Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cô Gái Mỹ - Mạng Xã Hội Và Cuộc Sống Thầm Kín Của Tuổi Dậy Thì

T ừ khi còn là một cô bé, tôi đã có thói quen đọc sách rồi cứ thế ngủ thiếp đi. Trong suốt cuộc đời của mình, tôi thường cố đọc thêm mấy trang sách trong tình trạng ngủ gà ngủ gật và tỉnh giấc khi ánh đèn vẫn sáng và cuốn sách thì nằm trong tay… Khi tôi 10 tuổi và 12 tuổi là thời của Biên Niên Sử Narnia, Giết con chim nhại, và Jane Eyre. Tôi luôn mê mẩn Raymond Chandler, Patricia Highsmith và James M. Cain - những tác giả vĩ đại về đề tài trinh thám, tội ác. Đọc sách với tôi cũng giống như hơi thở, cần thiết cho việc tồn tại và suy nghĩ. Nhưng thời gian gần đây, khi đọc qua từng trang sách, tôi thấy đầu óc mình cứ vẩn vơ nghĩ đến chiếc điện thoại. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Tôi có đang bỏ lỡ điều gì đó không? Một trong những nguyên nhân tôi cho rằng có thể lý giải sự phân tâm của mình đó là bởi trong hai năm rưỡi qua, tôi đang nghiên cứu về một cuốn sách viết về phái nữ và mạng xã hội. Tôi đã thực hiện một chuyến đi qua 10 bang (New York, New Jersey, Virginia, Florida, California, Arizona, Texas, Indiana, Delaware, và Kentucky) và nói chuyện với những cô gái từ 13 đến 19 tuổi về cuộc sống của họ trên mạng xã hội cũng như ở ngoài đời. Sau khi gặp gỡ và nói chuyện, tôi dõi theo tài khoản của những cô gái ấy trên mạng, xem họ đăng lên những gì, cuộc sống của họ ra sao. Và dù rằng họ biết tôi là một trong những người đọc thông tin của họ trên các diễn đàn được mở công khai, cảm giác bị theo dõi vẫn có, cảm giác mà các cô gái thường gọi là “bị đeo bám”, khiến tôi nhiều lần tự hỏi: Tôi đang làm gì? Chúng ta đang làm gì? Tôi sử dụng các ứng dụng mà các cô gái thích, chẳng hạn như Yik Yak – một ứng dụng được ví như Twitter ẩn danh. Ra đời vào năm 2013 bởi hai người đàn ông trẻ gặp nhau tại Đại học Furman ở South Carolina, Yik Yak được biết đến nhiều bởi học sinh trung học và sinh viên đại học. Giống các ứng dụng ẩn danh khác, Yik Yak cũng từng được nhiều kênh thông tin cho rằng có liên quan đến những vụ hăm dọa trên mạng, và vì vậy nhiều trường phổ thông và đại học đã cấm ứng dụng này. Nhưng trong bán kính năm dặm tính từ nơi tôi có thể xem được các bài đăng – khu vực bao gồm một vài trường trung học của thành phố New York và trường đại học New York – những người sử dụng Yik Yak đang nói lên những băn khoăn mà cũng là mối bận tâm của giới trẻ ở các lứa tuổi khác nhau: Tôi có hấp dẫn không? Sau này có ai yêu tôi không? Tôi sẽ chịu đựng người bạn cùng phòng khó ở của tôi thế nào đây? Rất nhiều bài đăng trên Yik Yak là về tình dục. Và nhiều bài trong số đó thể hiện những điều mới so với những gì chúng ta từng biết về giới trẻ. Lúc đầu, tôi thấy rất khó chịu khi đọc những bài như vậy, nhưng khi tôi thấy quen dần, những bài đăng này không quá khác biệt nữa. Trên các mạng xã hội, những thứ gây phiền toái, khó chịu sẽ dễ dàng trở nên bình thường sau những lần được đăng lại một cách rộng rãi. Và sau đó, vào một buổi tối thứ Bảy, tháng 10, năm 2015, khi tôi đang lướt qua Yik Yak trên điện thoại thay vì đọc một cuốn sách, tôi đã nghe thấy một điều mà ngay cả những người dùng Yik Yak thường xuyên cũng thấy choáng váng. “Trời ơi, Syracusesnap”. “LMFAO (cười rớt mông) Syracusesnap.” “Syracusesnap là gì?” – mọi người hỏi. Ai cũng muốn biết. Ai cũng cần phải biết. Syracusesnap là một trang Snapchat Story, nhưng hình ảnh và video có thể xem được trong vòng 24 giờ sau khi đăng thay vì chỉ một đến mười giây như một Snap bình thường. Ra đời vào năm 2011 bởi ba anh em kết nghĩa đến từ Stanford, cho đến nay, theo lời của Snapchat, các câu chuyện ‘Stories’ của ứng dụng này là chức năng phổ biến nhất, với hơn một triệu lượt xem mỗi ngày. Nhưng chẳng có mấy trang Story đạt độ lan truyền cao. Còn Syracusesnap, chỉ trong vài giờ sau khi ra đời, đã được giới trẻ và sinh viên khắp nước Mỹ tham gia. “Tiếng tăm của Story lan truyền còn nhanh hơn cả một bài đăng của Gossip Girl”, The Tab – trang web của một trường đại học, và cũng là tổ chức duy nhất viết về điều này cho biết. Trong một thời đại mà sự riêng tư gần như không còn được bảo mật, thì vẫn còn những thứ chỉ tồn tại trong thế giới của giới trẻ, ẩn mình trong không gian trực tuyến, không cầu kỳ, và Syracusesnap là một trong số đó. “Chẳng mấy chốc mà không chỉ có sinh viên của [trường Đại học] Syracuse nhảy theo ‘cơn sốt’ này”, The Tab chia sẻ. Các bài đăng và câu chuyện từ những trường như Pitt, Cornell và trường Đại học NYU cũng được đưa vào đây – điều này có nghĩa là những trường khác cũng đang tham gia Syracusesnap và đăng ảnh trên ứng dụng này. “Trường ‘Cuse đang tỏa sáng’ và ‘Ước gì chúng ta đi học ở trường ‘Cuse!’ là những dòng chia sẻ cùng các bức ảnh” – The Tab cho biết. “Tất cả mọi người đều ghi @Syracusesnap trên Snapchat. Không cần khách sáo,” ai đó đã đăng lên như vậy. Điều gì đã gây ra sự phấn khích này? Syracusesnap có những bức hình giới trẻ uống bia rượu, sử dụng chất kích thích trong phòng ký túc xá, và đặc biệt nhất là những tấm ảnh của các cô gái khỏa thân. Một vài tấm ảnh còn được trang trí với hình ảnh hoạt hình bóng đá và được liên tưởng đến tuần lễ hội ngộ hàng năm mang tên “Orange Central” của trường Syracuse. Trông nó giống như thành quả mà một chuyên gia truyền thông đã lồng ghép ảnh khiêu dâm với không khí trường học để khiến Syracuse trông như một bữa tiệc trường tuyệt nhất. Nhưng chúng ta sẽ nói thêm về chuyện đó sau. Trước đây đã từng có những câu chuyện Snapchat Stories tai tiếng của các trường đại học, thực ra, những trang này có thể được tìm thấy ở nhiều trường khắp cả nước. Đây là một loại chuyện châm biếm nổi loạn của chức năng Campus Stories trên Snapchat – một chức năng khác của ứng dụng này mà nhiều trường học tài trợ và quản lý. Những câu chuyện loại này thường đưa ra hình ảnh của các sinh viên trong những thời khắc vui tươi và đầy cảm hứng – lúc ở khán đài reo hò khi chiến thắng trận đấu bóng, hoặc lúc đi đến giảng đường. Năm 2015, Đại học Sun Devil Nation của bang Arizona đã trở nên nổi tiếng với những bức hình sinh viên trong trường khua khoắng những túi cần sa và hít co-ca-in. Theo Thời báo Bruin – tờ báo của Trường Đại học California thuộc Los Angeles, UCLAyak – tên tài khoản Yik Yak của trường này – có những tấm hình rõ ràng là khiêu dâm và những đoạn phim lặp lại “cứ vài giây một”. Vị sinh viên ngành tâm sinh lý ẩn danh tạo ra tài khoản này đã chia sẻ với tờ Bruin rằng anh hoàn toàn không ngạc nhiên với sự trần trụi này: “Đây chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Đây chính là lý do Snapchat ra đời.” Anh còn cho biết anh ngờ rằng một vài đoạn phim đã được lên kịch bản từ trước và họ tạo ra chúng để gây sốc cho mọi người. Những hướng dẫn sử dụng của Snapchat đã cấm những nội dung thể hiện rõ tính khiêu dâm, và công ty này thường xuyên xóa đi các trang Snapchat Stories vi phạm quy định trên, nhưng ngay khi bị xóa, những nội dung này lại xuất hiện trở lại dưới tên một tài khoản khác. Vậy thì điều gì đã làm cho Syracusesnap có sức lan truyền mạnh đến vậy? Tối thứ Bảy đến, khi giới trẻ còn đang mải loan tin cho nhau về những câu chuyện tai tiếng của mình, thì nội dung trên Story của tài khoản này lại trở nên mạnh bạo hơn nữa. Hình ảnh của hai cô gái đang cùng nhau làm cái điều mà mọi người hay gọi là “đi đường cửa hậu”. “Syracusesnap điên mất rồi (cười rớt mông),” @ Alexus_x30 chia sẻ. @vmankss thì nói: “Ok, tất cả mọi người trên Syracusesnap cần đến sự cứu rỗi của CHÚA”. @lexhallmark lo lắng: “Nếu ba mẹ tôi mà nhìn thấy Syracusesnap, họ chắc chắn sẽ bắt tôi chuyển trường”. “Tôi đã có một vết nhơ gột cả đời không sạch vì đã tải về ứng dụng Syracusesnap, ôi Chúa ơi mắt tôi đã thấy gì thế này,” @t victoria chia sẻ. Khi tôi xem những gì được chia sẻ trên trang Story này bằng điện thoại của mình, tôi thấy xung quanh tôi đầy những nội dung mà chính tôi đã muốn nói đến trong bài viết về các cô gái và mạng xã hội. Có yếu tố lan truyền, lan đi mạnh mẽ, nhanh chóng trên mạng trực tuyến, cảm giác thôi thúc rằng có điều gì đó ở ngoài kia cần được biết đến và chia sẻ, còn nếu không, bạn sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Khi một bức ảnh hai cô gái đánh nhau xuất hiện, Syracusesnap bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của sự khác biệt so với các trang Campus Stories không chính thống. Bạo lực không phải là một đặc tính đặc trưng của những tài khoản này, nhưng các vụ xô xát giữa hai người con gái là nội dung thường thấy ngày nay trong các chương trình truyền hình và các bộ phim được yêu thích. “Ôi trời ơi, con gái đánh nhau LOL”. Nhưng khi Syracusesnap đưa ra một bức hình của một chàng trai đang đe dọa một bạn gái (mặt của hai người không bị lộ), thì ngay cả những người tham gia Yik Yak hiền lành nhất cũng phải lên tiếng. “Gửi anh chàng đang đặt tay lên cô gái kia, tôi mong anh sẽ bị một trận đòn,” một ai đó đã chia sẻ như vậy. Sau ngày Snapchat đóng và cấm chức năng kể chuyện Story, người ta xôn xao hỏi nhau nó đã biến đâu mất rồi – người ta có thể nhìn thấy nó ở đâu chứ, thứ mà bấy lâu nay ai cũng nói đến? “Yeti,” “Yeti,” những người dùng Yik Yak đăng lên như vậy. “Yeti là gì?”, mọi người hỏi. Yeti - Campus Stories là một ứng dụng trên điện thoại di động ra đời vào năm 2015, là một sự kết hợp của Snapchat và Yik Yak. Trang của Yeti tại cửa hàng Apple iTunes nêu rõ rằng chỉ những người dùng đủ 17 tuổi trở lên mới có thể tải phần mềm này (nhưng ai kiểm tra chứ?), đồng thời cảnh báo rằng Yeti có thể bao gồm những nội dung “Ít gặp/ Bạo lực thực tế cấp nhẹ” và “Thường gặp/ Nội dung người lớn cường độ mạnh/ Chủ đề khiêu dâm,” cũng như liên quan đến việc sử dụng ma túy. Khi Yeti ra đời, tờ Daily Dot gọi đây là “sự nhân bản của Snapchat với nội dung người lớn” và dự đoán rằng Yeti sẽ dựng lên một sân thi đấu giữa các trường đại học. Con trai trường nào nóng nảy nhất? Kỳ nghỉ mùa xuân của ai hư đốn nhất? Bồ của chàng trai nào “nóng bỏng” nhất? Các bài blog trên Tumblr sớm xuất hiện “các nàng Yeti” và “Các cô gái của Yeti – Campus Stories” “nóng bỏng nhất” trong hàng dài trang ảnh khỏa thân, bán khỏa thân mà chủ nhân của các trang blog cho là các “bức ảnh chụp màn hình” từ ứng dụng. Khi tôi viết thư điện tử cho giám đốc truyền thông của Yeti – Ben Kaplan, 23 tuổi – hỏi về những bức hình này, rằng liệu chúng đã thực sự xuất hiện trên Yeti và liệu tác giả của những bức ảnh có cho phép chúng được chia sẻ không. Ben nói anh ta chưa từng nhìn thấy những trang blog này trước đây và rằng Yeti “không có bất cứ liên quan gì đến chúng”. Anh chàng mang họ Kaplan nói: “Thật không may là chẳng có phần mềm nào trên thế giới này (mà tôi biết tới) có khả năng nhận biết liệu những người xuất hiện trong bức ảnh đã cho phép người chụp được sử dụng hay chưa”. Câu trả lời này khiến tôi tự hỏi: “Chà chà, tại sao những nhà phát triển phần mềm lại chưa từng nghĩ đến quyền chia sẻ hình ảnh khỏa thân nhỉ?” Một điều lạ về chuyện này là khi bạn vào Yeti, bạn sẽ thấy nội dung ở đây tương đối nhẹ nhàng. Khi tôi ghé qua các tài khoản Yeti của trường Đại học New York, Texas A&M, Penn State và các trường khác, tôi thấy hàng đống hình ảnh tự chụp theo phong cách gợi cảm (chu môi và khoe khe ngực), cũng như những bức ảnh chụp đồ ăn và các sinh viên tỏ ra ngớ ngẩn, rồi cả hình ảnh sinh viên khoe chất ma túy (ống hút cần sa và co-ca-in)... Thực ra, Syracusesnap tuyên bố rằng họ đã chuyển qua Yeti sau màn trình diễn ngông cuồng của mình, nhưng những bức hình táo bạo kia lại chưa từng xuất hiện ở Yeti. Tất cả điều này có nghĩa gì? Một nguồn thông tin ở bộ phận hành chính Đại học Syracuse cho hay anh ta tin rằng Syracusesnap thực ra là do Yeti sáng lập. Không một ai trên mạng xã hội có vẻ nghĩ tới khả năng này, tuy nhiên, ngay khi anh ta nói với tôi điều đó, tôi thấy đây không phải là một điều phi thực tế. Hình ảnh cuối cùng xuất hiện trên Syracusesnap là hình ảnh logo của Yeti – những cột thẳng đứng nhiều màu giống màn hình các kênh ti vi thử nghiệm. “Snapchat đang cấm tài khoản của chúng tôi”, là thông điệp đi kèm với logo. “Chúng tôi sẽ chuyển Story của mình sang trang YETI CAMPUS STORIES, có thể tải về từ Apple/ Google Playstore.” Giọng điệu y chang một tin quảng cáo. Vậy thì có phải Syracusesnap chỉ là một chiêu thức marketing? Có phải chính Yeti đã thúc đẩy cho cuộc tranh luận về tài khoản trên Yik Yak và Twitter diễn ra? Ben Kaplan viết trong email của mình rằng Yeti không hề liên quan đến Syracusesnap, và rằng anh ta chưa từng nghe thấy điều này. Ben cũng nói anh ấy nghĩ rằng việc đưa lên logo của Yeti “có thể là để giảm thiểu những bối rối trong quá trình chuyển giao?”. Ben nhấn mạnh: “Yeti là sự cập nhật sống động của TẤT CẢ NHỮNG GÌ diễn ra tại trường”. Vậy thì ai là người sáng lập ra Syracusesnap? Khi tôi trao đổi với Hannah Malach, một sinh viên của trường Syracuse và cũng là người viết bài cho tờ The Tab, cô nói rằng, theo cô được biết, chưa ai trong trường đã phát hiện ra danh tính của người tạo ra tài khoản này. Khi tôi hỏi liệu cô đã nghe nói đến Yeti trước khi biết về Syracusesnap, cô đáp “Tôi đã không biết về Yeti, và cho đến giờ, vẫn có nhiều người chưa biết về nó.” Tôi đã phỏng vấn các sinh viên và có một vài người cũng nói rằng họ chưa từng biết đến Yeti – Campus Stories. Tính đến buổi tối tháng 10 đó, trang Twitter và Instagram của tài khoản này, có chưa đến 6.000 và 3.000 người tham gia, mặc dù nó đã tồn tại gần 1 năm. Khi chúng ta nói đến văn hóa mạng xã hội, chúng ta muốn nói gì? Tôi cho rằng đây là một đề tài quan trọng, vì mạng xã hội là nơi hầu hết các cô gái Mỹ đang sống. “Chúng tôi ở đó 24 giờ, 7 ngày” là lời chia sẻ của một cô gái 13 tuổi ở Montclair, New Jersey – “Đó là tất cả những gì chúng tôi làm”. Có thể một cô gái tuổi mới lớn sẽ nói, điều này không hoàn toàn đúng, về nghĩa đen. Họ còn đi học, chơi thể thao, giao du với bạn bè, chăm sóc anh chị em trong gia đình; có nhiều người còn đi làm, họ làm các công việc tình nguyện, thực hiện những sở thích của mình, và đọc sách nữa, mặc dù giới trẻ ngày nay đọc ít hơn trước nhiều, đây là điều mà một vài nghiên cứu đã chỉ ra là do sự gia tăng của công nghệ trong cuộc sống. Các bậc phụ huynh và giáo viên sẽ than phiền thế này: “Chúng suốt ngày lên mạng”. Khi được hỏi kỹ hơn, nhiều bậc phụ huynh và giáo viên phải thừa nhận, chính họ cũng dành nhiều thời gian trên các trang mạng xã hội. Tất cả chúng ta đều đang gắn chặt mình với các thiết bị di động theo những cách mà chúng ta chưa từng tưởng tượng ra chỉ một vài năm trước. Nhưng trên thực tế, trong tất cả các nhóm tuổi của người Mỹ, các cô gái mới lớn là những người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất. Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, vào năm 2015, 88% các cô gái Mỹ mới lớn, tuổi từ 13-17, có thể tiếp cận với một chiếc điện thoại di động, và 73% sở hữu điện thoại thông minh. 92% lên mạng hàng ngày từ một thiết bị di động, và 24% lên mạng “hầu như liên tục”. Các cô gái tuổi từ 13-17 có xu hướng tiếp cận với điện thoại thông minh, máy tính hoặc máy tính bảng nhiều hơn các chàng trai, và theo Pew, “các cô gái trẻ sử dụng các trang mạng xã hội, chủ yếu là các trang có nhiều hình ảnh, để chia sẻ nhiều hơn so với các bạn khác giới cùng độ tuổi”. Số lượng các cô gái sử dụng mạng xã hội hàng ngày tăng cao không phụ thuộc vào hoàn cảnh, xuất xứ, nền giáo dục, thu nhập của gia đình, cũng như việc họ đang sống tại nông thôn hay thành thị. Vào năm 2015, Facebook, Instagram, Snapchat, Twitter và các trang chia sẻ ảnh trực tuyến như Pinterest là các trang phổ biến nhất với các cô gái Mỹ. Theo các nghiên cứu, các cô gửi đi 30 tới hơn 100 tin nhắn mỗi ngày. Đề tài nghiên cứu của tôi tập trung vào lý do tại sao các cô gái lại lên mạng “mọi lúc”, và họ làm điều gì trên mạng, tuy nhiên tôi thấy mình cũng cần lưu tâm về lượng thời gian rất lớn mà họ đang dành cho việc lên mạng trước khi đi sâu vào tìm kiếm câu trả lời cho hai câu hỏi trên. Liệu có phải họ nghiện mạng xã hội không? Nếu bạn hỏi, có thể nhiều cô sẽ trả lời là đúng. Các từ “bị nghiện” và “sự ham mê”, “bị ám ảnh” và “mang tính ám ảnh” xuất hiện nhiều lần trong các câu hỏi phỏng vấn của tôi với hơn 200 cô gái mới lớn khi họ nói về việc họ sử dụng điện thoại thông minh, lượng truyền thông và mạng xã hội mà họ đang sử dụng. Còn cách nào khác đâu để bạn có thể đưa ra các đặc tính của một hoạt động chiếm tới 9-11 giờ mỗi ngày (số giờ khác nhau theo các nghiên cứu được trích dẫn khác nhau)? Trong giới nghiên cứu, vẫn chưa có kết luận về việc liệu nghiện mạng xã hội có giống như nghiện ma túy và bị phụ thuộc vào ma túy hay các chất khác hay không, dù rằng các thông tin đang được đăng tải lên ngày một nhiều rằng việc sử dụng mạng xã hội giúp các trung tâm của hệ thống củng cố não bộ sáng lên và khiến các hoóc- môn nhảy múa. Các cô gái cũng nói về “sự phấn khích” mà các nhà nghiên cứu cho rằng sẽ xuất hiện trong não bộ của các cô khi họ nhận được những lượt “thích” trên các bài đăng và ảnh. Và dù họ không biết đến các nghiên cứu này, họ cũng biết cảm giác của sự phấn chấn khi những bức ảnh được nhiều người ca ngợi, cũng như cảm giác thất vọng khi các bài đăng không nhận được phản hồi, hay tệ hơn, là bị chê bai hoặc “ném đá”. Có một thực tế mới bất thường và nó đã đến rất nhanh, đó là, chưa bao giờ như lúc này, hầu như tất cả các cô gái Mỹ đang tham gia vào cùng một việc trong phần lớn thời gian của họ. Và sự thay đổi lớn trong cách các cô gái sử dụng thời gian của mình đã tạo ra một sức ảnh hưởng lớn đến cách suy nghĩ và hành động, cũng như việc các cô kết bạn, hẹn hò như thế nào. Nhưng các ảnh hưởng đó như thế nào? Khi chúng ta nói về mạng xã hội, chúng ta nói chúng ta đang ở “trên mạng”, cũng tương tự như cách chúng ta nói chúng ta đang trên đường đi chơi vậy. Dường như chúng ta đang trải nghiệm nó như là một hành trình thực tế tới một điểm đến nào đó, nhưng đây không phải là một điểm trung gian, nó được tạo ra bởi những người làm kinh tế, và một phần lớn của nó đến từ Thung lũng Silicon. Những cô gái tôi phỏng vấn năm 2013 tỏ ra ngại ngần với nạn phân biệt giới tính trong cuộc sống của họ hơn so với những cô gái tôi phỏng vấn năm 2014. Thời gian trôi qua, các cô gái và phụ nữ tiếp tục lên tiếng trên mạng, phái nữ dường như thức tỉnh. Họ cũng nói về những điều tương tự - “kẻ tàn bạo”, “kẻ chẳng ra gì”, và đặt ra những tiêu chuẩn kép để trừng phạt người khác giới, nhưng họ đã thể hiện chính mình bằng một quan điểm phê phán mới mà nhiều cô gái nói họ đã học được từ các bài đăng và bài báo họ đọc được trên các trang mạng xã hội. Không phải những thứ vật chất xung quanh các cô gái đã thay đổi, mà tư duy của các cô đã thay đổi, và các cô dường như mạnh dạn hơn để nói về mọi thứ theo cách mà mới chỉ một năm trước đây các cô không dám, vì những nội dung ấy có thể khiến người ta đánh giá các cô là những người theo “chủ nghĩa nữ quyền”, và không ai muốn bị gắn mác như vậy, dù cho từ ấy có nghĩa là gì đi nữa. Rất nhiều thần tượng của các cô gái ngày ấy – Katy Perry, Taylor Swift, Kelly Clarkson, Shailene Woodley, và nhiều người khác – lo sợ bị gắn mác “chủ nghĩa nữ quyền”. “Tôi không theo chủ nghĩa nữ quyền”, Lady Gaga đã khẳng định vào năm 2009. Nhưng vào năm 2014, điều gì đó đã thay đổi, và những hình mẫu của các cô gái đã bắt đầu trân trọng từ này hơn. Quan trọng hơn cả, họ nhận ra rằng có những sự bất bình đẳng trong cuộc sống của phái nữ cần được chỉ rõ. Emma Watson đã trình bày một bài thuyết trình được công khai rộng rãi tại Liên hợp quốc, nêu rằng “Đấu tranh vì quyền lợi phụ nữ bấy lâu nay thường bị gắn liền với việc thù ghét đàn ông. Nếu tôi chỉ dám chắc một điều, thì đó là, việc này cần phải chấm dứt.” Watson đã hối thúc phái nam cùng với phái nữ trở thành “những người ủng hộ giới tính bình quyền”. Taylor Swift cũng đã thay đổi, về cùng nhóm với chủ nghĩa nữ quyền. Còn Beyonce đã biểu diễn tại Lễ trao giải MTV Video Music Awards trước một tấm bảng dài gần 4 mét ghi rõ CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN. “Đó là một điều lớn, rất lớn”, một cô gái 14 tuổi ở New York chia sẻ. “Nó giống như là, Beyonce, trời ạ”. Nhưng rồi đến cuối năm 2015, bạn lại thấy sự xuất hiện của Syracusesnap. Văn hóa của mạng xã hội lại bị xáo trộn, và dường như không còn mấy để tâm tới sự phản kháng của chủ nghĩa nữ quyền hay những người muốn xóa bỏ những mặt còn đang gặp nhiều khó khăn của chủ nghĩa này. Và người chịu thiệt là các cô gái. Hàng ngày, thậm chí hàng giờ, trên chiếc điện thoại, các cô phải hứng chịu những lời nhục mạ và những thứ có khả năng làm tổn hại đến trạng thái tinh thần tích cực và lòng tự trọng của các cô. Đây không phải là một cuốn sách viết về việc các cô gái đã trở thành nạn nhân như thế nào. “Nạn nhân” không phải là một từ tôi muốn dùng để nói về những cô gái mà tôi đã gặp, vẫn đang tồn tại và phát triển trong một môi trường mà, phần lớn thời gian, đã trở nên quá thù địch với các em. Điều này đã xảy ra thế nào, khi mà ngày càng nhiều sinh viên nữ tốt nghiệp đại học, khi mà ngày càng có nhiều nữ giới là lãnh đạo trong nhiều lĩnh vực. Chúng ta hay nghe người ta nói, rằng những cô gái Mỹ là những cô gái danh tiếng và thành công nhất trên thế giới. Nhưng hãy nói điều đó với một cô gái 13 tuổi bị gọi là một “con điếm” và cảm thấy mình không thể bước chân vào lớp học vì tất cả mọi người sẽ nhìn em, nhắn tin cho nhau bàn bạc về em. “Chúng ta cần tìm lời giải cho câu hỏi tại sao những người phụ nữ có thể tạo nên bước tiến dài trên những đấu trường dành cho mọi người, hơn là sàn đấu của chính mình”, là chia sẻ của bà Elizabeth Amstrong, giáo sư xã hội học chuyên về tình dục và giới tính, trường Đại học Michigan. “Phân biệt giới tính đã được xếp vào những phạm vi mới mà phụ huynh không thấy và không hiểu, bởi cách họ dùng mạng xã hội rất khác”, Katie – một sinh viên tại Barnard chia sẻ. “Họ nghĩ rằng ‘Ồ, làm gì có chuyện có điều gì sai xảy ra ở đây, Snapchat và Instagram chỉ là trò chơi thôi mà.’” Nhưng nếu nó chỉ là một trò chơi, thì nó cũng khác với bất cứ trò nào chúng ta từng c

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đi Tìm Sylvie Lee
Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).
Tìm Em Nơi Anh
Đây là cuốn tiếp theo sau "Gọi em bằng tên anh" (Call me by your name). Những nhân vật gặp lại, và câu chuyện nhiều năm sau, khi họ đều đã lớn tuổi hơn và có những ngã rẽ riêng trong cuộc đời mình. Tác giả chia sẻ thêm về quyết định viết tiếp câu chuyện: "Tôi vẫn luôn đau đáu về câu chuyện dang dở trong Gọi em bằng tên anh. Dù là người tạo nên các nhân vật và cuộc đời họ, tôi không thể ngờ rằng chính các nhân vật lại khiến tôi trăn trở về những xao động của tình yêu - điều mà tôi không hay biết cho đến khi hoàn thiện cuốn sách. Bộ phim điện ảnh chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết đã giúp tôi nhận ra rằng mình muốn được trở lại với Elio và Oliver và tiếp tục đồng hành với 2 con người ấy". Find Me được chia làm bốn phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo, như một bản nhạc lôi cuốn có nhịp điệu và hơi thở riêng, cùng những đoạn phóng túng ngẫu hứng nói lên tiếng lòng người chơi. Tempo Phần đầu tiên được thuật lại bởi lời của Samuel "Sami" Perlman, cha của Elio Perlman. Mười năm sau các sự kiện của Call Me By Your Name, Sami Perlman gặp một người phụ nữ trẻ tuổi tên là Miranda khi đi tàu đến Rome. Hai người nhanh chóng trở nên thân thiết và bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Trong khi ở Rome, cặp đôi đến thăm người cha ốm yếu của Miranda, tham dự một buổi thuyết trình công khai do Sami tổ chức và gặp được Elio. Cadenza Phần thứ hai được thuật lại bởi lời của Elio. Năm năm sau, Elio làm giáo viên dạy piano ở Paris. Tại một buổi hòa nhạc, anh gặp một người đàn ông lớn tuổi tên là Michel, và họ bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Họ đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Michel ở vùng nông thôn nước Pháp, và kết thúc mối quan hệ vài tuần sau đó bởi cuối cùng, người cũ trong trái tim anh không thể thay thế. Capriccio Phần thứ ba được thuật lại bởi lời của Oliver. Vài năm sau, Oliver làm giáo sư tại một trường cao đẳng ở New Hampshire. Anh ấy đã lập gia đình và có con, nhưng trong thâm tâm lại nuôi dưỡng nỗi nhớ về khoảng thời gian anh ấy ở bên Elio khi còn là sinh viên đại học. Anh ấy đoàn tụ với Elio ở Ý, và họ kết nối lại một cách lãng mạn. Mặc dù cha của Elio đã chết, ông vẫn có một đứa con với Miranda, đặt tên theo Oliver - Ollie Nhỏ. Da Capo Phần cuối cùng được thuật lại bởi lời của Elio. Elio và Oliver lại ở cùng nhau, cùng nuôi dưỡng Ollie Nhỏ, em trai cùng cha khác mẹ của Elio. Phần kết này diễn ra không lâu sau các sự kiện trong Capriccio. *** Sau thành công của "Gọi em bằng tên anh'', André Aciman viết tiếp câu chuyện của Elio và Oliver với những ngã rẽ riêng trong đời. Nếu Gọi em bằng tên anh (tên gốc: Call Me By Your Name) để lại nhiều nuối tiếc cho mối tình giữa cậu trai 17 tuổi Elio và học giả người Mỹ Oliver thì Tìm em nơi anh (tên gốc: Find Me) như một giấc mơ với cái kết trọn vẹn mà André Aciman dành cho hai người. Cuộc đào bới hạnh phúc Có những thứ ở hiện tại chúng ta không biết sẽ trở thành kỷ niệm đến khi ta đánh mất. Kỷ niệm là thứ nuôi nấng ta khi ngày nào đó ta dạt vào một bến bờ sâu thẳm của miền ký ức. Dịu ngọt, đắng cay, dữ dội, bồng bột, cuồn cuộn hòa vào dòng chảy hiện thực nhiều đau đớn. 10 năm trước, cuộc dạo chơi cùng thần ái tình mang cả ''cậu bé đào'' Elio cùng bạch mã hoàng tử Oliver đi ngược xuôi trên dòng thời gian. Họ kiếm tìm nhau bất chấp sự nối dài phi lý về mặt thời gian để gặp nhau sau 10 năm trong Tìm em nơi anh. Hay lùi về tận 20 năm nơi quảng trường nhỏ đối diện tượng đài Piave để kể cho nhau nghe về hai thanh niên hạnh phúc biết bao trong vài tuần ngắn ngủi trong Gọi em bằng tên anh. Tìm em nơi anh được xem là phần hậu truyện, tiếp nối câu chuyện nổi tiếng trước đó và được chia làm 4 phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo. Mốc thời gian giữa các phần không đi theo thứ tự và cũng không tuân theo những gì đã diễn ra ở cuốn sách trước. Mỗi phần cũng được kể lại bằng lời của nhiều nhân vật. "Nhạc trưởng" André Aciman dẫn dắt độc giả vào giai điệu hạnh phúc của một giao hưởng đầy ngẫu hứng. Những cuộc đời được tái sinh từ những cuộc đời khác, hạt giống tình yêu lại một lần nữa nảy mầm sau nhiều năm ngủ đông cô độc. Đó là Samuel "Sami" Perlman - cha của Elio - đưa người đọc đến mối tình say đắm của ông. Đó là Elio 10 năm sau cuộc chia ly với Oliver nhưng vẫn không thể ngừng thương nhớ người cũ. Đó còn là Oliver dù đã kết hôn nhưng trong thâm tâm vẫn nuôi dưỡng nỗi nhớ đong đầy về quá khứ. Và cuối cùng khi họ ở cùng nhau, họ tìm thấy tâm hồn mình quay trở về tháng ngày mùa hè cuồng nhiệt ở Italy. Cuốn sách là hành trình đi tìm chất xúc tác để xảy ra phản ứng hóa học cho một Elio trưởng thành sau 10 năm và sự tỉnh thức của Oliver sau giấc ngủ vùi dưới bức bình phong mang tên gia đình. Dường như ''một nửa mùa hè, vẫn còn những dở dang'' nới rộng bằng cách xóa đi dấu chấm hết trong Gọi em bằng tên anh, tiếp tục cuộc đào bới hạnh phúc và trao đi cái kết trọn vẹn cho độc giả sau hàng năm mong đợi. Bước ra ánh sáng để tìm lại hạnh phúc Trong tiểu thuyết Đừng tự dối mình của Philippe Besson có một nhân vật từng nói về người yêu đồng giới của mình: ''Đến cuối cùng, anh ấy cũng sẽ che giấu con người mình suốt cả đời. Cho dù anh đã bỏ đi thật xa, cho dù đã có tham vọng sống một kiếp tồn tại mới, anh vẫn lại đối diện với những bản tính của anh, nỗi hổ thẹn của anh, không có khả năng yêu lâu dài. Tôi nghĩ đến những người mình đã thấy trong những dịp gặp gỡ ở hiệu sách, những người đàn ông từng thừa nhận đã tự dối mình, đã sống dối gian từ rất nhiều, rất nhiều năm qua, trước khi chấp nhận sống vui vẻ, trước khi rời bỏ tất cả để bắt đầu lại từ đầu (những người đàn ông ấy sẽ tự nhận ra khi đọc những dòng này). Họ đã không có dũng khí''. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở tiểu thuyết Gọi em bằng tên anh thì tác giả André Aciman và Philippe Besson giao nhau ở cùng một điểm khi xây dựng nên một nhân vật đồng tính. Oliver của André Aciman chính là đại diện cho rất nhiều người đồng tính ngoài xã hội, ẩn mình và giấu đi giới tính thật của mình khi họ lấy việc lập gia đình, sinh con đẻ cái là tấm khiên che chắn sự kỳ thị của xã hội. Tìm em nơi anh chính là liều thuốc xoa dịu khi tác giả viết tiếp một đoạn kết hạnh phúc cho một dấu chấm hết đầy phũ phàng của những mối tình đồng tính. Là sự an ủi cho cậu bé Elio năm nào dám sống thật với giới tính của mình và cũng chính là sự cứu chuộc sau những lần đớn hèn trong quá khứ, không dám đối mặt và nắm bắt hạnh phúc của Oliver. Độc giả có thể tiếp cận tiểu thuyết Tìm em nơi anh bằng một hướng mới khi xem phần hậu truyện này hoàn toàn độc lập với câu chuyện trước đó. Bắt đầu bằng câu chuyện của ông Samuel Perman khi phải lòng một cô gái trẻ, như một dấu gạch nối để tiếp tục với chuyện tình của chàng nhạc công Elio cùng người đàn ông lớn tuổi và kết bằng việc quay về mối tình đầu của Elio và Oliver. Dù tiếp cận bằng cách nào đi nữa, câu chuyện của André Aciman luôn tập trung vào thấu hiểu và cảm thông. Bước ra ánh sáng để đi tìm hạnh phúc của người đồng tính chưa bao giờ dễ dàng dù ở thời đại nào. André Aciman đã viết phần hậu truyện không chỉ làm hài lòng độc giả với một cái kết đẹp cho cuộc tình của Elio và Oliver mà ông còn mang lại một khoảng lặng, một thập kỷ của đời người để nhận ra hạnh phúc đích thực từ những sai lầm tuổi trẻ. *** André Aciman   Sinh ngày 2 tháng 1 năm 1951) là một nhà văn người Mỹ. Sinh ra và lớn lên ở Alexandria, Ai Cập, ông hiện là giáo sư nổi tiếng tại Đại học Trung tâm Đại học Thành phố New York, nơi ông dạy lịch sử của các lý thuyết văn học và các tác phẩm của Marcel Proust.Aciman trước đây đã từng dạy viết văn bản sáng tạo tại Đại học New York và văn học Pháp tại Princeton và Bard College. Năm 2009, ông là nhà văn đặc biệt tại Đại học Wesley. Ông là tác giả của một số tiểu thuyết, bao gồm cả Call Me by Your Name (chiến thắng trong hạng mục Gay Fiction tại Lambda Literary Award 2007) và một hồi ký năm 1995, Out of Egypt, đoạt giải Whiting Award. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Call Me by Your Name, nhưng Aciman đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, cuốn sách hay nhất của ông là cuốn tiểu thuyết Eight White Nights. *** Sao cau có vậy? Tôi nhìn em lên tàu ở ga Florence. Em mở cửa và, khi đã vào trong khoang tàu, nhìn quanh một vòng, ném chiếc ba lô vào chỗ ngồi còn trống cạnh tôi. Em cởi chiếc áo khoác da, đặt xuống quyển sách bìa mềm đang đọc dở, cất một chiếc hộp vuông màu trắng lên học hành lý rồi ngồi phịch xuống chỗ ngồi chéo với tôi, vẻ bồn chồn cáu kỉnh. Dáng vẻ ấy như thể em vừa mới cãi nhau nảy lửa vài phút trước khi rời đi và vẫn giận dỗi bởi những lời lẽ đắng cay mà chính em hoặc người kia thốt ra trước khi cúp máy. Chú cún của em, bị kẹp giữa hai mắt cá chân cùng một sợi dây buộc đỏ quấn quanh tay chủ, dường như cũng bồn chồn chẳng kém. “Buona, ngoan nào bé,” cuối cùng em lên tiếng, mong làm nó bình tĩnh, “buona, ngoan,” nó vẫn ngọ nguậy cố chui ra khỏi vòng kìm kẹp. Sự hiện diện của nó khiến tôi thấy phiền, và bất giác tôi khước từ chuyện bỏ chân xuống hoặc nhích ra để nhường chỗ cho nó. Nhưng em có vẻ chẳng bận tâm tới tôi hay cử chỉ từ chối ấy. Thay vì vậy, em lục tìm trong ba lô ra một chiếc túi nhựa mỏng, lấy ra hai cái bánh nhỏ xíu hình xương cho chú cún, đặt lên lòng bàn tay và xem nó liếm hết. “Brava, giỏi lắm.” Con chó dịu xuống trong chốc lát, em hơi nhổm người lên để chỉnh áo, sửa thế ngồi một hai lần, rồi rơi vào một kiểu ngẩn ngơ buồn bã, nhìn chằm chằm ra khung cảnh Florence khi tàu bắt đầu rời khỏi ga Santa Maria Novella. Em vẫn giận, và có lẽ trong vô thức, em lắc đầu, một lần, hai lần, rõ ràng đang rủa cái người khiến em bực tức trước khi đi. Trong thoáng chốc em mang vẻ tuyệt vọng đến cùng cực đến nỗi dù đang chú mục vào quyển sách trước mặt, tôi bắt gặp bản thân mình đang cố nghĩ ra điều gì đó để gợi chuyện, để giá có thể giúp dịu lại cơn bão đang chực chờ dâng trào trong cái góc nhỏ bé tít gần cuối toa này. Rồi tôi lại đổi ý. Nên để người ta yên và quay lại việc đọc của mình thì hơn. Nhưng khi tôi bắt gặp em cũng đang nhìn mình, chẳng ngừng được, tôi buột hỏi: “Sao cau có vậy?” Chỉ đến khi nói ra rồi tôi mới nhận ra câu hỏi ấy hoàn toàn không phù hợp để hỏi người lạ trên tàu, nhất là một người có vẻ sẵn sàng bốc hỏa trước sự trêu ngươi nhỏ nhất. Em nhìn tôi với vẻ lúng túng và hằn học hiện lên trong mắt, báo hiệu trang ngôn từ sắp xổ ra nhắc tôi nhớ lấy vị trí của mình. Lo thân mình đi lão già. Hoặc: Liên quan tới ông sao? Hoặc bĩu môi: Đồ khốn! “Không, không cau có, chỉ nghĩ ngợi thôi,” em bảo. Tôi giật mình bởi sự nhẹ nhàng, gần như hối tiếc trong giọng điệu em nói, nếu em bảo tôi cút xéo đi thì tôi còn thấy ít bất ngờ hơn. “Chắc là nghĩ ngợi khiến tôi trông thế.” “Kể cả khi cô nghĩ điều vui à?” “Không, khi vui thì khác,” em trả lời. Tôi mỉm cười nhưng không nói gì thêm, cảm thấy hối hận với câu đùa nông cạn và hợm hĩnh vừa rồi. “Nhưng chắc dù sao cũng vẫn hay cau có,” em nói thêm, chấp nhận với một điệu cười đầu hàng. Tôi tỏ lời xin lỗi vì nói năng khiếm nhã. “Không sao,” em bảo, nhìn ngắm phong cảnh miền quê bắt đầu trải ra bên ngoài cửa sổ. Vậy cô là người Mỹ đúng chứ, tôi hỏi. Đúng là thế. “Tôi cũng vậy,” tôi nói. “Nghe giọng ông là tôi nhận ra ngay,” em mỉm cười. Tôi giải thích rằng mình đã sống ở Italy gần ba mươi năm rồi, nhưng chắc có cả đời cũng chẳng thể mất đi giọng bản xứ. Rồi tôi hỏi, em bảo đã chuyển tới đây cùng cha mẹ từ khi mười hai. Chúng tôi đều đang đi Rome. “Công việc à?” tôi hỏi. “Không, không phải công việc. Thăm cha tôi. Ông không khỏe.” Rồi, ngước mắt lên nhìn tôi: “Nên mới cau có, chắc vậy.” “Nghiêm trọng không?” “Tôi nghĩ là có.” “Tôi rất tiếc,” tôi bảo. Em chỉ nhún vai. “Đời mà!” Và rồi, đổi tông giọng: “Thế còn ông? Công việc là hay đi thăm thú?” Tôi cười bởi câu hỏi nhại và nói tôi được mời đến để làm buổi đọc sách cho sinh viên đại học. Nhưng tôi cũng ghé thăm con trai mình, nó sống ở Rome và lát sẽ đón tôi ở ga. “Hẳn là một cậu bé ngoan.” Mời các bạn đón đọc Tìm Em của tác giả André Aciman.
Trái Tim Đau Khổ
Thanh tra Archie Sheridan theo dõi Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell suốt bao năm. Nhưng rồi chính anh lại bị ả bắt cóc, tra tấn một cách tàn nhẫn và dai dẳng. Cho đến khi ả ra tự thú và ngồi tù thì Archie vẫn phải chịu sự tra tấn trong một “nhà tù” khác bởi anh nghiện thuốc giảm đau, luôn bị ám ảnh về Gretchen và không thể quay về cuộc sống trước đây.  Bỗng nhiên xuất hiện hàng loạt vụ án bắt cóc và giết hại bé gái vị thành niên. Thanh tra Archie buộc phải trở lại với công việc, và cùng với Susan Ward - một phóng viên trẻ vào cuộc điều tra... Một cuộc truy đuổi vô cùng gay cấn giữa Archie, Susan, kẻ bắt cóc và Gretchen.  Kẻ sát nhân thực sự là ai? Thanh tra Archie có thoát khỏi “nhà tù” mang tên “Gretchen Lowell” hay không? *** Archie không chắc đó là ả cho đến tận phút giây đó. Một cảm giác ấm áp âm ỉ luồn trong xương sống, tầm nhìn mờ đi, và rồi anh nhận ra Gretchen Lowell chính là kẻ sát nhân. Anh nhận ra mình bị tiêm thuốc mê, nhưng đã quá muộn. Anh dò dẫm lấy khẩu súng, nhưng cánh tay gần như tê dại khiến anh chỉ có thể nhấc nó một cách vụng về khỏi thắt lưng của mình và đưa nó ra như thể đó là một món quà dành cho ả. Ả cầm lấy nó và mỉm cười, hôn nhẹ lên trán anh. Rồi ả thò tay vào áo khoác của anh và lấy ra chiếc điện thoại di động, tắt nó, sau đó nhét vào túi của mình. Bây giờ anh gần như bị tê liệt, ngồi trên chiếc ghế da trong căn phòng của ả. Nhưng tâm trí anh phủ đầy những cảm thức rõ ràng. Ả quỳ xuống bên cạnh anh, cẩn thận như đến gần một đứa trẻ và đặt môi mình thật gần môi anh, giống như hai người đang hôn nhau. Nhịp tim dồn dập như dồn ứ lên cổ họng anh. Anh không thể nén chúng xuống được. Người ả tỏa ra mùi hương như hương hoa cà. “Đến lúc phải đi rồi, anh yêu”, ả thì thầm. Ả đứng dậy và anh thấy mình được nhấc lên từ phía sau, khuỷu tay ả tì dưới nách anh. Một người đàn ông trước mặt, mặt đỏ và to con, nắm lấy chân anh, rồi anh được đưa vào ga-ra và được đặt phía sau chiếc Voyager màu xanh lá - chiếc xe mà Archie và đội đặc nhiệm đã mất nhiều tháng trời để tìm kiếm, ả bò qua người anh để lên xe. Lúc đó, anh nhận ra có người khác trong xe, ả không phải là người đứng sau anh, nhưng anh không có thời gian để suy tính việc này vì ả đang trườn qua người anh, đầu gối ấn vào hai bên eo anh. Anh không thể di chuyển mắt nữa, vì vậy ả thuật lại mọi chuyện đang diễn ra cho anh nghe. “Em sẽ xắn ống tay áo bên phải của anh lên. Em cần chích một mũi.” Rồi ả cầm một ống kim tiêm giơ cho anh xem. Thao tác y khoa chuyên nghiệp, anh nghĩ. Mười tám phần trăm số kẻ sát nhân hàng loạt là y tá. Anh nhím chằm chằm lên nóc xe tải. Kim loại xám. Vẫn còn tỉnh, anh nghĩ. Nhớ mọi thứ, mọi chi tiết, điều đó sẽ rất quan trọng. Nếu như mình còn sống - anh nghĩ. “Em sẽ để anh nghỉ một lát.” Ả cười rồi cúi sát khuôn mặt mỏng nhưng xinh xắn cho anh nhìn rõ, những lọn tóc vàng xòa xuống má anh, dù anh không cảm nhận rõ lắm. “Chúng ta còn nhiều thời gian vui vẻ sau này.” Anh không thể đáp lại, thậm chí không thể chớp mắt. Hơi thở của anh đến cùng với những cơn đau dài và nhẹ. Anh không thể nhìn thấy ả chích mũi kim vào cánh tay mình, nhưng có cảm nhận được nó vì sau đó anh chỉ còn thấy bóng tối. Anh tỉnh dậy thấy mình ngồi trên ghế. Anh vẫn còn lảo đảo và phải mất một lúc mới nhận ra rằng người đàn ông mặt đỏ đang đứng trước mình. Trong khoảnh khắc đó, khoảnh khắc đầu tiên mà Archie nhận thức được, đầu anh như muốn nổ tung. Archie giật mình khi máu của người đàn ông đó bị thổi bay về phía anh, bắn tung tóe vào mặt và ngực anh, một thứ chất lỏng ấm. Anh cố nhúc nhích, nhưng tay và chân đã bị trói chặt vào một cái bàn. Anh cảm thấy có thứ gì đó nóng ấm chảy xuống mặt mình rồi rớt xuống sàn, anh giật mạnh các dây buộc cho đến khi thấy rõ da mình bị trầy ra, nhưng anh không thể nhúc nhích được chúng. Miệng anh bị nhồi kín và bị băng dính dán chặt, khiến nước bọt bị đẩy trở vào cổ họng, càng làm cho anh tắc miệng. Mắt anh bỏng rát. Rồi anh nhìn thấy ả, đứng ngay sau người đàn ông vừa ngã xuống, trên tay là khẩu súng mà ả vừa dùng để xử anh ta. “Ngay bây giờ em chỉ muốn anh biết rằng em quan tâm tới anh như thế nào”, ả thốt ra. “Rằng anh là người duy nhất.” Rồi ả quay người bước đi. Anh chỉ còn lại một mình, để suy nghĩ về những gì vừa xảy ra. Anh nuốt nước bọt một cách khó nhọc, cố trấn an bản thân phải giữ bình tĩnh, để nhìn xung quanh. Chỉ có mình anh và người đàn ông đã chết trên sàn nhà. Gretchen đã rời đi. Không thấy người lái xe. Tim Archie đập dữ dội đến nỗi chỉ có cảm giác duy nhất là sự dồn nén trong các huyết mạch. Thời gian trôi qua. Lúc đầu, anh nghĩ mình đang ở trong một phòng phẫu thuật. Đó là một căn phòng rộng, được ốp bằng những viên gạch gốm trắng giống nhà ga tàu điện ngầm và được đèn huỳnh quang chiếu sáng. Anh quay đầu nhìn bên này, bên kia và thấy một số khay dụng cụ, trông giống như dụng cụ y tế, có một ống thoát nước trên sàn xi măng. Anh cố rướn người một lần nữa tới chỗ các nút buộc và nhận ra mình đang bị trói vào một cái cáng. Có mấy thứ dạng ống thò thụt trên cơ thể anh: một ống thông, một ống kim tiêm tĩnh mạch. Trong phòng không có cửa sổ, chỉ thấy thứ mùi đất phảng phất trong ý niệm của anh. Nấm mốc. Một tầng hầm. Giờ thì anh bắt đầu tư duy bằng giác quan của một cảnh sát. Những người khác đã bị tra tấn vài ngày trước khi bị ả vứt xác. Điều đó có nghĩa là anh sẽ có thời gian. Hai ngày. Có lẽ là ba ngày. Họ có thể tìm thấy anh trong khoảng thời gian đó. Anh đã nói với Henry rằng mình đi đâu, rằng anh có một buổi trao đổi với bác sĩ tâm lý về thi thể mới nhất. Anh đã muốn gặp cô bác sĩ này trước đó, để cô ta cho lời khuyên. Anh đã không chuẩn bị cho việc này. Nhưng họ sẽ kết nối những điều đó với nhau. Henry sẽ kết nối nó. Đó sẽ là nơi cuối cùng có thể lần ra dấu vết của anh. Anh đã gọi điện cho vợ mình trên đường đi. Đó sẽ là điểm liên lạc cuối cùng. Đã bao lâu kể từ khi anh bị bắt? Ả lại xuất hiện. Ở phía bên kia bàn, cái xác vẫn nằm đó, máu lênh láng, sẫm màu, thấm trên sàn nhà màu xám. Anh nhớ lại lần đầu tiên khi ả tự giới thiệu mình là bác sĩ tâm thần - một người đã từ bỏ công việc chuyên môn để viết sách. Ả đọc được các thông tin về đội đặc nhiệm và đã gọi cho anh để xem ả có thể giúp gì không. Đó là địa ngục đối với tất cả thành viên trong đội. Ả đề nghị được tham gia nhiệm vụ. Không phải tư vấn, ả nói. Chỉ là nói chuyện trao đổi. Đội đặc nhiệm đã điều tra vụ án này gần mười năm. Hai mươi ba thi thể ở ba tiểu bang. Đây là một vụ án rất lớn. Ả mời những người quan tâm đến tham dự một buổi thảo luận nhóm. Chỉ nói chuyện. Anh đã rất ngạc nhiên khi thấy nhiều thám tử xuất hiện. Có thể một phần lý do xuất phát từ thực tế là ả rất xinh đẹp. Điều đáng buồn cười là thực tế đó đã phát huy tác dụng. Ả khá tốt và có ích. Ả kéo tấm vải trắng che người anh xuống, để ngực anh lộ ra và anh nhận ra rằng mình đang trần truồng. Chẳng có sự tự ái nào gắn với việc đó cả. Nó chỉ đơn thuần là sự thật. Ả đặt một bàn tay lên xương ức của anh. Anh biết điều này có nghĩa là gì. Anh nhớ những bức ảnh của các vụ án trước, những vết trầy xước và vết bỏng trên người các nạn nhân. Đó là một phần hồ sơ, một trong những ký hiệu của ả. “Anh biết chuyện gì sẽ diễn ra tiếp chứ?” Ả hỏi và biết thừa rằng anh ý thức được điều đó. Anh cần nói chuyện với ả. Để hoãn binh. Anh cố tạo ra những tiếng ồn nhưng chúng bị ngắt quãng qua băng keo; và anh cử động đầu ra hiệu để ả tháo nó ra. Ả chạm ngón tay lên môi anh, lắc đầu. “Chưa đến lúc”, ả thì thầm. Ả hỏi lại lần nữa, giọng gắt hơn một chút. “Anh biết chuyện gì xảy ra tiếp theo chứ?” Anh gật đầu. Ả cười thỏa mãn. “Đó là lý do em chuẩn bị một thứ đặc biệt cho anh, cưng ạ.” Ả đặt khay dụng cụ bên cạnh mình, rồi ả quay sang rút ra thứ gì đó. Một cái đinh. Thú vị đây! Anh nghĩ, cảm thấy ngạc nhiên với khả năng thoát ly cảm xúc của chính mình, để giữ được tỉnh táo. Cho tới nay, những nạn nhân bị ả sát hại đều rất ngẫu nhiên, đàn ông, phụ nữ, già, trẻ nhưng tất cả đều có những tổn thương trên thân thể, mặc dù những tổn thương đó ngày càng ghê gớm hơn và giống nhau một cách đáng kể. Trước đây, ả chưa từng sử dụng đinh. Ả có vẻ hài lòng. “Em luôn nghĩ anh sẽ thích sự đa dạng.” Ả để đầu ngón tay nhảy nhót trên lồng ngực của anh cho đến khi tìm thấy cái xương sườn mà ả muốn. Ả đặt đầu đinh vào lớp da. Anh cảm thấy như xương sườn vỡ vụn và tắc thở một lần nữa. Ngực anh đau nhói. Anh vật vã và cố gắng thở. Mắt anh chảy nước. Ả lau nước mắt trên gò má đỏ ửng và vuốt tóc anh, sau đó tìm một chiếc xương sườn khác và lặp lại hành động. Khi ả ngừng tay, sáu xương sườn của anh như đã vỡ vụn. Chiếc đinh đẫm máu. Ả thả nó xuống khay dụng cụ với một cái nháy mắt vô cảm. Anh không thể cử động được cơ thể dù chỉ một mi-li-mét mà không bị đau buốt, giống như chưa ai từng phải trải qua. Lỗ mũi bị tắc đầy chất nhầy, anh không thể thở bằng miệng, anh phải chịu đựng đau đớn với mỗi nhịp thở, nhưng anh cũng không thể nén cho mình thở nhẹ được, không thể kìm hãm được những lá phổi hoảng loạn đang phát ra âm thanh nghe như tiếng nức nở. Hai ngày có lẽ là quá lạc quan - anh nghĩ. Có thể anh sẽ chết ngay bây giờ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đau Khổ của tác giả Chelsea Cain & Xuân Nguyên (dịch).
Rừng Sâu Tăm Tối
Trong một khu rừng tăm tối Nora đã không gặp mặt Clare suốt mười năm nay. Không hề, kể từ khi Nora bước ra khỏi cánh cổng trường cấp ba và chưa một lần ngoái đầu lại. có một ngôi nhà tăm tối; Rồi một ngày, cô bất ngờ nhận được lời mời dự tiệc chia tay đời độc thân của Clare. Liệu đây có phải là cơ hội để Nora nói lời từ biệt với quá khứ vẫn luôn hằng ám ảnh mình? Trong ngôi nhà tăm tối ấy có một căn phòng tăm tối; Nhưng một điều vô cùng, vô cùng sai trái sắp sửa xảy ra. Trong căn phòng tăm tối ấy Có một số bí mật không thể giấu mình mãi mãi. *** TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Tôi đang chạy. Tôi chạy xuyên qua khu rừng đẫm ánh trăng, quần áo bị cành cây cào rách và chân vướng vào đám dương xỉ diều hâu trĩu tuyết. Những bụi mâm xôi rạch qua tay tôi. Hơi thở bỏng rát trong họng. Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Nhưng tôi phải làm điều này. Tôi chạy. Tôi có thể làm được điều này. Lúc nào chạy, tôi cũng thầm niệm trong đầu một câu thần chú. Khoảng thời gian tôi muốn đạt được, hoặc cơn giận dữ tôi nện xuống mặt đường nhựa. Nhưng lần này chỉ một từ, một ý nghĩ nện thình thình bên trong tôi. James. James. James. Tôi phải tới đó. Tôi phải tới được con đường trước khi... Nó đây rồi, con đường nhựa tựa con rắn đen dưới ánh trăng, và tôi có thể nghe thấy tiếng động cơ gầm rú chạy tới gần; những dải ánh sáng trắng chói lòa, những thân cây đen sẫm như những nhát cắt xuyên qua ánh sáng. Đã quá muộn chưa? Ba mươi mét cuối, tôi buộc mình chạy chậm lại, rồi tôi vấp chân ngã nhào qua những thân cây đổ, trống ngực đập thình thình. James. Quá muộn rồi - chiếc xe đã tới quá gần, tôi không ngăn được nữa. Tôi quăng mình lên con đường nhựa, dang rộng hai tay. “Dừng lại!” Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Ánh sáng rọi vào mắt, cơn đau ở đầu. Mùi máu tanh xộc lên mũi, hai bàn tay dấp dính máu. “Leonora?” Giọng nói loáng thoáng xuyên qua làn sương mù đau đớn. Tôi cố lắc đầu, miệng chẳng nhếch nổi thành lời. “Leonora, em an toàn rồi, em đang ở phòng cấp cứu. Chúng tôi đang đưa em đi chụp chiếu.” Đó là một người phụ nữ, đang nói oang oang, rành rọt. Giọng nói làm tôi đau đớn. “Có người nào chúng tôi có thể liên hệ được không?” Tôi lại cố lắc đầu. “Đừng cử động đầu,” cô ta nói. “Em bị chấn thương vùng đầu.” “Nora,” tôi thều thào. “Em muốn chúng tôi gọi Nora à? Nora là ai?” “Em... tên em.” “Được rồi Nora. Thả lỏng người nhé. Không đau đâu.” Nhưng nó đau quá. Chỗ nào cũng đau. Đã có chuyện gì vậy? Tôi đã làm gì?   Mời các bạn mượn đọc sách Rừng Sâu Tăm Tối của tác giả Ruth Ware & Mon, Seal (dịch).