Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Con Trai Phố Pál

Trong cuộc đời, ai cũng có cho mình một mảnh đất thiêng liêng. Và những cậu con trai phố Pál cũng thế, các cậu có một mảnh đất dịu hiền mang tên Khu đất trống. Nơi ấy trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất khô cằn, gồ ghề nằm trong thủ đô, bị thu hẹp bởi hai ngôi nhà cao lớn, nhưng với các cậu đó là “một vùng vô tận, là niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc”. Ở nơi đó có trò bắn bi, chơi bóng, đánh trận giả; có pháo đài, hào lũy; có chủ tịch, đại tướng, thượng úy và độc nhất một “chú lính trơn”. Trong cái thế giới mà trẻ thơ nấn ná trên ngưỡng cửa trở thành người lớn ấy, các cậu con trai phố Pál đã chiến đấu với tất cả trí thông minh, lòng dũng cảm, vị tha và ngay thẳng để bảo vệ Khu đất trống khỏi bị xâm chiếm; biến trò chơi con trẻ thành bài học để trưởng thành. Với nội dung trong sáng, dung dị nhưng giàu ý nghĩa và tính hiện thực, Những cậu con trai phố Pál, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Hungary Molnár Ferenc, đã được đón nhận nồng nhiệt tại quê nhà. Tác phẩm được chuyển thể nhiều lần lên sân khấu kịch, màn ảnh nhỏ và màn ảnh rộng; được đưa vào chương trình học phổ thông và trở thành tựa sách thiếu nhi kinh điển ở nhiều nước như Nhật Bản, Italy, Israel... Tại Việt Nam, Những cậu con trai phố Pál được xuất bản lần đầu năm 1984, qua bản dịch trong sáng và trìu mến của dịch giả Vũ Ngọc Cân – người mang nặng tình cảm với đất nước Hungary. Sau gần bốn thập kỷ, nay một lần nữa Đông A đưa tác phẩm này trở lại với những độc giả đang và đã từng là trẻ thơ, bằng bản dịch đã gắn liền với các thế hệ và nhiều minh họa đẹp, gần gũi với thiếu nhi. Thông tin tác giả:  Molnár Ferenc là một nhà báo, nhà văn, nhà viết kịch Hungary gốc Do Thái – Đức. Từ khi còn trẻ, ông đã viết cho nhiều tờ báo danh tiếng rồi tiếp tục dấn thân làm phóng viên chiến trường trong Thế chiến I. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu sắc kèm chút châm biếm, ông nhanh chóng chinh phục được độc giả, không những vậy, ông còn thể hiện sự đa tài ở nhiều lĩnh vực như kịch nghệ, văn chương. Vào cuối những năm 1930, chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của phát xít Đức, ông sang Pháp, Thụy Sỹ rồi định cư tại Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, mặc dù không chỉ một lần đối mặt với trầm cảm, ông vẫn miệt mài lao động nghệ thuật, gửi gắm sự thấu cảm sâu sắc nơi ngòi bút. Các tác phẩm của ông được yêu thích tại nhiều nước trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (A Pál utcai fiúk, 1907), vở kịch Chàng Liliom (Liliom, 1909) và truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (Széntolvajok, 1918). Năm 1952, ông từ giã cõi đời vì căn bệnh ung thư. Thông tin dịch giả:  PGS.TS Vũ Ngọc Cân sinh tại Hà Nam, bút danh Vũ Thanh Xuân. Năm 1973, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Eötvös Loránd (Hungary) ngành Ngữ văn Hung – Pháp, rồi trở thành giảng viên tiếng Hung, ngôn ngữ học, Việt ngữ học và lịch sử văn minh thế giới tại Đại học Ngoại ngữ (nay là Đại học Hà Nội). Từ đó, ông gắn bó với nghề giáo ở cả Việt Nam lẫn Hungary. Song song đó, ông còn là một dịch giả thành công trong việc chuyển ngữ nhiều tác phẩm tiếng Hung sang tiếng Việt và ngược lại. Các dịch phẩm tiêu biểu của ông như: Những cậu con trai phố Pál (1984, 2010), Cái chết của ông bác sỹ (1987), Dạ, thưa thầy (2010), Ba nhà thơ vĩ đại của Hungary (2010), 65 bài thơ tuyển đại thi hào Hungary Arany János (2017)… *** Sự trở lại của 'Những cậu con trai phố Pál' Không chỉ là cuốn sách dành cho trẻ em trai, tác phẩm còn là ký ức của những người đàn ông thực thụ. Là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng ở Hungary, cũng như toàn thế giới, Những cậu con trai phố Pál của Molnar Ferenc được xuất bản lần đầu năm 1907. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trở thành sách giáo khoa của Hungary, đồng thời được chuyển thể thành phim và kịch nhiều lần ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên năm 1984, do PGS.TS Vũ Ngọc Cân (Vũ Thanh Xuân) chuyển ngữ. Năm nay, nó được Đông A cùng NXB Dân Trí tái bản với bìa cứng, tranh minh họa màu sinh động, mang tính mỹ thuật cao. Nội dung hấp dẫn và phi thời đại Cuốn truyện kể về cuộc chiến kịch tích giữa hai nhóm nam sinh thủ đô Budapest, Hungary: Phe phố Pál và phe Áo đỏ tranh giành chỗ chơi bóng ở một nơi gọi là "Khu đất trống giữa lòng thủ đô". Khu đất trống trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất hoang ngổn ngang phế liệu. Nhưng trong mắt các cậu bé, đó là “một vùng vô tận, niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc” với đầy đủ thế giới các trò chơi bi bóng, trận giả; đại úy và lính trơn; pháo đài, bom cát và hào lũy như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và như chiến tranh thực sự, nhiều tổn thương và mất mát xảy ra để bảo vệ cho điều mình yêu thương và tin tưởng. Trò chơi con trẻ đã thành bài học để trưởng thành. Nhóm trẻ phố Pál được ẩn dụ với màu sắc quốc gia của Hungary (lá cờ riêng màu đỏ, trắng, xanh lá cây) do Boka làm thủ lĩnh, đã tổ chức một “trận chiến” quy mô trên khu đất trước những kẻ xâm lăng Áo đỏ (vì chúng thần tượng Garibaldi - anh hùng dân tộc Italy) đứng đầu là Áts Feri. Cuốn sách được viết vào năm 1907, cách đây hơn một thế kỷ, nhưng vẫn luôn có giá trị phi thời gian, mặc dù Nemecseck về nhà bằng chiếc xe ngựa chạy quanh Budapest thay vì xe bus, hay những lọ mực kiểu cũ luôn bị đổ trong túi Boka. Hai nhóm nam sinh khi tuyên bố tiến hành "chiến tranh" đã sử dụng tất cả thuật ngữ của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ 20. Cuốn sách cũng được xuất bản ngay trước khi Đảng Quốc xã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đức. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách có giá trị phi thời đại. Dàn nhân vật nam đặc sắc Những cậu con trai phố Pál sở hữu một dàn nhân vật tuyệt vời, những cá tính đa dạng và phức tạp một cách đáng ngạc nhiên đối với cuốn sách cho trẻ em. Được coi là băng đảng “phản diện”, Áts Feri và chiến hữu của cậu ta không bị “xấu xa hóa”, họ đủ đàng hoàng. Cũng như các chàng trai phố Pal của chúng ta còn lâu mới được coi là hoàn hảo. Boka - chủ tịch khu đất trống - dũng cảm, sáng suốt, trung thực, đúng đắn, biết cách đưa ra quyết định, đúng mẫu “con đực đầu đàn”. Các cậu trai khác nhìn thấy ở Boka một hình mẫu đàn ông để noi theo. Nemecsek bé nhỏ, cậu lính trơn duy nhất của khu đất, lại là một định nghĩa khác của người đàn ông đích thực, tuy vụng về yếu ớt, thường bị bạn bè coi thường nhưng lại là người can đảm, hy sinh bản thân vì đồng đội, vì những giá trị thiêng liêng mà cậu coi trọng. Phía bên kia chiến tuyến, thủ lĩnh phe Áo đỏ Áts Feri cũng có nét tương đồng với Boka, mạnh mẽ, táo bạo, lại rất hào hoa đẹp trai. Hoàn toàn không phải là “phản diện” kinh điển, Feri tôn trọng kẻ thù, đánh giá cao sự dũng cảm của Nemecsek. Và sau đó là Gereb - một cậu bé phố Pál đầy tham vọng, đố kỵ với Boka, trở thành kẻ phản bội khi về phe Áo đỏ. Nhưng rồi cậu đã nhận ra sai lầm, cư xử tuyệt vời trong trận chiến, giành lại được tình bạn với Boka. Các nhân vật đều có đầy đủ tính khí trẻ con, nhưng đều sở hữu một loạt giá trị: Cao thượng, dũng cảm, ngay thẳng, tự trọng. Tất nhiên, có những nhân vật tiêu cực, nhưng họ cũng vẫn có phẩm giá và danh dự. Cũng có thể đó chính là điều tác giả muốn nói rằng, ở trẻ em, chúng ta có thể tìm thấy những phẩm chất mà chính chúng ta đã đánh mất khi lớn lên. Nỗi buồn làm nên sự trưởng thành trong cuộc sống Nếu là người lớn, việc đọc cuốn sách này có thể gợi những liên tưởng sâu xa hơn. Với bối cảnh vào đầu những năm 1900, khi châu Âu bị giằng xé và chia cắt bởi nhiều cường quốc, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa việc bảo vệ sân chơi của trẻ em với việc bảo vệ tổ quốc của một dân tộc. Những ẩn dụ ấy thể hiện qua sự tổ chức quân đội quy củ của lũ trẻ, chủ nghĩa anh hùng và việc lên án hành động “phản quốc” của Gereb. Thông qua đó, người đọc mọi lứa tuổi sẽ có thể cảm nhận được một câu chuyện xúc động về tình chiến hữu và lòng trung thành, nỗi khát khao và trách nhiệm chiến đấu vì một mảnh đất nhỏ bé nhưng tự do - những giá trị rất cần đến tận ngày nay. Câu chuyện phố Pál cũng có thể được đọc như một sự tiếc thương cho chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu đầu thế kỷ 20 trước thềm Thế chiến thứ nhất, khi các chàng trai nhỏ đưa ra nhiều tuyên ngôn mang tính dân tộc, quyết liệt bảo vệ “quê hương” trước kẻ thù. Cuối cùng, “quê hương” của các chàng trai đã biến thành khu nhà cao tầng trong quá trình đô thị hóa, bất kể những hy sinh đã được thực hiện để cứu mảnh đất nhỏ bé. Một kết thúc nhiều đắng cay và đầy trăn trở nghẹn ngào. Cũng có một số ý kiến của các bậc cha mẹ cho rằng không thấy bóng dáng phụ huynh trong khi hai lũ trẻ đánh nhau kịch liệt, trong khi đáng lẽ chúng cần phải có sự trợ giúp của người lớn để tránh khi mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Boka đã rất tuyệt vọng, không chỉ vì những điều đã xảy ra với Nemecsek, mà còn vì ngay sau chiến thắng cậu phát hiện ra những điều mà những người trưởng thành đã làm ở khu đất trống thiêng liêng của lũ trẻ các cậu. Cậu hiểu rằng trận chiến của họ cuối cùng đã thành vô ích. Niềm an ủi duy nhất của Boka là biết rằng ít nhất Nemecsek sẽ không bao giờ phải biết tới điều đó. Ngoài đời, tác giả Molnár Ferenc từng là người ủng hộ Đế chế Áo - Hung với tư cách phóng viên chiến trường trong Thế chiến thứ nhất. Tuy nhiên, ông đã phải rời xa Budapest thân yêu, di cư đến Mỹ để thoát khỏi sự đàn áp người Do Thái Hungary trong Thế chiến thứ hai, rồi qua đời trong bệnh tật và trầm cảm. Tuy nhiên, ở Budapest, bức tượng tái hiện cảnh lũ trẻ phố Pál chơi đùa vẫn còn đó để tôn vinh một tác phẩm yêu thích của nhiều thế hệ, một niềm tự hào của nền văn học Hungary. *** Lời giới thiệu Molnár Ferenc sinh ngày 12 tháng 1 năm 1878 tại Budapest, trong một gia đình tư sản gốc Do Thái - Đức nhưng đã nhiều đời sống ở Hungary. Bố là bác sỹ Neumann Mór (1848 - 1907) làm việc tại một nhà máy lớn ở thủ đô. Thuở thiếu thời ông đã bộc lộ năng khiếu đặc biệt về văn học và báo chí. Cuối thời trung học ông đã tham gia viết báo và đổi họ cũ Neumann thành họ hoàn toàn như người Hung là Molnár. Năm 1896, sau khi tốt nghiệp trung học, do áp lực của gia đình ông theo học khoa luật của một trường đại học ở Genève, Thụy Sỹ. Được một năm thì ông bỏ về Tổ quốc học tiếp ở thủ đô Budapest. Tuy nhiên giữa chừng ông đi làm phóng viên cho tờ Nhật ký Budapest và nhiều tờ báo danh tiếng khác ở thủ đô. Nhà báo trẻ Molnár Ferenc nhanh chóng nổi tiếng với phong cách nhẹ nhàng, tài quan sát sắc sảo và giọng điệu khôi hài, châm biếm. Trong Thế chiến I (1914 - 1918) ông làm phóng viên mặt trận, tham gia viết bài từ chiến trường Galicia ở Tây Ban Nha. Những năm sau đó ông trở về nước và tiếp tục sáng tác. Năm 1922, ông lấy vợ lần thứ hai, nhưng cũng giống như cuộc hôn nhân lần thứ nhất vào năm 1906, họ mau chóng ly hôn. Những sáng tác của ông thời gian này tập trung vào thể loại kịch nhiều hơn. Năm 1937, ông đã cùng người vợ thứ ba chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của chủ nghĩa phát xít Đức, đầu tiên sang Pháp, rồi Thụy Sỹ, sau đó hai năm thì tìm cách sang New York (Mỹ) định cư và cũng qua đời tại đây vào năm 1952. Những tác phẩm văn xuôi đầu tiên mà Molnár Ferenc công bố là tập truyện ngắn Magdolna và những chuyện khác (1898) và Đêm của những cái hôn (1899), sau đó ông bắt đầu viết cả tiểu thuyết và kịch. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông cho in vào năm 1901 là Thành phố đói phơi bày những mâu thuẫn của thế giới tư sản bằng một giọng điệu trào phúng sâu cay. Năm sau, vở hài kịch Ngài đốc tờ nội dung đề cập đến mối quan hệ làm ăn phi pháp lố bịch giữa một luật sư với một băng đảng trộm cắp được đưa lên sân khấu biểu diễn, được hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó ông liên tục - kể cả thời gian sinh sống ở Mỹ - cho ra mắt các tác phẩm xuất sắc của mình. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động văn học, ông đã cho in 13 tập truyện ngắn, 10 tiểu thuyết, 23 vở kịch và hàng trăm bài báo. Với nhiều tác phẩm được dịch ra các thứ tiếng nước ngoài, nhiều vở kịch hiện nay vẫn được công diễn ở nhiều quốc gia, ông đã trở thành một trong số các nhà văn Hungary nổi tiếng nhất cả trong nước lẫn trên thế giới. Ở các lĩnh vực văn xuôi khác nhau ông đều để lại những tác phẩm kiệt xuất như vở kịch Chàng Liliom(1909), truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (1918) và đặc biệt là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (1907) - một tác phẩm nằm trong chương trình học phổ thông của Hungary, một số nước Đông Âu và cả ở Nhật Bản. Ban đầu Molnár viết tác phẩm này theo yêu cầu của tờ tạp chí Báo Học trò, do thầy giáo ông là Rupp Kornél (1865-1900) sáng lập từ năm 1894. Năm 1905, ông bắt đầu cho đăng từng kỳ ở tạp chí này. Hằng ngày ông ngồi ở một góc quán cà phê gần nhà viết các chương tiếp theo và đăng đều đặn cho đến hết vào năm 1906. Năm sau, tác phẩm được in thành sách, rồi đến đầu những năm 1910 thì được dịch sang tiếng Anh, Đức, và từ đó đến nay sang rất nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Còn ở trong nước cho đến nay tác phẩm đã được tái bản gần 50 lần. Những cậu con trai phố Pál phản ánh cuộc sống của thiếu niên Hungary những năm 90 của thế kỷ 19. Truyện kể về hai nhóm trẻ sống ở Budapest, học ở hai trường khác nhau: bọn con trai do Áts Feri cầm đầu thì chiếm giữ Vườn cỏ, còn những cậu con trai phố Pál do Boka làm chủ tướng thì đóng đô ở Khu đất trống. Bọn Áts Feri rắp tâm đánh chiếm Khu đất trống để làm sân đá bóng. Những cậu con trai phố Pál thì dũng cảm chiến đấu bảo vệ Khu đất trống không khác gì bảo vệ Tổ quốc của mình. Thông qua cuộc chiến đó, tác phẩm đã phản ánh toàn bộ thế giới trẻ thơ, nói chính xác hơn là thế giới của tuổi dậy thì như ước muốn tự do, sự anh dũng quả cảm, lòng trung thành, sẵn sàng hy sinh… Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp đó, tác giả cũng khéo léo đề cập đến những cái xấu xa của con người như là sự phản bội, sự ghen ghét đố kỵ, tính ăn cắp, thói quan liêu cứng nhắc… Nói cách khác, Những cậu con trai phố Pál là cuốn sách có giá trị giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc cho trẻ em, và đọng lại nhiều dư vị cho người lớn. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, chân thật cho tác phẩm chính là bối cảnh, nhân vật được rút tỉa từ chính ký ức và đời sống của tác giả. Thế giới trong truyện là có thực. Đó là vùng phụ cận với nhà số 83 đại lộ József nơi nhà văn ở. Ba địa điểm xuyên suốt câu chuyện là trường học Lónyay, Vườn cỏ và đặc biệt là Khu đất trống. Ngày nay, Vườn cỏ vẫn còn giữ lại một phần của Khu Nhà thương trên đường Üllői; còn tòa nhà 3 tầng, mà cái nền của nó là Khu đất trống, vẫn nằm ở góc phố Mária và phố Pál. Phố Rákos thì không còn, nhưng ngôi nhà của gia đình Nemecsek trên đó thì có thể ở gần Viện bảo tàng Mỹ thuật Công nghiệp bây giờ. Các nhân vật trong truyện cũng là những con người có thật: đó là những bạn học, những thầy giáo của Molnár ở trường Trung học Cải lương Lónyay. Có thể nói, Những cậu con trai phố Pál không chỉ là một trong những cuốn sách hay nhất của nền văn học thiếu nhi Hungary mà còn của cả thế giới. Đây là một tác phẩm khó quên nếu không muốn nói là không thể quên với những ai đã từng đọc một lần. Sau khi đọc xong dòng cuối, từ từ gấp cuốn sách lại, độc giả không thể không dành tiếp thời gian luyến tiếc, khâm phục và bùi ngùi nhớ đến các nhân vật trong truyện. Khương Đình, đầu xuân năm Canh Tý 2020 PGS. TS. VŨ NGỌC CÂN Mời các bạn đón đọc Những Cậu Con Trai Phố Pál của tác giả Molnár Ferenc & Vũ Ngọc Cân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lắng Nghe Tiếng Yêu - Carole Mortimer
Jude Marshall, Max và Will Davenport là ba người bạn thân từ còn đại học. Jude Marshall đứng đầu tập đoàn Marshall, lạnh lùng và tàn nhẫn, không hề nương tay trên thương trường. Max trở thành luật sư của Jude, kiểu người lạnh lùng và xa cách. Will Davenport là kiến trúc sư hàng đầu cho những công trình của Jude, ngang tàng và bướng bỉnh nhưng cũng được coi là hiền lành nhất trong bộ ba độc thân. Ba người đàn ông đẹp trai, giàu có và thành đạt, đã từng làm tan nát bao trái tim các thiếu nữ. Vậy mà họ lại bị hạ "knock out" một cách không khoan nhượng khi đối đầu với những người phụ nữ nhà Calendar: May, March, và January. Câu chuyện bắt đầu khi Tập đoàn Marshall muốn mua một vùng đất để xây dựng khu giải trí nhưng chỉ còn mỗi trang trại nho nhỏ nhà Calendar nằm chính giữa vùng đất là chưa chịu bán, và tất nhiên cả ba chị em nhà Calendar không hề có ý định bán đi trang trại yêu thương mang đầy ký ức của người cha mới mất gần một năm rưỡi trước của họ. Ở "Lọ Lem Bướng Bỉnh", chàng luật sư Max lạnh lùng đã đầu hàng vô điều kiện trước sự hấp dẫn và nhiệt tình của January xinh đẹp - cô em út của nhà Calendar. Và đến "Lắng nghe tiếng yêu", Will Davenport, anh chàng kiến trúc sư được coi là hiền lành nhất ba người cũng bị đánh bại bởi cô nàng March, người được coi là nóng tính và hung dữ nhất trong cả ba chị em nhà Calendar. Thật là một sự kết hợp hay ho. Họ gặp nhau lần đầu đã không hề thân thiện, (tất nhiên không hề biết danh tính của nhau) - nhất là từ phía March, khi mà anh chàng đột nhiên ở đâu xuất hiện lấy mất chỗ để xe mọi khi của cô, làm cô đi làm muộn. Một ngày mở đầu tồi tệ! Thế mà còn chưa đủ khi vô duyên lại phải chạm chán một lần nữa, lần này là trong văn phòng của cô khi anh muốn thuê nhà, và cô thì làm cho một văn phòng bất động sản. Thế là câu chuyện của cặp đôi "oan gia" bắt đầu. Bộ sách Calendar Mistress gồm có: Lọ Lem Bướng Bỉnh Lắng Nghe Tiếng Yêu Trang Trại Tình Yêu Carole Mortimer sinh năm 1960, là nhà văn người Anh được biết đến rộng rãi với hơn 150 tiểu thuyết lãng mãn. Bà là một trong những tác giả trẻ tuổi nhất của NXB Mills & Boon đồng thời cũng là một trong những người viết nhiều nhất của hãng này. *** Có lẽ cô say thật, bởi Will thật sự không thể vừa ngỏ lời cầu hôn cô. Anh có thể...? Cô trân trân nhìn anh, không thể đọc được bất cứ điều gì từ nét mặt kín như bưng ấy. Ngoại trừ... Lúc này, cô nhìn anh gần hơn, Will trông không tốt hơn cô, quầng thâm ngay bên dưới đôi mắt màu xanh rực rỡ, gương mặt cũng gầy hẳn, vẻ xanh xao mệt mỏi hiện trên hai má hốc hác. Có lẽ anh cũng khổ sở như cô suốt ba ngày qua? Có lẽ bởi cùng một nguyên nhân - bởi vì anh cũng yêu cô! Cô thấm ướt đôi môi khô khốc trước khi cẩn thận đặt cái ly rỗng xuống mặt bàn, đứng lên đến gần anh rồi ngước lên không chút ngần ngại, nhìn vào mặt anh. Vẻ mặt phòng bị của anh lung lay và biến mất, được thay bởi - Bởi cái gì? Không nắm chắc? Thận trọng? Hy vọng? Tất cả ba điều đó đang trao cho March sự tự tin đưa tay lên nhẹ nhàng vuốt ve một bên gò má thô ráp trước khi nhón chân và dịu dàng hôn vào môi anh. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Tiếng Yêu của tác giả Carole Mortimer.
Cô Gái Trong Gương - Cecelia Ahern
Sách gồm hai câu chuyện độc đáo, ấn tượng của Cecelia Ahern - tác giả có tiểu thuyết bán chạy nhất với rất nhiều giải thưởng và lời khen ngợi nồng nhiệt từ bạn đọc trên khắp thế giới. - CÔ GÁI TRONG GƯƠNG: viết về cuộc sống của một cô gái trẻ tên Lila. Hồn nhiên lớn lên bên người bà bị mù và ngôi nhà nhiều bí ẩn với những tấm gương luôn phủ kín, LiLa tận hưởng cuộc sống của mình. Rồi cô gặp được người đàn ông trong mơ và hai người quyết định tiến tới lễ cưới. Nhưng vào ngày hôn lễ diễn ra, một bí mật khủng khiếp trong gia đình bà cô bị hé lộ, và số phận của cô gái trẻ đã thay đổi một cách bất ngờ... - NGƯỜI TẠO RA KÝ ỨC: Tình đầu luôn là mối tình đẹp nhất. Nếu chẳng may tình yêu đó không có một kết thúc hạnh phúc, người ta vẫn luôn nâng niu gìn giữ những kỷ niệm đẹp. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi những ký ức bắt đầu phai nhạt theo tháng năm? Làm thế nào để giữ cho quá khứ không bị phủ bụi thời gian, và hàn gắn những con tim tan vỡ bằng việc lưu giữ những khoảnh khắc quý giá nhất? Một cỗ máy lạ lùng sẽ giúp người ta điều đó, nhưng liệu nó có đem lại hiệu quả như mong muốn? *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương *** “Bà Grellie, bà Grellie, cháu tới rồi đây.” Lila gõ cửa, đầy phấn khích. Cô bé nhún hết chân này đến chân kia, cảm thấy đôi vớ đã trượt từ đầu gối xuống, cọ vào da rồi rũ thành một đống nhàu nhĩ quanh mắt cá chân, giống anh lính cứu hỏa say rượu mới tuột xuống từ cây cột. Cô kéo chiếc áo trong đang che hai bên má lạnh cóng ra, thổi sợi tóc tơ bị dính trên đôi môi ướt át và gõ lần nữa lên cánh cửa với những đốt ngón tay giờ đã đỏ ửng. “Sao cậu lại gọi bà là Grellie?” Cô gái nhỏ đứng bên cạnh Lila cuối cùng cũng lên tiếng. Giọng cô lạc lõng giữa cánh cửa khổng lồ. Cô nhận thấy điều đó và tiến lại gần Lila để tìm kiếm sự an toàn, giúp cô chống lại thứ gì đấy mà cô cũng không chắc lắm. Khu vườn phía trước nhà, nơi họ vừa đi qua trông như một cánh rừng; hoang vu và um tùm, không giống như vườn nhà Sarah tí nào. Ở đó, cứ hai tuần một lần, người làm vườn lại đến tỉa tót chăm sóc, đảm bảo rằng mọi thứ đối xứng và hoàn hảo, rồi nháy mắt với cô bất cứ khi nào anh nhìn thấy cô bé bên ô cửa sổ. Cô sẽ kết hôn với anh nếu cô đủ tuổi. Nhưng khu vườn này thì hoàn toàn khác. Cô cảm giác mình sẽ lạc đường mãi mãi nếu bước chệch ra khỏi những phiến đá lót đường được xếp đặt ngẫu nhiên dẫn đến cánh cửa trước. Những đóa hoa dại nồng hương rướn lên phía trên đầu cô, tò mò chen chúc nhìn vào bên trong ngôi nhà như thể chúng đang chiến đấu để giành lấy một khoảng không. Những nhánh cây cong ra, vặn vẹo theo những góc độ đáng lo ngại làm cho Sarah rùng mình. “Bà Grellie.” Lila gõ cửa lần nữa, tỏ ra mất kiên nhẫn. “Hãy thôi gọi bà như thế đi,” Sarah nói một cách lo lắng. “Tại sao cậu cứ gọi bà như thế?” Lila cuối cũng lấy lại được sự điềm tĩnh, ngưng bồn chồn và nhìn cô bạn một cách tò mò. Cô chuyển sang thế phòng thủ, mắt nheo lại. “Đây là bà Ellie của mình. Nên mình gọi bà là bà Grellie.” “Ồ. Có thể bà không có nhà. Chúng ta nên đi thôi.” ... Mời các bạn đson đọc Cô Gái Trong Gương của tác giả Cecelia Ahern.
Nữ Tu Sĩ - Denis Diderot
Nữ Tu Sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân... Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả thật là một địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê sợ... Nhưng Nữ Tu Sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Xuydan không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Hình ảnh Xuydan là hình ảnh những phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Baxti để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ Tu Sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. *** Denis Diderot (1713-1784) sinh ngày 5.10.1713 là nhà văn, nhà tư tưởng kiệt xuất, một trong những nhân vật khổng lồ, ưu tú nhất của phong trào Khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII. Sau khi xong bậc trung học, mặc dù cha ông muốn ông tìm việc làm, nhưng ông âm thầm theo học khoa Triết, Toán và cả Giải phẫu. Ra trường, ông tham gia làng báo và say mê viết lách. Năm 36 tuổi, ông cho ấn hành tập tiểu luận nhỏ “Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc”. Tập tiểu luận này đã khiến ông vào tù 3 tháng do bị cho là đụng chạm đến nhà cầm quyền thời đó. Năm 1751, ông cùng với Jean le Rond d'Alembert chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư” đầu tiên trên thế giới, giảng giải về khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp. Bên cạnh đó, ông viết nhiều vở kịch, tiểu thuyết cùng những bài biên khảo về nghệ thuật, xác định những quy tắc của thể loại kịch, sáng lập môn phê bình nghệ thuật. Làm việc cần cù song ông vẫn nghèo. Mến mộ ông, Nữ hoàng Catherine II của Nga đã chu cấp tiền bạc cho ông hàng năm. Năm 1773, ông sang Nga để tạ ơn Nữ hoàng và được mời làm Viện sĩ danh dự nước ngoài Viện Hàn lâm Khoa học St. Pertersbug. Trong các tác phẩm triết học: Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc (1749), Những suy nghĩ giải thích giới tự nhiên (1754), Giấc mơ của d'Alembert (1769), Những nguyên tắc triết học của vật chất và vận động (1770), Diderot đã chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Trong tác phẩm "Người cháu họ của Rameau" viết khoảng năm 1762, ông nêu ra những luận điểm của phép biện chứng. Trong văn học, Diderot đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực với tiểu thuyết "Jacquies - kẻ theo thuyết định mệnh và ông chủ của anh ta"(1773) và truyện ngắn "Nữ tu sĩ" (1760), mà ông đã tiến hành đồng thời trong các tác phẩm phê bình nghệ thuật tạo hình "Các phòng triển lãm" (1759-1781) và sân khấu "Nghịch lý về diễn viên" (1773-1778). Ông mất ngày 31-7-1784 tại Paris, Pháp. Ngoài các tác phẩm triết học, văn chương, ông còn là người biên soạn chính của công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ mà giá trị của nó đến nay vẫn còn phát huy tác dụng. *** Nữ tu sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Đã từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân. Chúng lập một mạng lưới nhà thờ dày đặc khắp thành thị và nông thôn nước Pháp. Có thể nói bóng đen của nhà thờ ngả xuống hầu hết ruộng đất của nước Pháp. Bên cạnh chính quyền vốn đã hà khắc của chế độ quân chủ chuyên chế để cai trị nhân dân về mặt pháp lý, lại có thêm thẩm quyền của tôn giáo để áp bức nhân dân về mặt linh hồn. Hầu hết những việc ma chay, cưới hỏi của nhân dân đều do nhà thờ quyết định. Để kìm hãm nhân dân trong ngu tối, nhà thờ tích cực hoạt động ngăn trở sự phát triển của khoa học, của triết học duy vật, nói tóm lại, của tiến bộ xã hội. Vì vậy mà từ trước đến nay, những nhà tư tưởng, những văn nghệ sĩ tiền tiến của các thời đại đều đã lên tiếng phản đối những học thuyết ngu dân của nhà thờ. Từ thời Phục hưng, Boccaccio, nhà văn Ý, trong các truyện của mình, cũng như viết hài kịch Pháp Molière ở thế kỷ XVIII, trong các vở Trường học làm vợ, Tartuffe, Don Juan đều đã vạch trần tính chất giả nhân giả nghĩa và những sự tàn bạo của nhà thờ. Viết Nữ tu sĩ, Diderot đã tiếp tục truyền thống chống những sự hà lạm của nhà thờ trong văn học Pháp và châu Âu. Qua sự mô tả cuộc đời của cô gái Suzanne ở các tu viện, ông lên án sự cuồng tín của tôn giáo, cuộc sống khổ hạnh cùng tất cả những biện pháp thô bạo được áp dụng trong nhà tu nhằm đàn áp lý trí, hủy hoại nhân cách con người. Đồng thời ông gián tiếp lên án chế độ đương thời đã làm chỗ dựa cho những hoạt động tôn giáo phản động như vậy. Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả là địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê rợn. Những kẻ được sủng ái thì hành hạ kẻ khác, những người bị ruồng bỏ thì trở thành nạn nhân của mọi sự hành hạ. Diderot cho ta thấy do một sự giáo dục khổ hạnh trái với tự nhiên, con người không còn giữ được bản chất tốt đẹp của mình, đúng như lời bà nhất Moni đã có lần nói với Suzanne: “Con ạ! Trong tất cả những người ở xung quanh chúng ta, những người rất mực ngoan ngoãn, trong trắng, dịu dàng, hầu như không có một người nào, phải, không có một người nào mà mẹ không thể làm cho họ trở thành con thú dữ”. Nhưng Nữ tu sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Diderot, cũng như các nhà Bách khoa khác, trong khi đấu tranh cho tự do, cho sự giải phóng của con người, đã nhiều lần lên tiếng bênh vực quyền lợi và địa vị của phụ nữ. Suzanne không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Cô đã chiến thắng những tư tưởng bi quan, đầu hàng, và đã tìm mọi cách thoát ra khỏi tu viện hắc ám, tuy cuộc sống trước mắt còn dành cho cô sự hãi hùng. Hình ảnh Suzanne là hình ảnh người phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Bastille để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ tu sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. Truyện này được viết theo thể loại triết lý, một thể loại được sử dụng rộng rãi ở thế kỷ XVIII. Nhằm mục đích phổ biến rộng rãi các tư tưởng chính trị, triết học đến quảng đại quần chúng, các nhà văn Ánh sáng đã dùng những loại truyện này để làm cho người đọc dễ tiếp thụ những quan điểm của mình. Chúng ta đều biết Voltaire rất sở trường về loại văn này và đã để lại nhiều kiệt tác như Candide, Người chất phác… Các truyện khác của Diderot như Người cháu của Rameau, Jacques, anh chàng định mệnh chủ nghĩa đều là những truyện triết lý. Nhân vật Suzanne làm ta nghĩ đến hình ảnh những “con người tự nhiên” mà ta thường thấy trong nền văn học thế kỷ XVIII. Đó là những con người trong trắng, ngây thơ, chưa hề bị những ảnh hưởng xấu xa của các quan hệ tư sản làm hư hỏng. Suzanne không phải là một người vô thần, trái lại, cô hết lòng kính Chúa, mộ đạo. Nhưng lương tri sáng suốt của “con người tự nhiên” không thể chấp nhận những tội ác hàng ngày diễn ra trong tu viện, những nghi lễ vô lý người ta bày ra ở đấy để mê hoặc các nữ tu sĩ đáng thương Suzanne, do những điều chứng kiến ở tu viện, đã nhìn nhận được những lừa bịp trắng trợn của những kẻ mạo danh Chúa để làm những điều bỉ ổi. Đây là điểm là cho Nữ tu sĩ khác với truyện triết lý của nhiều nhà văn khác. Thường thường trong các truyện triết lý, nhà văn quan tâm đến sự minh họa tư tưởng của mình hơn là mô tả tâm lý nhân vật. Ngược lại, Suzanne có một đời sống nội tâm khá tế nhị, phong phú. Với một ngòi bút mang nhiều tính chất hiện thực sâu sắc, Diderot mô tả một cách tỉ mỉ những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Suzanne. Từ lòng tin Chúa ngây thơ, Suzanne đã dần dần đi tới chỗ hoài nghi, và từ đó đến chỗ phản kháng, phẫn nộ; cô gái hiền lành quen sống nhẫn nhục trong gia đình mà ở đó cô bị khinh bỉ đã dần dần trở nên một người dám nổi loạn chống áp bức, chống giả dối, chống thành kiến, chống tàn bạo. Ngoài Suzanne, các nhân vật như bà nhất và các tu nữ khác, cùng với những cơn điên loạn của họ, cũng đều có một đời sống tâm lý rõ rệt. Mời các bạn đón đọc Nữ Tu Sĩ của tác giả Denis Diderot.
Cái Chết của Ivan Ilich - Lev Tolstoy
Ivan Illich tuyệt vọng vì thấy cuộc đời mình đang chấm dứt. Trong thâm tâm, ông biết mình sắp chết. Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đối với ông. Ông không hiểu nó, hoàn toàn không thể hiểu được nó. Ông đã được học trong sách Luận Lý của Kizeveter một thí dụ của tam đoạn luận như sau : "Caius là một con người, mọi con người đều phải chết, nên Caius phải chết". Lý luận trên rất đúng khi nó được áp dụng cho Caius, nhưng không thể là sự thực khi nó được áp dụng cho ông. Khi nói đến Caius, hay con người nói chung, thì sự chết là tự nhiên, nhưng ông, ông không phải là Caius, cũng không phải là con người nói chung. Ông là một con người đặc thù, cá biệt, là Vania của bố, của mẹ, của Mitia và Volodia, với những đồ chơi, người đánh xe, chị giúp việc, và Katenka … với bao niềm vui, nỗi buồn, bao sự phấn khởi, say mê, của tuổi thơ, của lúc dậy thì và thời xuân trẻ. Caius có bao giờ ngửi thấy mùi thơm của quả bóng da mà Vania vô cùng yêu thích? Caius có bao giờ hôn bàn tay mẹ? Có bao giờ nghe tấm váy lụa của bà kêu sột soạt? Có phải ngày kia Caius đã gây bao ồn ào trong trường học, chỉ vì mấy cái bánh ngọt? Caius có từng yêu? Có từng chủ trì một cách thần tình những phiên tòa phức tạp (Ivan là một quan tòa cao cấp - NHV)? Caius phải chết, và cái chết của hắn là tự nhiên. Nhưng tôi, Vania, Ivan Illich, với tất cả những cảm xúc, trí tuệ, của riêng tôi, không liên hệ gì đến hắn. Cái chết của tôi là một nghịch lý, là phản tự nhiên một cách khủng khiếp. Ivan Illich tự nói với mình :  "Nếu tôi phải chết như Caius, thì tôi đã biết, một tiếng nói nội tâm nào đó đã báo cho tôi điều ấy. Nhưng tôi không hề nghe thấy gì về chuyện này. Tôi và các bạn tôi đều biết rất rõ là giữa chúng tôi và Caius có một sự khác biệt rất lớn.  Và, bây giờ, chuyện ấy lại xảy đến ! Không ! Không thể được ! Hoàn toàn không thể được ! Nhưng, nó vẫn đang xảy đến … Làm sao, làm sao hiểu được điều này?  Quả thật, ông không thể hiểu nổi, và cố sức gạt bỏ cái tư tưởng thường tình, sai lạc, bất công, bệnh hoạn ấy, để thay thế nó bởi những tư tưởng lành mạnh hơn, hợp lý hơn. Tuy nhiên, tư tưởng kia luôn quay lại, sừng sững trước mặt ông, không phải như một tư tưởng, mà như một thực tế" *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) *** Từ phút đó bắt đầu cuộc kêu rên liên tục suốt ba ngày, tiếng kêu rên khủng khiếp đến nỗi cách hai lần cửa, khi nghe thấy, người ta vẫn thấy khiếp sợ. Vào giây phút khi ông trả lời vợ, ông biết rằng ông đã đi đứt rồi, không cứu vãn được, thế là hết rồi, hết hẳn rồi, còn mối hoài nghi thế là đã không được giải quyết và vẫn sẽ cứ là một mối hoài nghi. - U! U-u! U! – ông kêu là bằng các giọng điệu khác nhau. Ông bắt đầu kêu: “Tôi không muốn!” – và cứ thế tiếp tục kêu theo âm “uốn”. Trong suốt ba ngày, ông không nhận ra thời gian, ông giãy giụa trong chiếc túi đen ngòm mà một sức mạnh vô hình không cưỡng lại được đã ném ông vào đó. Ông giãy giụa như kẻ bị án tử hình giãy giụa trong tay đao phủ, biết rằng mình không thể thoát được. Và cứ mỗi phút ông lại cảm thấy rằng bất chấp mọi nỗ lực đấu tranh, ông đang đi ngày càng gần tới chỗ ông khiếp sợ. Ông cảm thấy nỗi đau đớn giày vò ông cả ở chỗ ông đang bị cuốn vào cái lỗ đen ngòm đó và ông càng bị giày vò đau đớn hơn nữa, vì ông không thể lọt qua cái lỗ đó được. Cái ý nghĩ cho rằng cuộc sống của ông là tốt đẹp đã ngăn trở không cho ông chui lọt qua lỗ đó. Chính sự bào chữa cho cuộc sống của mình đã bám chặt, không thả cho ông lăn đi và nó làm cho ông đau đớn nhiều hơn cả. Bỗng nhiên, một sức mạnh nào đó thúc vào ngực, vào sườn ông, ông càng thấy nghẹt thở hơn, ông lăn xuống cái lỗ và ở đấy, tại đáy lỗ có cái gì sáng lóe lên. Tình hình xảy ra với ông cũng giống như khi ông ngồi trên một toa xe lửa: ông tưởng tàu sẽ chạy về phía trước, nhưng nó lại chạy về phía sau, và ông bỗng nhiên nhận ra hướng đi thật của con tàu. ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết của Ivan Ilich của tác giả Lev Tolstoy.