seine Dưới Một Mái Nhà Ở Paris Cuộc Đời Là Một Tiểu Thuyết ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** Dưới một mái nhà ở Paris là cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám nổi tiếng của nhà văn Guillaume Musso, tác phẩm sẽ đưa độc giả đến với một Paris khác lạ, không thơ mộng như trên phim ảnh mà ở đó ẩn chứa vô vàn những góc khuất đang đợi được khám phá.  Đôi nét về Guillaume Musso và Dưới một mái nhà ở Paris Guillaume Musso sinh năm 1974 tại miền đông nước Pháp, hiện tại bên cạnh việc viết văn, ông còn là giáo viên chuyên ngành kinh tế tại một trường trung học. Tác giả say mê văn học từ khi còn nhỏ và ông tự nhận mình là một kẻ nghiện sách. Ông bắt tay vào viết truyện khi còn ngồi trên giảng đường đại học và Skidamarink là cuốn sách đầu tay của Guillaume Musso, được xuất bản vào năm 2001, đã ghi được những dấu ấn nhất định trong lòng bạn đọc. Nhà văn gặp biến cố lớn trong cuộc đời khi ông phải đối mặt với cái chết cận kề trong một vụ tai nạn giao thông, điều đó trở thành cảm hướng cho Guillaume Musso chắp bút nên tác phẩm để đời Rồi sau đó, xuất bản vào năm 2004. Cuốn sách bán ra hơn một triệu bản tại nước Pháp, được dịch thành hai mười ba thứ tiếng và đạo diễn Gilles Bourdos đã chuyển thể thành bộ phim cùng tên. Guillaume Musso được ví như gã lãng du mơ mộng của văn học Pháp, những câu chuyện của ông là sự lồng ghép độc đáo của vô vàn tình tiết bất ngờ, giật gân với phút giây lãng mạn, thơ mộng. Có thể nói rằng phong cách văn chương của Guillaume Musso như một sự hòa quyện hoàn hảo giữa giọng văn ngọt ngào của Marc Levy và ngòi bút trinh thám kinh điển Stephen King, điều đó tạo nên sự hấp dẫn kỳ diệu cho những tác phẩm của ông. Dưới một mái nhà ở Paris là cuốn sách mang đậm màu sắc văn chương của tác giả, tác phẩm không chỉ mang đến câu chuyện bí ẩn, kịch tính mà còn đan xen một tình yêu kỳ lạ nhưng cũng rất đẹp.  Cuốn tiểu thuyết xoay quanh Madeline và Gaspard Coutances, hai người xa lạ vô tình sống chung trong một căn hộ tại Paris, họ phát hiện ra những điều kỳ lạ tại đây và cùng nhau vén từng tấm màn và tìm ra sự thật. Bức tranh đa chiều mở ra trong Dưới một mái nhà ở Paris Tất cả những yếu tố về hội hoạ đã được Guillaume Musso xử lý một cách hoàn hảo, để hình và nền trở nên hài hòa, mang lại một câu chuyện cuốn hút và đầy tính nhân văn. Paris hiện lên đầy chân thực nhưng không hề hoa mỹ, phô trương, không phải lúc nào đây cũng là một thành phố lý tưởng và hoàn hảo. Thô mộc, giống như một dòng chảy xiết, ồ ạt cần phải biết cách chế ngự. Paris với thời tiết chán ngán, mưa nặng hạt, bầu trời nhớp nhúa, không khí nóng ẩm, giao thông tắc nghẽn, dòng người xô đẩy để được tồn tại, nhóm người biểu tình, sự tham lam của giới truyền thông. Bầu không khí tệ hại nhưng lại là một sự lựa chọn hoàn hảo cho hai con người muốn tìm một nơi chốn dừng chân. Madeline Greene hài lòng khi ở Paris, khi mà London khiến cô kiệt sức, còn nơi đây lại là nơi cô từng dành thời gian để chữa lành vết thương lòng. Một nữ cảnh sát mẫn cán, dũng cảm, cùng với nhiều chiến tích phá án, cái ác không làm cô khiếp sợ, nhưng tình yêu lại suýt giết chết cô bằng lưỡi dao cắt cổ tay, tuyệt vọng và kiệt quệ. Chính vì thế cô ôm theo những hy vọng đã níu giữ được sự sống của cô, đến nơi này, Paris, để gửi gắm vào nó chút niềm tin cuối cùng. Gaspard Coutances là nhà biên kịch nổi tiếng và có tài. Anh có một tình yêu sâu sắc với nghệ thuật chân chính và căm ghét cách mà thế giới con người vận hành trong sự vô tâm và đầy rẫy những kẻ xu nịnh. Gaspard lựa chọn cuộc sống ẩn dật, không bao giờ xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Paris đối với anh thật ra cũng là một trong số những nơi chất chứa cơn điên loạn của thời đại mà anh sống, anh chỉ muốn tìm nơi viết xong vở kịch để trốn thoát khỏi cuộc hành hình đằng đẵng và được ly khai khỏi cuộc sống xã hội với anh là vô cùng hỗn loạn và điên rồ. Guillaume Musso bao giờ cũng đẩy những yếu tố bất ngờ làm kim chỉ nam cho tác phẩm của mình, dù rằng nó là một phong cách quen thuộc nhưng với Musso thì chưa bao giờ là cũ và đúng vậy, những bất ngờ, cũng chưa bao giờ làm người đọc hết ngạc nhiên. Chỉ vì sai sót thuộc về lỗi bên cho thuê nhà, hai con người với hai cuộc sống và tâm tư vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhau lại thuê trùng một chỗ ở. Đó là một căn hộ nhỏ nhắn thuộc góc phố Cherche-Midi, im lìm trong một con ngõ giữa lòng thành phố ồn ào, náo nhiệt, cùng với lối kiến trúc đầy tinh tế, thanh lịch, khoảng sân chữ L, những khung cửa gỗ cao hơn bốn mét nhìn thẳng ra bầu trời, với ánh sáng, hương hoa và tiếng chim. “Ta đang ở nông thôn chứ không phải là Paris!”. Madeline đã thầm thảng thốt lên như vậy. Gaspard cũng phải lòng với căn hộ này, mặc dù trước đây anh là con người chỉ rung động khi đứng trước phong cảnh chứ không phải là kiến trúc. Anh cảm nhận những “sóng tích cực” mà tin chắc rằng anh sẽ làm việc một cách hăng say và vui vẻ ở nơi đây. Điều gì đến cũng sẽ đến, hai nhân vật chính có cuộc gặp gỡ mở đầu không mấy thân thiện. Họ ghét nhau ra mặt, tranh giành căn nhà nhưng rồi vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của người còn lại khi chẳng ai chịu rời đi. Để rồi tạo ra một bước ngoặt đầy bất ngờ Từ đây, câu chuyện của họ được bắt đầu từ những bí ẩn ly kỳ về người chủ quá cố của nơi này, họa sĩ Sean Lorenz. Sean vốn là nghệ sĩ tranh tường, người tiên phong cho những trường phái Graffiti ấn tượng và độc đáo. Tài năng và đầy sự sáng tạo, sự nghiệp của Sean từ độ tuổi thiếu niên cho đến khi trưởng thành và lập gia đình đi lên như diều gặp gió. Vô số các bức tranh sơn dầu nổi tiếng được ra đời, có giá trị lên tới hàng chục nghìn USD. Cuộc hôn nhân với nàng thơ xinh đẹp Pénélope Kurkowski và tình yêu mãnh liệt dành cho người vợ này đã giúp cho những nét vẽ của Sean Lorenz ngày một thăng hoa hơn. Ông đã cho ra đời hàng chục bức tranh vẽ người vợ xinh đẹp của mình, tiêu biểu là loạt tranh “21 Pénélope”. Nhưng không phải cuộc đời lúc nào cũng chỉ nở một nụ cười viên mãn. Jullian, cậu con trai độc nhất của họ bị bắt cóc và giết hại dã man. Kể từ đó, sự nghiệp và chính con người Sean Lorenz tụt dốc thảm hại. Cái chết của cậu con trai dần dần làm cho cuộc hôn nhân cũng đi vào đổ vỡ, tình yêu bỗng chốc hóa thành căm ghét và giận dữ, ích kỉ và tham lam. Sean luôn đổ lỗi cho Pénélope về sự ra đi của Jullian, ông đắm chìm trong rượu và ma túy, còn Pénélope đã hết yêu ông từ lâu, hay vốn dĩ cũng chẳng hề yêu ông, lấy đi gần hết số tài sản của Sean từ việc bán tranh rồi bỏ đi. Họ ly dị từ đấy. Trong cơn giận dữ và cuồng loạn, người họa sĩ tài ba ấy đã đốt nhiều bức vẽ nổi tiếng của mình, muốn phá hủy hoàn toàn kiệt tác “21 Pénélope”, hình ảnh chàng trai được mệnh danh “thợ pháo hoa” nay chỉ còn là một người đàn ông kiệt quệ cả về thể xác và tinh thần. Tuy vậy, những tác phẩm đó vốn không hoàn toàn thuộc về ông nữa, để đền bù thiệt hại, Sean đã hứa sẽ trao cho các nhà sưu tầm ba bức tranh mà ông đang hoàn thành và khẳng định giá trị của nó còn lớn hơn gấp đôi những tác phẩm trước kia. Đáng buồn thay, chưa thực hiện được lời hứa thì người họa sĩ yểu mệnh đã ra đi vì bệnh tật. Madeline và Gaspard, những con người yêu nghệ thuật, đã lắng nghe câu chuyện về Sean và bị cuốn vào vụ án tìm lại ba bức tranh của ông. Nhưng càng tìm hiểu sâu, càng lật ngược về quá khứ, họ càng lần ra được những điều đáng ngờ và bất hợp lý trong những năm tháng cuối đời của danh họa này, cũng như vụ bắt cóc và cái chết của Jullian. Manh mối là những kiệt tác duy nhất còn sót lại của Sean và những năm tháng hạnh phúc của cuộc đời ông bên người vợ xinh đẹp Pénélope. Dưới một mái nhà ở Paris, hai con người vô tình rơi vào một sự sắp đặt đầy kĩ lưỡng, cùng vén tấm màn đằng sau sân khấu của cuộc đời, bước vào cuộc hành trình điều tra sẽ dẫn dắt họ tới lối rẽ không ngờ khiến cuộc đời họ thay đổi mãi mãi. Suy cho cùng, “nghệ thuật là lời nói dối khiến chúng ta hiểu được sự thật”, không phải những gì được phơi bày trước mắt đã hoàn toàn là điều đúng đắn mà đôi khi những thứ được cất giấu kĩ càng, mới là điều quan trọng.  Guillaume Musso chưa bao giờ làm chúng ta thất vọng với những tác phẩm của mình, quyến rũ, gay cấn và gây nghiện là những gì mà Dưới một mái nhà ở Paris đã thu hút người đọc một cách mạnh mẽ. Vẫn đầy bất ngờ nhưng không hề rối rắm, Paris đã thật sự trở thành nơi mà mọi chuyện đều có thể xảy ra. Linh Đồng *** London, cuối giờ sáng một ngày thứ Bảy. Bạn còn chưa biết điều này đâu, nhưng trong chưa đầy ba phút nữa bạn sẽ đương đầu với một trong những thử thách gian lao nhất đời mình. Một thử thách tới lúc nào bạn không hay biết, nhưng sẽ in dấu trong bạn, gây đau đớn ngang với vết bỏng do sắt nung để lại trên làn da mềm mại. Ngay lúc này bạn đang thong dong dạo bước giữa sảnh trung tâm thương mại mang dáng dấp một sân trong kiểu cổ. Sau mười ngày mưa dầm mưa dề, bầu trời đã tìm lại được sắc lam thẫm đẹp đẽ. Những tia nắng đang làm vách kính cửa hàng sáng lung linh khiến tâm trạng bạn tươi vui. Để kỷ niệm thời khắc mùa xuân đến, thậm chí bạn đã tự tặng cho mình chiếc đầm ngắn màu đỏ chấm bi trắng này, nó đã cố quyến rũ bạn từ hai tuần nay. Bạn cảm thấy nhẹ nhõm, gần như phơi phới. Ngày hôm nay của bạn báo trước là sẽ thú vị: trước tiên là bữa trưa với Jul’, cô bạn thân nhất, một buổi làm móng giữa con gái với nhau, sau đó chắc sẽ đi xem triển lãm ở Chelsea, rồi tối nay là buổi hòa nhạc của PJ Harvey tại Brixton. Một hành trình yên ả trong những khúc quanh uốn lượn êm đềm của đời bạn. Chỉ trừ có điều bạn bỗng nhìn thấy nó. ★ Đó là một cậu nhóc tóc vàng rơm mặc quần yếm bò và áo khoác dạ màu xanh nước biển. Chắc tầm hai tuổi, hoặc hơn một chút. Đôi mắt to sáng màu và tươi cười lấp lánh đằng sau cặp kính sặc sỡ. Những đường nét thanh tú trên gương mặt trẻ thơ tròn trịa viền quanh bằng những lọn tóc ngắn sáng màu giống như một cuộn rơm dưới nắng hè. Bạn ngắm cậu nhóc đã được một lúc, từ xa, nhưng càng lại gần, bạn càng bị khuôn mặt cậu nhóc mê hoặc. Một vùng đất nguyên sơ, hớn hở, mà cả đau khổ lẫn sợ hãi đều chưa kịp đầu độc. Trên gương mặt non tơ này, bạn chỉ nhìn thấy một loạt những khả năng. Niềm vui sống, niềm hạnh phúc ở trạng thái thô mộc. Lúc này, cậu nhóc cũng đang nhìn bạn. Một nụ cười đồng lõa và thuần phác thắp sáng gương mặt cậu. Cậu hãnh diện khoe với bạn chiếc máy bay nhỏ bằng kim loại đang được những ngón tay mũm mĩm cho bay lượn phía trên đầu mình. – Vuuuuuuuuù… Trong khi bạn mỉm cười đáp lại nụ cười của cậu nhóc, một cảm giác lạ lùng bắt đầu bóp nghẹt bạn. Nọc độc chậm rãi của một xúc cảm khó hiểu làm loang khắp cơ thể bạn một nỗi buồn lạ lẫm. Cậu nhóc dang tay và bắt đầu chạy nhảy lon ton quanh đài phun nước bằng đá đang phun ra những cuộn nước bên dưới mái vòm của khu mua sắm. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, bạn ngỡ cậu nhóc đang chạy tới sà vào lòng mình, thế nhưng… – Bố, bố ơi! Bố thấy không, con làm máy bay này! Bạn ngước mắt nhìn lên và ánh mắt bạn gặp ánh mắt người đàn ông vừa bế bổng cậu nhóc. Một lưỡi dao buốt lạnh xuyên thấu bạn và trái tim bạn đông cứng lại. Bạn biết người đàn ông này. Cách đây năm năm, giữa hai người nảy sinh một chuyện tình kéo dài hơn một năm. Vì anh ta, bạn đã rời Paris tới Manhattan và thay đổi công việc. Suốt nửa năm, hai người thậm chí đã cố gắng sinh một đứa con mà không được. Rồi người đàn ông này quay lại sống cùng vợ cũ, trước đó họ đã có một đứa con chung. Bạn đã làm tất cả những gì có thể để níu kéo anh ta, nhưng như vậy là chưa đủ. Quãng thời gian ấy bạn đau khổ tột cùng, và đúng lúc bạn nghĩ đời mình đã lật sang trang mới, thì hôm nay bạn lại gặp anh ta, và chuyện này khiến bạn tan nát cõi lòng. Lúc này, bạn đã hiểu rõ hơn cảm giác xáo trộn của bản thân. Bạn tự nhủ đứa trẻ này đã có thể là con mình. Rằng đứa trẻ này hẳn đã có thể là con của bạn và anh ta. Người đàn ông lập tức nhận ra bạn và không hề tránh né ánh mắt bạn. Trước nét mặt sầu não của anh ta, bạn đoán anh ta cũng đang sửng sốt hệt như bạn, lúng túng, có phần sượng sùng. Bạn nghĩ anh ta sắp bước tới nói chuyện với mình, thế nhưng, giống như một con hươu đang cùng đường, anh ta phác một cử chỉ chở che con mình rồi vội vàng quay gót. – Đi nào, Joseph, bố con mình về thôi. Trong khi ông bố và đứa con trai đi xa dần, bạn không dám tin vào tai mình. “Joseph” là một trong những cái tên hồi ấy hai người cùng nhau dự định đặt cho đứa con của họ ở thì tương lai. Mắt bạn nhòe đi. Bạn cảm thấy mình bị tước đoạt. Một cơn mệt mỏi nặng nề ập xuống khiến bạn đứng hình suốt nhiều phút liền, làm bạn thẫn thờ, hóa đá, cổ họng nghẹn thắt. ★ Bạn phải nỗ lực lắm mới tới được lối ra cửa hàng. Tai bạn ong ong, cử chỉ trở nên máy móc, tứ chi như nặng đến hàng tấn. Ra đến công viên Saint James, bạn đã nhấc được cánh tay lên để vẫy một chiếc taxi, nhưng bạn run rẩy suốt cả quãng đường, đấu tranh chống những ý nghĩ đang quấy nhiễu mình, cùng lúc tự hỏi mình đang gặp phải chuyện gì thế này. Cánh cửa căn hộ riêng khép lại, bạn đi thẳng vào phòng tắm vặn cho nước chảy đầy bồn. Vào tới phòng ngủ, bạn không bật đèn. Vẫn mặc nguyên quần áo, bạn đổ vật xuống giường. Bất động. Hình ảnh đứa trẻ chơi máy bay diễu qua tâm trí bạn và, chẳng bao lâu sau, toàn bộ nỗi thất vọng mà bạn cảm thấy khi đứng trước người tình cũ biến thành cảm giác trống rỗng tàn bạo. Cảm giác nhung nhớ bóp nghẹt lồng ngực bạn. Bạn khóc, dĩ nhiên, nhưng bạn tự nhủ những giọt nước mắt có tác dụng gột rửa và cơn khủng hoảng này sẽ tự biến mất. Chỉ trừ có điều nỗi đau đang đào sâu, phình ra và dồn dập chồm lên bạn như một cơn sóng ngầm cuốn phăng bạn đi, khiến tất cả những con đê trong bạn vỡ toang, phóng thích những năm tháng bất mãn, oán hận, hy vọng rồi thất vọng. Cày xới lại những vết thương mà bạn ngỡ đã được chữa lành. Chẳng mấy chốc, con rắn bảy đầu lạnh lẽo của nỗi kinh hoàng uốn lượn giữa tứ chi bạn. Bạn nhảy dựng lên. Tim bạn đập lồng lên. Cách đây vài năm bạn từng trải qua một giai đoạn giống hệt, và mọi chuyện đã kết thúc chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng ý nghĩ ấy lướt qua tâm trí bạn cũng vô ích, bạn không thể ngăn chặn được guồng quay của sự thể khó lòng lay chuyển. Toàn thân run rẩy không thể kiểm soát, bạn lảo đảo bước tới tận phòng tắm. Hộp thuốc cá nhân. Những ống thuốc. Bạn ngâm mình trong bồn tắm – đang đầy tràn – trong khi còn chưa cởi hết quần áo. Nước quá nóng hay quá lạnh, bạn thậm chí chẳng biết nữa và cũng mặc kệ. Trên ngực bạn là một cái đe. Trong bụng bạn là một vực xoáy. Trước mắt bạn là một chân trời đen kịt, mãi mãi bị nỗi sầu muộn chắn ngang. Bản thân bạn không ý thức được là mình đã ra nông nỗi đó. Những năm gần đây, bạn đã hơi lạc lối đôi chút, đúng thế, và bấy lâu nay bạn biết rằng cuộc đời vốn mong manh. Nhưng hôm nay bạn không ngờ mình bước hụt và mất thăng bằng nhanh đến thế. Nhất là, bạn không biết rằng dòng thác bùn lầy này lại chảy trong bạn. Bóng tối này, nọc độc này, sự khốn khổ này. Cảm giác cô đơn thường trực đột nhiên bị đánh thức và đang khủng bố tinh thần bạn. ★ Những ống thuốc bồng bềnh trên mặt nước như những con tàu dừng lại vì trời lặng gió. Bạn mở chúng ra rồi nuốt từng vốc những viên con nhộng. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Việc gì cũng phải làm đến cùng. Vậy nên bạn gỡ lưỡi dao lam từ bàn cạo đặt trên gờ bồn tắm rồi cho nó lướt qua hõm cẳng tay. Bạn vẫn luôn hăng hái chiến đấu, nhưng hôm nay bạn cảm thấy mình không còn khả năng làm vậy nữa, bởi kẻ thù không buông tha bạn và biết rõ về bạn hơn chính bản thân bạn. Trong lúc đưa lưỡi dao lại gần mạch máu, bạn chua xót nhớ lại cái niềm vui đắt đỏ mà bạn đã cảm thấy sáng nay khi thấy mặt trời qua ô cửa sổ. Rồi đến khoảnh khắc lạ lùng và an lòng này khi bạn biết rằng số mệnh đã an bài và chuyến đi không ngày về của mình đã bắt đầu. Như bị thôi miên, bạn lặng ngắm máu mình đang tan loãng và vẽ trong làn nước những đường lượn trang trí với vẻ đẹp không thể gọi tên. Trong lúc cảm thấy mình đang ra đi, bạn tự nhủ rằng ít nhất thì cảm giác đau đớn cũng sẽ dừng lại, và đúng vào thời khắc này, điều đó thật vô giá. Trong lúc quỷ dữ mang bạn đi theo làn hơi nước nóng bỏng, hình ảnh cậu nhóc lại lướt qua tâm trí bạn lần nữa. Bạn trông thấy cậu nhóc trên một bãi biển, phía trước là biển. Một nơi có thể là Hy Lạp hoặc miền Nam nước Ý. Bạn đang ở rất gần cậu nhóc. Gần đến nỗi bạn thậm chí có thể ngửi thấy mùi cát, mùi lúa mì tỏa ra từ cậu, yên ả như cơn gió nhẹ đêm hè. Khi cậu nhóc ngẩng mặt lên nhìn bạn, bạn cảm động vì gặp lại gương mặt xinh xẻo của cậu, cái mũi hếch và hàm răng thưa khiến nụ cười cậu đáng yêu khôn cưỡng. Cậu nhóc đó đang dang rộng hai cánh tay và bắt đầu chạy quanh bạn. – Mẹ ơi, nhìn này, con đang làm máy bay! Mời các bạn đón đọc Dưới Một Mái Nhà Ở Paris của tác giả Guillaume Musso & Phúc Chi Nhi (dịch).