Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

112 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam

112 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam

112 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam

Cuốn sách 112 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam sẽ cung cấp cho bạn rất nhiều kiến thức hay về phong tục Việt Nam từ xa xưa mà có lẽ bạn chưa từng được biết đến.

Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ “thụ thụ” trái ngược nghĩa: một chữ “thụ” là trao cho, một chữ “thụ” là nhận).

Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!

Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.

Con Đường Việt Nam Hà Nội Băm Sáu Phố Phường 284 Anh Hùng Hào Kiệt Của Việt Nam

Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường “cấm cung” con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.

Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà.

Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.

Mời các bạn đón đọc 112 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Văn Minh Luận - Phạm Quỳnh PDF
Phạm Quỳnh là người viết nhiều nhất trong Nam Phong tạp chí. Các bài viết của ông vững vàng, chắc chắn, không sử dụng ngôn ngữ bay bướm, tài hoa, Phạm Quỳnh sử dụng ngòi bút chín chắn, giọng văn đúng mực, có phần “già trước tuổi” nhằm thâu thái tư tưởng và tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền Quốc văn Việt Nam còn khiếm khuyết. Nếu đem so sánh với một cây bút, “một ông trùm văn hóa” cùng thời là Nguyễn Văn Vĩnh thì người chủ trương và sáng lập Đông Dương tạp chí lại sử dụng lối diễn đạt phóng túng ra quốc văn từ những áng văn chương Pháp hoa mỹ.Văn Minh LuậnNXB Đông Kinh 1927Phạm Quỳnh128 TrangFile PDF-SCAN
Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê Bình PDF
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491 – 1585), tên huý là Văn Đạt (文達),[1] tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士),[2] được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” (程國公)[4][5] mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.[6] Dưới thời quân chủ của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân thuần túy (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) được phong tới tước Công ('Quận công' hay 'Quốc công') ngay từ lúc còn sống. Trình Quốc công là tước phong chính thức cao nhất của vua nhà Mạc ban cho Nguyễn Bỉnh Khiêm gần 20 năm trước khi ông mất.Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê BìnhNXB Đại La 1945Chu Thiên160 TrangFile PDF-SCAN
Văn Chương An Nam - Hồ Ngọc Cần PDF (NXB Hồng Kông 1933)
Đời nay văn minh tiến bộ, học thức huých trương đâu-đó những khai sáng học đường, đễ ơn nhuần văn chương kinh sử. Vi vậy thiên hạ những đua bơi ngọn bút, luyện văn bài cho tao nhã mỉ miều, hầu làm sách hoặc viết báo, kiểu nói cho hoa lệ hùng hồn, để khiến người thích xem ưa đọc. Một bài văn viết cho trúng điệu xuôi tai, ai đọc mà không rung đùi rung vế; chí như một bài viết thảo mao thất kiểu, mới đọc qua đủ chán mắt nhàm tai. Bỡi đó muốn viết vàn bãi, muốn làm sách vở, thì tiên vàn phải luyện văn chương. Vậy học cho biết vàn chương củng là đéu cần thiết: có biết văn chương, thỉ văn bài mới tao nhả; văn bài tao nhà, văn học mdri quang minh, cho nẻn ván chương lầ như trang sức cho Vãn học vậy.Văn Chương AnnamNXB Hồng Kông 1933Hồ Ngọc Cẩn190 TrangFile PDF_SCAN
Về Việc Cải Lương Hương Chính Ở Bắc Kỳ PDF
Làng xã là đơn vị cơ sở trong hệ thống hành chính của các vương triều thời Nguyễn. Trong thời kỳ đầu cai trị Việt Nam, đi đôi với việc tổ chức bộ máy thực dân, chính quyền Pháp vẫn bảo lưu bộ máy của chính quyền phong kiến ở các làng xã, vì người Pháp cho rằng làng xã Annam “là tế bào cơ sở của xã hội Annam và vì thế chúng ta phải tôn trọng nó bởi nó là cái nền của cấu trúc xã hội xứ này”. Mục đích của chính quyền thực dân Pháp lúc này là bình định các vùng đất vừa chiếm đóng được, trấn áp các hoạt động chống đối của nhân dân, đồng thời nắm được các nguồn thu về sưu, thuế cùng với việc bắt phu và bắt lính ở làng xã. "Trước khi chúng ta tới, làng xã Annam là một tổ chức phức tạp như thế, dễ bảo như thế, một tổ chức mà trong đó không bao giờ thấy có một viên kỳ mục nào hành động đơn độc cả, một tổ chức đã tồn tại theo truyền thống từ thời rất xa xưa, tổ chức đó chúng ta không nên đụng chạm tới kẻo làm dân chúng bất bình, xứ sở rối loạn. Công cụ cũ kỹ, nhưng tốt, phù hợp với dân chúng. Vậy thì có ích lợi gì mà chúng ta lại thay đổi nó?".Về Việc Cải Lương Hương Chính Ở Bắc KỳNXB Đông Kinh 1927Nguyễn Văn Tuyền184 TrangFile PDF-SCAN