Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Lerouge

Vào ngày thứ 5, 6 tháng 3 năm 1862, một vụ án mạng đã làm ngôi làng La Jonchère thanh bình bị chấn động: bà quả phụ giàu có Lerouge bị sát hại dã man tạị nhà riêng. Điều tra viên Lecoq đã phải nhờ sự giúp đỡ của một thám tử nghiệp dư cũng là người thầy của mình, lão Tabaret, tham gia vào cuộc điều tra. Với sự cẩn trọng, tỉ mỉ,  kĩ thuật  phát họa tâm lí tội phạm xuất sắc cùng phương pháp suy luận chặt chẽ, tài tình, lão Tabaret đã lần theo manh mối và dễ dàng tóm được thủ phạm. Khi vụ án tưởng chừng đã khép lại thì những bước ngoặt của số phận lại bất ngờ mở ra một hướng đi mới, khiến các điều tra viên phải xem xét lại toàn bộ những suy luận của mình. Những tình tiết mới xuất hiện sẽ đưa vụ án này đi đến đâu? Những bí mật đen tối nào đang bị lớp màn của thời gian che phủ. BẤT NGỜ, HẤP DẪN là những gì độc giả nhận xét khi đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám này của Gaboriau. Giới thiệu tác giả Émile Gaboriau Émile Gaboriau (1832 - 1873) là một trong những tiểu thuyết gia “mở màn” cho thời kỳ đỉnh cao của trinh thám Pháp, đưa trinh thám Pháp sánh ngang với trinh thám Anh, trinh thám Âu Mĩ.  Bạn đọc ở Việt Nam biết đến ông với Hồ sơ số 113 và Tội ác ở Orcival.  Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật thám tử tài ba, tài trí Lecoq, Émile Gaboriau đã trở thành một trong những nhà văn trinh thám kiệt xuất trên thế giới và được mệnh danh là "Ông tổ" của tiểu thuyết trinh thám Pháp.  *** “Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình đã kết án, liệu một quan tòa có thể cho phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?” Một đoạn miêu tả tâm lý nhân vật thật xuất sắc với những đấu tranh nội tâm về việc có nên đem chuyện riêng tư vào phép công hay không? Thực chất, nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của nhân vật, chúng ta liệu có công tư phân minh được hay không? Hay cũng chỉ áp dụng quyền hành mà bản thân đang có để triệt tiêu tất cả những mối thù hận và căm hờn lên kẻ thù đang đứng trước mặt? Đôi khi đọc sách là thế, là khiến tôi phải suy ngẫm về những đoạn nhỏ trong sách để tự vấn lòng mình xem bản thân sẽ làm như thế nào với tình huống đó. “Vụ án Lerouge” mở ra với bối cảnh làng La Jonchere bình yên, thế nhưng tất cả mọi người đã bị chấn động bởi cái chết của bà quả phụ Lerouge. Hàng loạt thắc mắc được đặt ra và người ta không hiểu tại sao bà ta bị giết, ai có thể ra tay tàn độc như vậy. Lần này, sự xuất hiện của ông thám tử nghiệp dư Tabaret là một điểm nhấn thú vị và rõ ràng là ông ta có phần tài giỏi hơn cả Lecoq khi sớm tìm ra được hung thủ. Ở nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được bóng dáng của Holmes bởi khả năng quan sát mọi việc và tình tiết rất cẩn trọng. Một chút tự mãn được thêm vào tài năng phá án của lão đã tạo ra một cá tính hết sức riêng biệt, đôi chút hài hước và đôi chút khó ưa. Thực ra, ở “Vụ án Lerouge”, việc hung thủ bị lộ diện không còn là yếu tố hút bạn đọc nữa. Điểm hay nhất chính là mối tình xưa cũ của nhân vật được tiết lộ khiến cho chúng ta thêm phần đồng cảm và thích thú nhiều hơn. Tình yêu bi ai được khai thác triệt để và rõ ràng sẽ lấy được nước mắt bạn đọc. Khổ trong tình yêu và tội ác được nảy sinh không phải là một mối kết nối quá mới nhưng với việc khai thác sâu sắc đã khiến cho câu chuyện thật sự thành công và đầy sâu sắc. Nếu những định kiến của xã hội và kiêu hãnh của con người có thể áp chế tình yêu thì sao nó không thể áp chế được luôn cả những bi kịch đã nảy sinh từ những uất ức đó?! Nhìn chung, “Vụ án Lerouge” đã mang tới một câu chuyện đầy ai oán cho bạn đọc với sự lồng ghép tuyệt vời giữa miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn phá án khá kịch tính. Sự thật và những mâu thuẫn tâm lý đã đẩy câu chuyện đến mức cao trào nhất; đôi lúc, tôi còn cảm thấy bất ngờ như chính cảm xúc của nhân vật trong truyện vì không ai có thể ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng ấy. Tham, sân, si của lòng người đều hiện rõ qua cách diễn đạt của tác giả Émile Gaboriau và nếu phải suy ngẫm về tình đời, tình người thì mọi chuyện đều diễn ra cay đắng quá, khó mà chấp nhận được. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 25-01-2020) Trần Thông *** Émile Gaboriau Chắc các bạn chưa quên “trai đẹp” trong Hồ sơ số 113, “gái đẹp” trong Tội ác ở Orcival. Nay các bạn sẽ biết thêm “ông già” Tabaret rất thú vị. Tại ngôi làng La Jonchere thanh bình, bà quả phụ Lerouge bị sát hại tại nhà. Ở một ngôi làng từ trước tới giờ luôn thanh bình, tại sao bà quả phụ Lerouge lại bị sát hại? Nguyên nhân khiến bà bị sát hại là gì? Tất cả các câu hỏi đó được giải đáp nhờ sự trợ giúp của vị thám tử nghiệp dư, lão Tabaret. Người được gọi là thầy của anh chàng thám tử gà trống Lecoq. Dưới con mắt của thanh tra Gevol, lão Tabaret là một ông già tự phụ như một con công, dễ nổi khùng, dễ mắc lừa, lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Mặc dù đôi lúc có sự nhiệt tình thái quá nhưng không thể phủ nhận tài năng của lão Tabaret. Sự cẩn trọng, tỉ mỉ, khả năng quan sát, suy luận sắc bén. (Sự quan sát tỉ mỉ có bóng dáng của thám tử Sherlock Holmes quen thuộc). Dĩ nhiên có sai lầm thì mới là con người, đâu phải ai cũng thông minh hoàn hảo. Lecoq “trai đẹp” chỉ là cameo trong tập này thôi. Sân khấu chính là lão Tabaret. Không biết có phải do đọc kha khá trinh thám rồi nên “khôn” hơn hay do vụ án mà Boog đoán được cả hung thủ lẫn nguyên nhân gây ra tội ác nên không bất ngờ lắm về hung thủ. Tuy nhiên, để lại cảm xúc ở vụ án này không phải ở khía cạnh trinh thám mà là khía cạnh tình cảm. Boog khá là xúc động, cảm thông cho mối tình bi ai của nhân vật. Tại sao yêu nhau không đến được với nhau, để giờ đây hai ta phải khổ đau. Những rào cản định kiến, sự ngăn cách của xã hội, sai lầm bồng bột của tuổi trẻ đã để lại một bi kịch mà lớp đất thời gian không thể chôn vùi. Đánh giá cá nhân: 7,5/10 Binh Boog *** Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn*, năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival. Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND). Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm. Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge. Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến. Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch. Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép. - Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng. Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh. - Không ai được vào đây! - Ông nói. Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa. Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh: - Mở khóa đi. Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên: - Chìa khóa! Chìa khóa đây này! Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới. - Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào. Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt. - Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm. Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra. Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ. Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo. - Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư! - Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu. - Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”. Ông cúi người, đặt tay lên thi thể. - Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ. Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản. - Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ. - Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi. - Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia. Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết. Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị. Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau: Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà. Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy. Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.” Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.” Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy. Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà. Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên. Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng. Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi. Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật. Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Lerouge của tác giả Émile Gaboriau & Nguyễn Văn Dân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sổ Tay Nhà Thôi Miên Tập 2
“Sổ tay nhà thôi miên” là một bộ truyện viết ở ngôi thứ nhất, nhân vật “tôi” – nhà thôi miên giữ vai trò tự kể lại câu chuyện xoay quanh nghề nghiệp của mình, mỗi phần thu thập khoảng 10 câu chuyện, viết thành 15 chương. Cao Minh đã sáng tác hai cuốn sách rất có tiếng vang là “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” và “Sổ tay nhà thôi miên”, trong đó “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” viết về thế giới bình thường của những con người bất thường, còn “Sổ tay nhà thôi miên” lại viết về thế giới tinh thần bất thường của những con người bình thường. Điểm giống nhau của hai cuốn sách này là đều dựa trên những câu chuyện có thật. Tác giả đã đích thân phỏng vấn các bệnh nhân trong “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” nhưng chỉ góp nhặt thông tin cho “Sổ tay nhà thôi miên” thông qua các nhà thôi miên và bác sĩ phân tích tâm lý, bởi họ phải giữ kín thông tin cá nhân của người bệnh. Chính vì vậy cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” sẽ khiến độc giả chấn động nhiều hơn, bởi đa số chúng ta đều đã gặp phải các vấn đề được nhắc đến trong cuốn sách, thậm chí còn trầm trọng hơn. Mong muốn ban đầu khi ra mắt cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” chính là hy vọng độc giả có thể soi nội tâm mình trước gương, nhìn thẳng vào chính bản thân mình. Mỗi người chúng ta đều giống như một cái lọ, khả năng chất chứa áp lực luôn có hạn, nếu vượt quá khả năng sẽ rất nguy hiểm, nên phải học cách giải tỏa áp lực, thử trao đổi và bộc lộ nó ra ngoài, đừng nên xem nhẹ. Mỗi một câu từ, mỗi một lời đối thoại phi logic, mỗi trật tự sắp xếp trong từng chương của cuốn cách đều được tác giả dày công biên soạn, hy vọng các bạn không bỏ qua khi đọc sách. Thực ra, thế giới này luôn bình thường, chính chúng ta mới có vấn đề. *** Review sách “Sổ tay nhà thôi miên” – Những case thôi miên có thật phản ánh thực trạng căng thẳng tâm lý của nhiều người hiện nay Mâu thuẫn gia đình, áp lực công việc, xung đột tình cảm… là những vấn đề luôn khiến chúng ta căng thẳng, ngủ không ngon và hay gặp ác mộng. Nguyên nhân vì đâu? Phải giải quyết những tình trạng này như thế nào? Cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” mới xuất bản gần đây sẽ cho bạn câu trả lời. “Sổ tay nhà thôi miên” là cuốn sách tâm lý tiếp theo của tác giả Cao Minh sau thành công của “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải”. Chúng ta đã từng biết tới “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” – thành quả của tác giả Cao Minh sau bốn năm lui tới không biết bao nhiêu các bệnh viện tâm thần, các cơ quan của Bộ Công an và vô số các phòng khám để tiếp xúc trực tiếp với hàng trăm “con người không bình thường”, cuốn sách thu hút sự quan tâm của hàng triệu độc giả. Lần này vẫn là tác giả Cao Minh, nhưng là Cao Minh sau những lần tới các phòng khám tâm lý, phòng khám thôi miên thu thập tư liệu, để cho ra đời “Sổ tay nhà thôi miên”, thông qua mười lăm case thôi miên hy vọng có thể phản ánh được thực trạng căng thẳng tâm lý của con người đương đại, phản ánh sự cộng hưởng tâm lý của những người dân thành thị. Đọc xong “Sổ tay nhà thôi miên”, liệu bạn có nhìn thấy bóng hình mình trong đó? Hãy cùng đọc tóm lược về một case trong cuốn sách này nhé! CASE 1: CƠN ÁC MỘNG BẮT NGUỒN TỪ SỰ CHỈ TRỎ CỦA NHỮNG NGƯỜI XUNG QUANH Vừa ngồi xuống, anh ta tỏ ra bứt rứt bất an, liên tục khụt khịt mũi, cử động ngón tay hoăc cau mày do tố chất thần kinh. Có lẽ người đàn ông trung niên trước mặt đang chịu áp lực tâm lý vô cùng lớn và rất bất an vì nó. Nhà phân tích tâm lý: “Anh… gần đây ngủ không ngon à?” Người đàn ông trung niên: “Không phải gần đây, đã ba, bốn năm nay tôi ngủ không ngon giấc. Là thế này, từ ba, bốn năm trước tôi thường xuyên mơ thấy tôi giết vợ mình. Tôi sẽ dùng dao, dùng dây thừng, dùng gối, bẻ gãy cổ, dùng búa… đã vậy sau khi giết còn dùng đủ mọi phương thức để xử lý thi thể… Mỗi lần tỉnh dậy, cả người tôi đều ướt đẫm mồ hôi. Trong giấc mơ tôi đã dự tính trước hết rồi, còn kéo thi thể tới nơi đã chuẩn bị sẵn để xử lý. Ví dụ cắt rời, cho vào bồn tắm đầy axit sulfuric, để tránh axit sulfuric bắn ra ngoài, dùng một tấm kính lớn đậy lên thành bồn, dùng lửa thiêu, hoặc lái xe kéo tới một nơi nào đó, chôn xuống cái hố đã đào sẵn từ trước.” Nhà phân tích tâm lý: “Anh từng mơ thấy bị bắt bao giờ chưa?” Người đàn ông trung niên: “Thời gian đầu thì có, càng về sau càng chuyên nghiệp, không lần nào bị bắt cả.” Nhà phân tích tâm lý: “Vậy vì sao anh lại giết cô ấy?” Người đàn ông trung niên nhìn xuống đầu gối mình, yên lặng rất lâu mới lên tiếng: “ Tôi không biết… Dục vọng giết người thực sự có thể di truyền sao? Năm tôi chín tuổi bố tôi đã giết mẹ tôi. Tôi đã tận mắt nhìn thấy.” Nhà phân tích tâm lý: “Nguyên nhân là gì thế?” Người đàn ông trung niên: “Tôi cũng không rõ lắm, nhưng nghe bà nội tôi kể… Ồ, đúng rồi, tôi do bà nội nuôi lớn. Nghe bà nói, mẹ tôi là một phụ nữ đanh đá, hơn nữa… ừm… hơn nữa, nguyên nhân bố tôi giết mẹ tôi là vì mẹ tôi đã ngoại tình.” Nhà phân tích tâm lý: “Bố anh bị xét xử chưa? Xin lỗi, tôi không có ý muốn dò la chuyện riêng tư, nhưng…” Người đàn ông trung niên: “Không sao, đó là sự thật mà. Xét xử rồi, xử tử hình, vì vậy tôi mới được bà nội nuôi.” PHÂN TÍCH BỆNH ÁN Sau khi người đàn ông trung niên ra về, nhà phân tích tâm lý ngồi nghiêng bên cạnh bàn sách, một cánh tay và hai chân đều gác lên trên bàn, nhắm mắt như đang đánh tạm một giấc vậy. Nhà phân tích tâm lý: “Trong giấc mơ phần quan trọng nhất anh ấy thể hiện không phải bạo lực, mà là rất bình tĩnh xử lý thi thể, anh không cảm thấy như thế rất kỳ quái à?” Nhà thôi miên: “Đánh đồng xử lý thi thể và xu hướng bạo lực thành một là sai à?” Trong lần gặp tiếp theo gần một tuần sau đó, bệnh nhân được hỏi về những thay đổi trong gia đình sau khi bố anh ta giết mẹ anh ta.Nhà phân tích tâm lý: “Đúng vậy, không nên đánh đồng hai việc làm một, giết người là giết người, xử lý thi thể là xử lý thi thể. Giết người đại diện cho bạo lực, còn xử lý thi thể lại mang ý nghĩa khác. Nếu tôi đoán không nhầm, xử lý thi thể biểu hiện tình cảm của anh ấy.” Người đàn ông trung niên: “Ừm, rất nhiều người chỉ chỉ trỏ trỏ bàn tán về tôi… Nhưng bà nội một mình nuôi tôi, kinh tế có hạn, không thể chuyển nhà hay chuyển trường được. Tuy sau khi tốt nghiệp tiểu học lên trung học tình hình có đỡ hơn một chút, nhưng môi trường sống vẫn thế. Về cơ bản… vẫn bị người ta chỉ chỉ trỏ trỏ. Nửa đêm thỉnh thoảng bà nội lại ôm tôi khóc, cho tới khi tôi khóc tỉnh dậy. Bà nội nói với tôi rất nhiều, nhưng khi đó tôi không hiểu, chỉ biết khóc cùng.” Nhà phân tích tâm lý: “Bà anh… còn sống không?” Người đàn ông trung niên: “Mất rồi, hồi tôi còn chưa tốt nghiệp đại học, vì việc này tôi đã nghỉ học mất một năm.” Nhà phân tích tâm lý: “Anh còn họ hàng nào khác không?” Người đàn ông trung niên: “Sau khi xảy ra chuyện, bên phía ông bà ngoại không còn bất cứ liên hệ nào với chúng tôi nữa, có lẽ bên đó vẫn còn họ hàng. Nhưng không qua lại với nhau nên không biết…” Nhà phân tích tâm lý: “Bên đằng nội thì sao?” Người đàn ông trung niên: “Bố tôi là con một, cũng có một số họ hàng xa, nhưng từ sau khi trong nhà xảy ra chuyện, chẳng có bất cứ liên hệ nào nữa.” Nhà phân tích tâm lý gật đầu: “Ừm, được, tôi hiểu rồi. Đợi lát nữa thôi miên xong chúng tôi sẽ cho anh biết vấn đề nằm ở đâu.” Buổi thôi miên tiến hành rất thuận lợi, trọng tâm chính là tình trạng và tâm lý sau khi anh ta mất bố mẹ. Khi buổi thôi miên sắp kết thúc, nhà thôi miên giữ lại những ký ức chôn sâu trong tiềm thức đã khai thác được lúc anh ta bị thôi miên. KẾT LUẬN BỆNH ÁN Giết vợ trong mơ, ngoài việc xu hướng bạo lực, di truyền và bóng ma do tận mắt chứng kiến bố giết mẹ có đôi chút quan hệ với nhau thì đó không phải điểm mấu chốt. Quan trọng ở đây là anh ta khao khát có một thời thơ ấu hoàn chỉnh. Trên thực tế trọng điểm giấc mơ giết vợ nằm ở quá trình xử lý thi thể. Anh ta đã tận mắt nhìn thấy mẹ chết, vì vậy chẳng còn ôm chút hy vọng nào, hy vọng mẹ có thể sống lại là quá xa vời. Bởi vậy anh ta đặt toàn bộ kỳ vọng vào bố, anh ta hy vọng bố mình không bị trị tội, như vậy ít nhất anh ta còn có một gia đình đơn thân chứ không phải mồ côi cả bố lẫn mẹ. Trong giấc mơ, anh ta càng xử lý thi thể gọn gàng sạch sẽ càng dễ dàng trốn thoát sự trừng trị của pháp luật. Cũng có nghĩa tuy mất mẹ nhưng anh ta vẫn còn có bố. Trên phương diện luật pháp, nếu sau khi mưu sát có thể tiêu hủy toàn bố chứng cứ và không thể định tội, vụ án sẽ trở thành vụ mưu sát hoàn mỹ. Vì vậy giấc mơ của anh ta chú trọng tạo ra vụ mưu sát hoàn mỹ, mượn nó để vỗ về giả tưởng bố anh ta sẽ không bị định tội giết vợ. Anh ta sẽ không mất đi cả hai người thân, thời thơ ấu cũng không thê thảm, không phải chịu nhiều áp lực tâm lý nặng nề. Chúng ta đều hiểu, mọi chỉ trích và bàn tán xuất phát từ tội lỗi của bố anh ta. Anh ta vẫn luôn canh cánh trong lòng về những hồi ức thời thơ ấu, cho đến tận bây giờ, vì vậy khi cân nhắc chuyện kết hôn, anh ta kiên quyết bỏ qua kiểu phụ nữ giống mẹ mình bởi sợ sẽ giẫm phải vết xe đổ của bố. Anh ta hiểu rõ chính tính cách dữ dằn và việc ngoại tình của mẹ đã dẫn tới kết quả cực đoan này, và người chịu tổn hại lớn nhất lại chính là anh ta. Sau khi kết hôn và có con, tâm lý khiếm khuyết đó của anh ta được bù đắp phần nào, sự dịu dàng của vợ anh ta và sự ấm áp mà gia đình mang lại đã khiến anh ta không còn ôm bất cứ hoang tưởng và giả thuyết nào về mẹ mình nữa. Nhưng quá khứ mất người thân và phải chịu đựng sự chỉ trích, bàn tán vẫn luôn ám ảnh anh ta, sau khi so sánh với con trai mình lại càng bùng lên mãnh liệt hơn. Anh ta từng nói bắt đầu mơ thấy ác mộng từ ba, bốn năm trước, lúc đó con trai anh ta tầm tám, chín tuổi, bằng tuổi lúc anh ta nhìn thấy bố giết mẹ. Vì vậy anh ta bắt đầu nhớ lại thời thơ ấu của mình thông qua giấc mơ này. Anh ta đã tận mắt chứng kiến tất cả, bản thân anh ta đã trải qua những chuyện đáng lẽ anh ta không nên phải chịu đựng, ngoài hiện thực anh ta đã chẳng còn ôm bất cứ hy vọng nào, thậm chí trong giấc mơ anh ta cũng dùng phương thức chuyển đổi để biểu đạt nguyện vọng của mình. Đề nghị anh ta nên kể chuyện này với vợ, anh ta đã chịu đựng quá nhiều điều không đáng phải chịu đựng và đã gánh vác quá nhiều rồi. Mời các bạn đón đọc Sổ Tay Nhà Thôi Miên Tập 2 của tác giả Cao Minh.
Thi Nhân và Sát nhân
Thi nhân và Sát nhân là tác phẩm thứ chín trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng thời Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên. Năm 670, Địch Công vẫn là huyện lệnh của Huyện Phổ Dương. Khi lưu lại Quyên Thành, ông được Lỗ Tri huyện mời đến đến tham dự dự bữa tiệc của các thi nhân. Nhưng chưa kịp đàm đạo thơ phú, Địch Công đã bị cuốn vào các vụ án mạng và những bí ẩn liên quan đến tín ngưỡng thờ hồ ly trong vùng. Một vị Cống sĩ bị sát hại ngay trong buồng riếng. Người ta đồn đại, chàng bị một con hồ ly đội lốt giai nhân quyến rũ rồi cắn chết. Một thiếu nữ sống cùng bầy cáo trong miếu thờ hắc hồ. Người ta nghi hoặc nàng đang nắm trong tay những bí mật động trời. Trăng rằm ngày một sáng, liệu chân tướng sự việc có nhanh chóng được soi tỏ? Địch Công chỉ còn một cơ hội cuối cùng để tìm ra kẻ sát nhân máu lạnh đang ẩn tàng giữa những thi nhân danh tiếng. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT: huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. Các nhân vật khác LỖ QUAN TÙNG: tri huyện Quyên Thành, một thi sĩ hạng xoàng. CAO PHONG: Sư gia của nha phủ Quyên Thành. THIỆU PHÀN VIÊN: cựu đại học sĩ Hàn lâm viện. TRƯƠNG LAM BA: thi sĩ cung đình. NGỌC LAN: một nữ sĩ danh tiếng. NHƯ Ý: một thiền sư. MẠNH TÔ HẢI: một thương gia buôn trà. TỐNG NHẤT VĂN: một cống sỹ nghiên cứu lịch sử. TIỂU PHƯỢNG: một vũ nữ. CHU HÔNG: vệ nữ miếu Hắc Hồ. Các vụ án trong truyện Vụ án CỐNG SĨ BỊ CỨA CỔ. Vụ án NỮ THI SĨ SÁT NHÂN. Vụ án VŨ NỮ BỊ ÁM HẠI. Mời các bạn đón đọc Thi Nhân và Sát nhân của tác giả Robert van Gulik & Tùng Vũ (dịch).
Ngọc Xuyến Án
Ngọc Xuyến Án là tác phẩm thứ bảy trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Năm 669, sau một chuyến công cán, Địch Công ghé thăm trấn Thanh Xuyên - nơi tọa lạc cung điện mùa hè của Tam Công chúa - với kỳ vọng có vài ngày an nhàn câu cá trước khi trở về Phổ Dương. Nhưng tất cả đã nhanh chóng sụp đổ… Vừa đặt chân đến trấn, Địch Công đã gặp ngay một vụ thảm án. Viên thủ quỹ của một khách điếm bị tra tấn dã man tới chết, xác bị ném xuống sông. Liệu đây có phải một vụ cướp đường thông thường như người ta đã tưởng? Ngay sau đó, Địch Công được bí mật triệu vào cung. Tam Công chúa yêu cầu ông ẩn danh, để truy tìm kẻ đã đánh cắp chuỗi ngọc mà Hoàng thượng đích thân ban cho nàng. Liệu trong hai ngày, Địch Công có thể tránh được tai mắt từ những kẻ quyền thế trong cung, đối phó với một bang hội giang hồ hung ác để phá giải Ngọc Xuyến án, hoàn trả chuỗi ngọc cho vị Công chúa cao quý? “Trụ trượng hai đầu nâng Nhật Nguyệt, Hồ lô một bầu giấu núi sông.” *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Địch huyện lệnh”. Các nhân vật khác TAM CÔNG CHÚA, ái nữ của Hoàng đế, ngụ tại cung Bích Thủy, phía đông trấn Thanh Xuyên. VƯƠNG CẨM TÚ, Tổng quản nữ quan. LÔI CÔNG CÔNG, Đại tổng quản ở cung Bích Thủy. VĂN ĐÔNG, Tổng giám cung ở cung Bích Thủy. KHANG TƯỚNG QUÂN, Chỉ huy Cấm quân. TRÂU LẬP UY, Hiệu úy Cấm quân, dưới trướng Khang Tướng quân. NGỤY THÀNH, chưởng quỹ của khách điếm Thúy Điểu. ĐỚI NINH, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu. TỬ TÂY, cháu gái của Ngụy Thành. LANG LƯU, một phú thương buôn tơ lụa. HỒ LÔ TIÊN SINH, một ẩn sĩ Đạo gia. Các vụ án trong truyện Vụ án Viên thủ quỹ bị sát hại. Vụ án Vị phu nhân bỏ trốn. Vụ án Chuỗi ngọc của Tam Công chúa. Mời các bạn đón đọc Ngọc Xuyến Án của tác giả Robert van Gulik & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Hồng Lâu Án
Hồng lâu án là tác phẩm thứ 8 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án Địch Công kỳ án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng dưới thời Đường - Chu. Sau khi phá giải thành công vụ án chiếc vòng ngọc xuyến của Tam Công chúa, Địch Công được triệu về kinh để thẩm án. Trên đường quay lại huyện Phổ Dương, khi nghỉ dừng chân ở Đảo Bồng Lai – một chốn ăn chơi hưởng lạc nổi tiếng với các song bạc, tửu lâu và kỹ viện, Địch Công được đồng liêu nhờ điều tra vụ án liên quan đến một vị Trạng Nguyên trẻ tuổi tự sát ở Hồng Lâu. Dưới giàn hoa tử đằng, Địch Công tình cờ gặp nàng Hoa khôi xinh đẹp nhưng không lâu sau đó nàng cũng bỏ mạng. Đây có phải là vụ án tự tử vì tình đơn thuần hay có liên quan đến vụ án xảy ra cách đây 30 năm trước? Ân tình khó trả, tri kỉ khó tìm? Liệu Địch Công có thể phá giải được ba vụ án kì lạ, giải đáp bí ẩn của Hồng Lâu? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Lữ khách nghỉ chân tại Hồng lâu Huyện lệnh gặp gỡ vị Hoa khôi