Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Lá Rụng Trong Vườn - Ma Văn Kháng

Mùa lá rụng trong vườn là một tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng, hoàn thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào năm 1985. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế bào của xã hội. Truyện đã giành giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Mùa lá rụng trong vườn kể về gia đình ông Bằng, một nhân viên bưu điện đã nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông Bằng có năm người con trai. Anh cả Tường đã hi sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Đông là anh hai, trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản và thậm chí là hơi lười biếng với Lý, cô con dâu đảm đang, nhanh nhẹn. Con trai thứ ba của ông là Luận, một nhà báo có nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh em, người con thứ tư - Cừ, lại hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội. Cuối cùng, em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Ông Bằng cùng với gia đình Đông và Luận sống trong căn nhà đầu phố tĩnh mịch, cách khá xa sự ồn ào, hỗn loạn của chốn thị thành. Tuy nhiên, trong ngôi nhà yên tĩnh ấy, bi kịch ập tới khi Cừ bỏ việc ở xí nghiệp, trốn ra nước ngoài, bỏ lại vợ và hai con nhỏ. Đối với ông Bằng, người cha vốn rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, vốn đề cao những giá trị tinh thần truyền thống, đề cao đạo đức thì đây là một cú sốc quá lớn. Sau khi trốn sang Canada, Cừ mới nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn. Anh liền gửi bức thư cuối cùng về nhà trước khi uống thuốc tự tử. Nhận được thư, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát, khiến ông phải nhập viện, rồi qua đời. Đồng thời, vợ và hai con trai của Cừ vô cớ bị sa thải khỏi nông trường, phải đến ở nhờ nhà ông Bằng, rồi nhà chị Hoài. Trước tình cảnh khó khăn, Luận, Phượng và Hoài đã tỏ rõ mình là những người có tinh thần trách nhiệm cao đẹp, thương người như thể thương thân. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại đến. Lý cảm thấy quá mệt mỏi và chán chường khi sống cạnh Đông, người chồng lôi thôi, tối ngày chỉ biết đánh tổ tôm, không quan tâm tới vợ. Chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là con người ít học, nhiễm lối sống thị thành xô bồ từ nhỏ, Lý dần dần bị cám dỗ. Chị đã có lần đi công tác Sài Gòn gần tháng trời với ông ta, sống cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc, bỏ bê gia đình. Rồi cuối cùng chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà chị mới nhận ra lỗi sai của mình, viết thư tỏ ý muốn quay trở về. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người nhận được thư của Lý. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ ***   Chợt có ngày hai mẹ con đang đi giữa phố cái Nga bỗng kêu: "Mẹ ơi, khói ở đâu ra thế này?" và cả hai mẹ con chìm trong một làn sương xám như bụi tro bay. Cái cảnh tượng như chỉ thấy ở miền núi vào những ngày mù sa làm cho con bé ngỡ ngàng. Nó ngỡ ngàng với tất cả. Kể cả việc nó được về thành phố ở với mẹ và bố. Phải mất gần một năm trời, mọi việc mới thu xếp xong, Phượng mới đưa được nó về đây. Con bé bị thiệt thòi nhiều quá. Nhưng nó đã được đền bù ngay: nó về đến thành phố thì cái Tết vừa chớm tới. Tết đang chầm chậm về, càng chầm chậm càng vui nôn nao. Cái Tết đến theo tiếng pháo dẫn đường. Thoạt đầu, pháo nổ đì đẹt, thưa thớt, ở xa lắc. Rồi gần dần, đặc dầy dần. Tới khi đường phố đã lấm tấm xác giấy hồng hồng và ở các cổng chợ, các ngã ba ngã tư, các quầy lá dong dựng lều bán mái thì đã là hăm ba tháng chạp - cái Tết thật sự đã có hình bóng. Cái văn phòng Xí nghiệp In có bà trưởng phòng tính nết thất thường của Phượng - cái thế giới sinh động vui vẻ ấy đón nhận cái Tết sớm hơn hẳn nơi khác. Vì cách đó mấy tuần, những tính toán chi tiêu sắm sửa cho cái Tết dân tộc đã lầm rầm chen lẫn vào công việc thường ngày, rồi mỗi ngày tiếng nó càng to, đến nỗi đã có lúc nó lấn át cả tiếng nói công việc. Và bà trưởng phòng, đã phải liên tục mở miệng quát tháo để giảm bớt sự nhiễu loạn và kéo sự chú ý của các cô vào công việc. Câu nói cửa miệng của bà lúc này là: "Tết với nhất, tốn tiền, mệt xác! Rồi lại còn dửng mỡ nữa chứ! Tôi yêu cầu! Tết năm nay cô nào còn đẻ nữa sẽ cắt thưởng. Sao mà ham đẻ thế!” Phượng bận rộn với công việc cuối năm. Hăm nhăm, hăm sáu Tết rồi vẫn còn hàng đống chứng từ hoá đơn chưa thanh toán, vào sổ. Còn quyết toán cả năm. Còn báo cáo tài chính với Liên hiệp xí nghiệp, với Ngân hàng. Năm nay xí nghiệp hoàn thành kế hoạch trước gần tháng, tiền thưởng khá to, nhưng làm cách nào rút được tiền mặt. Các cô đi qua, ghé lại bàn Phượng: "Chị Phượng ơi, Tết năm nay vợ chồng con cái em trông cậy cả vào chị đấy!” Và hình như chỉ chờ có vậy là bà trưởng phòng giật lên đùng đùng: - Hỏi cô thủ quỹ nhà các cô kia kìa! Bụng đã vượt mặt thế kia, còn có mà chạy được tiền mặt khối ra đấy! Tết năm nay cứ chuẩn bị mà treo niêu! Chửa với đẻ gì mà cứ như gà thế! Tháng trước xí nghiệp đã đứng ra làm lễ cưới cô thủ quỹ lấy ông Trưởng phòng Kỹ thuật. Giờ bụng cô đã to sề sệ. Rõ ràng là chửa trước ngày cưới chứ còn gì. Và Phượng thì bước đi đã thấy kềnh kệnh. Bà trưởng phòng nhằm vào hai cô tha hồ ngấm nguýt, móc máy, nhưng ngấm nguýt móc máy mà bà ngấm ngầm hả hê. Nhất là với cô thủ quỹ. Chửa đẻ thế, bị công luận coi thường là cái chắc, thì làm gì còn khả năng mà dám ganh với cái chức Trưởng phòng của bà. Một hôm bà đến bàn Phượng lúc cô đang bận làm quyết toán. Phượng nghĩ, chắc bà lại cự nự về việc mình trừ lương ông giám đốc từ tháng tới, hoặc là phàn nàn việc mình tự động lên gặp giám đốc đề nghị một số cải tiến trong việc kinh doanh của xí nghiệp hôm vừa rồi. Nhưng, không. Nghiêng nghiêng đầu, nhìn Phượng, mặt bà lồ lộ vẻ hí hửng rất trẻ con: - Này, đã có tin tức gì thằng Cừ chưa? Hơi bị bất ngờ, Phượng lắc đầu thật thà buồn rầu khe khẽ đáp: - Chú ấy không còn nữa, chị ạ. - Cái gì? Cậu nói cái gì! Nó có mà chết khối ra đấy! - Hai con mắt nổi phồng như mắt sư tử giấy, bà trưởng phòng, bỗng như nổi cơn hùng hổ, tiếp. - Này, nói để cô biết, phải cảnh giác nhé. Thằng Tàu nó bắt bọn di tản huấn luyện biệt kích rồi tung về ta làm gián điệp ối ra kia kìa. Quái, Cừ ở Canađa, chú ấy đã thất vọng và đã tự tử rồi. Sao bà lại nhằng chuyện nọ sang chuyện kia thế? Bà nói vậy là có ý gì? Đã tưởng bà đi, Phượng cúi xuống quay cái máy tính. Nhưng bà cũng lại cúi xuống theo và chống khuỷu tay lên mặt bàn Phượng, ghé sát vào mặt Phượng, toang toang như cố tình để người khác nghe thấy: - Này, thế bà vợ tay Đông ra sao rồi? Tớ biết ngay là con mẹ ấy nó sẽ bỏ lão Đông mà. Này, hồi nó viết thư đến xí nghiệp tố cáo cậu lăng nhăng với lão Đông, tớ mà không đứng ra bênh cậu thì còn lôi thôi to. Mụ ấy giờ ở đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Mùa Lá Rụng Trong Vườn của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Luật Chơi - Phan Hồn Nhiên
Ta đang sở hữu tình trạng hoàn hảo của một cỗ máy thực thụ. Thế giới vận hành theo cách chúng ta đang đối diện mỗi ngày, hay bên dưới bề mặt kia còn cất giấu các bí mật, những thay đổi ngầm sẽ bẻ ngoặt nó sang lộ trình mới? Tất cả chúng ta, đến một lúc nào đó, đều sẽ phải rời khỏi nơi chốn cũ. Chỉ có bước ra bên ngoài vỏ bọc an toàn, theo đuổi mục đích của chính mình, ta mới trở thành con người mà ta hằng mong muốn Cùng với Hiện thân, Máu hiếm, Luật chơi là cuốn tiếp theo trong series sách sci-fi của Phan Hồn nhiên! *** Một cuộc sống đúng như các chàng trai cô gái hôm nay đang sống. Một chương trình truyền hình mọi người vẫn xem mỗi tuần. Một ngôi nhà, một căn phòng đã quen thuộc. Bỗng, chỉ sau một buổi tối ra khỏi nhà, khi trở về, mọi thứ vây quanh Lâm thay đổi hoàn toàn. Những người ngỡ như có thể tin cậy nhất, các nơi chốn tưởng chừng an toàn nhất, với cậu, lại cất giấu nhiều nguy hiểm nhất. Một cuộc phiêu lưu mở ra trước mắt Lâm. Cậu nhập cuộc, tham gia cuộc chiến đấu liên quan đến vấn đề sinh – tử. Khởi đầu âm thầm và được dẫn dắt bởi nỗi sợ hãi, cho đến một lúc, cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ biến thành một hành trình chủ động. Nhân vật chính thực hiện tiến trình biến đổi quan trọng, từ một chàng trai tuổi teen trở thành nhân vật được lựa chọn, một người chiến đấu và chiến thắng. Mang phong cách sci-fi, Luật Chơi mang theo những âm mưu và bí mật buộc bạn không ngừng phân tích, lý giải và khám phá. Các nhân vật sẽ tiến vào lãnh địa đầy thử thách của khoa học hiện đại, tiếp cận một số gợi mở bất ngờ của nghệ thuật. Và như tất cả những chàng trai cô gái tuổi 17, họ cũng bước vào thế giới của tình yêu, tìm thấy các rung động đầu đời, và nhận ra những điều lớn lao phía sau tình yêu ấy. Thông qua hình ảnh “gap year” mà nhân vật chính trải qua, Luật Chơi gửi đến bạn thông điệp mạnh mẽ về thời gian chuyển tiếp mà người trẻ sẽ trải nghiệm. Nhận biết con người thật của chính mình cũng như con người mà mình muốn trở thành, Lâm không ngừng bước để đạt đến mục tiêu. Nhưng, trên con đường cậu đi, những gì đồng hành với cậu mới là điều đáng giá nhất. *** Phan Hồn Nhiên (sinh năm 1972) là một nữ nhà văn Việt Nam, tác giả của những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại và tưởng tượng. Chị bắt đầu viết sách từ năm 1992 và đã có nhiều cuốn sách ra mắt được đông đảo công chúng trên cả nước đón nhận. Sinh ra tại Hà Nội, nhưng Phan Hồn Nhiên sống tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm lên 5 tuổi. Ba là kỹ sư nông nghiệp người miền Nam, còn mẹ là là bác sĩ thú y người Hà Nội. Chị tốt nghiệp trường trung học phổ thông Lê Quý Đôn và sau đó là bằng cử nhân tại trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội vào năm 1999. Sau đó, chị trở thành nhà báo, quản lý biên tập viên tại Tạp chí Sinh viên Việt Nam. Hai trong số các cuốn sách của chị đã được chuyển thể thành những bộ phim truyền hình. Tài năng của nhà văn Phan Hồn Nhiên nhanh chóng bộc lộ sau khi bà giành vị trí thứ hai trong cuộc thi nhà văn trẻ được tổ chức bởi báo Hoa Học Trò. Năm 2009, chị đã được trao giải thưởng của Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh cho tập truyện ngắn Cánh Trái. Năm 2011, chị giành giải thưởng Sách Quốc gia cho cuốn sách Xúc cảm nguy hiểm và cũng trong năm đó, chị đã tham gia Chương trình Viết văn quốc tế tại Iowa, Mỹ. Hiện là biên tập viên, làm việc tại báo Sinh Viên Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM năm 2010; Uỷ viên Hội đồng Văn xuôi của Hội khoá VII (2015-2020). Sự nghiệp viết văn của Phan Hồn Nhiên đến nay đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng với đông đảo quần chúng bạn đọc trên cả nước, bao gồm các tiểu thuyết, truyện ngắn • Tác phẩm đã xuất bản: - Ngựa thép (tiểu thuyết - NXB Trẻ) - Cánh trái (tập truyện ngắn - NXB Văn Nghệ) - Đồi mùa hè (tập truyện ngắn - NXB Văn học) - Công ty (truyện dài - NXB Trẻ) - Mắt bão (truyện dài - NXB Văn Nghệ) - The Joker (truyện dài - NXB Trẻ) - Một nắm mưa trên ngôi nhà Mondrian (in chung Vũ Đình Giang - NXB Trẻ) • Tác phẩm viết riêng cho tuổi teen đã xuất bản: - Bộ ba fantasy: Những đôi mắt lạnh, Chuỗi hạt Azoth, Xuyên thấm (3 truyện dài - NXB Kim Đồng) - Bộ ba Sci-fi: Máu hiếm, Luật chơi, Hiện thân (3 truyện dài - NXB Trẻ) - Nằm ở lưng đồi (tập truyện ngắn - NXB Trẻ) - Dạt vòm (truyện dài - NXB Kim Đồng) - Giao mùa (tập truyện ngắn - NXB Kim Đồng) - Cú nhảy ban mai (tập truyện ngắn - NXB Kim Đồng) - Băng ghế mùa thu (tập truyện ngắn - NXB Kim Đồng) - Người mưa (tập truyện ngắn - NXB Kim Đồng) - Xúc cảm nguy hiểm (tập truyện ngắn - NXB Kim Đồng) • Giải thưởng - Vị trí thứ hai trong cuộc thi Nhà văn trẻ của Báo Hoa Học Trò. - Giải thưởng Nhà văn trẻ của Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009. - Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2011. - Giải đồng Sách hay Việt Nam cho tác phẩm Xúc cảm nguy hiểm năm 2012. Mời các bạn đón đọc Luật Chơi của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Chàng Sumô Không Thể Béo - Éric-Emmanuel Schmitt
Jun, cậu bé mới lớn bỏ nhà lên thủ đô kiếm sống bằng nghề bán tiểu thuyết-ảnh ở một góc ngã tư. Jun dị ứng với tất thảy, với con người, với cả những người ruột thịt gần nhất: người bố đã tự tử vì sức ép công việc quá lớn, người mẹ đã cư xử như một thiên thần với mọi người mà không dành cho cậu sự ưu ái nào. Jun sống trong nỗi tuyệt vọng đó cho đến ngày cậu gặp một ông lão cứ nhắc đi nhắc lại như đinh đóng cột: “Ta thấy một người to lớn trong cậu.” Câu thần chú ấy chính là một sự khởi đầu, để tạo nên một nhân vật hết sức đặc biệt: một chàng sumô không thể béo... Với cuốn sách đậm chất ngụ ngôn này, Éric-Emmanuel Schmitt đã chứng tỏ một điều: sách mỏng không đồng nghĩa với sách nhẹ ký. *** Thủ đô Tokyo - Nhật, những năm 2000. Cậu bé Jun 15 tuổi sống lang thang trên đường phố Tokyo bằng cách bán những thứ khá bệnh hoạn: các con vịt có ngực, những hình phụ nữ khỏa thân bằng nhựa... để bỏ vào bồn tắm. Jun bỏ nhà ra đi được vài năm. Mẹ cậu cư xử như một thiên thần với tất cả mọi người, nhưng lại vô tâm và thờ ơ với chính cậu. Bố cậu - tự tử vì sức ép công việc quá lớn - người mà "Nếu ai đó bảo con vẽ bố, có lẽ con sẽ vẽ cái máy cạo râu trong phòng tắm, cái tên trên hộp thư báo, cái tủ có ba đôi giày và hai bộ quần áo tối màu; có lẽ con sẽ vẽ cả sự yên lặng... Nhiều bạn của con không được gần gũi bố nhưng đa phần chúng nó đều có quyền có một người-cha-trong-các-kỳ-nghỉ. Con ấy à, con đã rất thích có được điều đó, có một người-cha-trong-các-kỳ-nghỉ, một ông mặc quần short, trông buồn cười, động viên, kiên trì dạy con làm đống thứ linh tinh...". Những trải nghiệm cay đắng từ gia đình đã làm biến đổi thế giới quan cũng như tính cách của Jun, khiến cậu phát triển "một thứ mỹ cảm lộn ngược, một thứ mỹ cảm gắn liền với những dị dạng của mình", khiến cậu căm ghét đồng loại: "Tôi dị ứng với tất cả. Không có gì lôi cuốn tôi, tôi ghê tởm tất cả, sống làm cho tôi ngứa ngáy, hít thở làm tôi nổi cáu, nhìn xung quanh khiến tôi muốn đâm đầu vào tường cho phọt óc, quan sát loài người làm tôi thấy buồn nôn, chịu đựng lời nói của họ làm da tôi phủ đầy vẩy eczema, lại gần sự xấu xí của họ làm tôi rùng mình... Tóm lại, tôi đã vò nặn cuộc đời tôi theo sự què quặt của tôi". Nhưng cuộc gặp gỡ với ông già Shomintsu kỳ lạ trên đường đã làm cuộc sống của Jun hoàn toàn thay đổi. Ông già ấy luôn luôn nhắc đi nhắc lại với cậu bé còi xương, hai đầu gối quặt vào trong và yết hầu lồi ra: "Ta thấy một người to lớn trong cậu". Câu nói "thần chú" này là khởi đầu để tạo nên một nhân vật hết sức đặc biệt: một chàng sumô không thể béo... Đó chính là khởi đầu kỳ diệu để Jun xóa bỏ quá khứ cùng những sức nặng tâm lý ngăn cậu trở thành một đô vật sumo thực thụ. Jun đã học được cách chế ngự bản thân qua tập luyện và thiền định, đồng thời vươn tới tầm cao của sự hiểu biết chính mình. Sự thù hận đồng loại trong cậu cũng biến mất, và ở điểm kết thúc của câu chuyện, Jun còn tìm thấy tình yêu. Văn phong giản dị nhưng cô đọng, ngôn từ mộc mạc mà chọn lọc, cuốn sách đậm chất ngụ ngôn và triết lý của cây viết tài năng Éric-Emmanuel Schmitt đã chứng tỏ một điều: sách mỏng không đồng nghĩa với sách nhẹ ký. Đọc Chàng sumo không thể béo, bạn sẽ biết về: - Cách làm chủ dòng suy nghĩ và dung hòa cảm xúc - Vẻ đẹp của tình mẫu tử và tình cảm gia đình. - Một tỷ điều thú vị và tinh tế về môn vật sumo mà có thể những định kiến hời hợt nào đó (nếu có) khiến ta có suy nghĩ lầm lẫn về môn thể thao này. - Chân dung nước Nhật hiện đại và tinh thần võ sĩ bất diệt ở đất nước mặt trời phương Đông. - Cách hàn gắn nỗi đau và sự tuyệt vọng. - Cách nhìn nhận và đánh giá đúng bản thân. - Cách hiểu rõ chính mình. - Cách lắng nghe và truyền cảm hứng. - Sự lạc quan lành mạnh. Nói về cuốn sách này, tờ Le Point của Pháp nhận định: "Cùng lúc đơn giản và phức tạp, cùng lúc sáng rõ và khiến người ta phải bối rối. Ai cũng có thể nhận ra mình trong đó"... còn Le Pèlerin thì bình "đúng chất" Eric-Emanuelle: "Đừng e ngại, cuốn sách này sẽ không khiến bạn béo ra mà chỉ khiến bạn lớn lên thôi". ... Mời các bạn đón đọc Chàng Sumô Không Thể Béo của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.
Thợ Săn Vàng - James Oliver Curwood
Trong tiểu thuyết “Thợ Săn Vàng", Curwood kể về những cuộc mạo hiểm ly kỳ hấp dẫn của Roderick Drew, một chàng trai da trắng và hai thổ dân da đỏ - Mukoki, một chiến binh già và Wabigoon, bạn học của Roderick. Họ lên đường đi giải cứu Minnetaki, em gái của Wabigoon, bị bọn cướp Woonga bắt cóc. Sau khi đã giải cứu được cô gái da đỏ, họ lại tiếp tục cuộc hành trình bằng thuyền độc mộc đi ngược dòng lên những ngọn núi thâm u miền Viễn Bắc để truy lùng một mỏ vàng thất lạc, từ một tấm bản đồ cổ được vẽ cách đó nửa thế kỷ. Câu chuyện được thuật lại vô cùng sinh động và hấp dẫn, và mang lại cho bạn đọc nhiều kiến thức về đời sống và con người ở vùng cực Bắc Canada vào khoảng đầu thế kỷ 20. Chúng tôi hy vọng các bạn sẽ cảm thấy thích thú với bản dịch này. Và cũng hy vọng sẽ có cơ hội tiếp tục giới thiệu thêm những bản dịch các tác phẩm hay nhất của nhà văn James Oliver Curwood cùng các bạn. *** James Oliver Curwood (12/6/1878 - 13/8/1927) là một tiểu thuyết gia và nhà bảo vệ môi trường người Mỹ. Chào đời ở Owosso, Michigan, ông rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp, nhưng vẫn vượt qua những bài thi tuyển của Đại học Michigan, sau đó theo học chuyên ngành báo chí. Năm 1900, Curwood bán truyện ngắn đầu tay khi làm việc cho tờ Detroit News-Tribune. Năm 1909, ông du hành tới miền bắc Canada, chuyến đi này đã gợi hứng cho những câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm trong miền hoang dã Viễn Bắc của ông. Với thành công của những quyển tiểu thuyết này, ông tiếp tục trở lại vùng Alaska và Yukon mỗi năm vài tháng, và viết hơn ba mươi cuốn tiểu thuyết cùng chủ đề đó. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim do ngôi sao điện ảnh Nell Shipman thủ diễn với vai trò của một phụ nữ can đảm, ưa thích mạo hiểm. Rất nhiều phim đã được dựng trong thời kỳ Curwood đang sống, cũng như sau khi ông qua đời, suốt cho tới thập niên 1950. Năm 1988, đạo diễn Pháp Jean Jacques Annaud đã dựng cuốn tiểu thuyết thứ mười sáu của ông - “The Grizzly King” (Vua gấu xám) thành phim L’Ours. Thành công của Annaud đã khuấy động những quan tâm mới tới những cuốn tiểu thuyết của Curwood, và từ 1994-1995 đã có thêm năm bộ phim nữa ra đời trên cơ sở các kịch bản chuyển thể từ những câu chuyện của ông. Cho tới năm 1922, các tác phẩm của Curwood giúp ông trở thành người giàu có và ông đã hoàn thành giấc mơ thời thơ ấu của mình với việc xây dựng Lâu đài Curwood ở Owosso. Là một người hăng say cổ động cho việc bảo vệ môi trường, Curwood được đề cử vào Ủy ban Bảo vệ môi trường Michigan năm 1926. Năm sau, trong một chuyến đi câu ở Florida, ông bị một con nhện độc cắn vào đùi và bị dị ứng ngay lập tức. Những sa sút sức khoẻ liên quan tới vết cắn đó kéo dài suốt mấy tháng sau và dẫn tới cái chết vì hoại huyết của ông vào tháng 8/1927. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Oak Hill ở Owosso. Toà lâu đài của ông hiện trở thành viện bảo tàng Curwood. Hàng năm, vào dịp nghỉ cuối tuần đầu tiên của tháng Sáu, thành phố Owosso tổ chức Lễ hội Curwood để chúc tụng truyền thống của mình. Ông còn được vinh danh với việc được lấy tên để đặt cho một ngọn núi ở L’Anne Twonship, Michigan, Núi Curwood, và Công viên L’ Anne Township được đổi tên thành Công viên Curwood. • Các tác phẩm chính: — Những tay thợ săn sói (The Wolf Hunters - 1908). — Thợ săn vàng (The Gold Hunters - 1909). — Đoá hoa miền Bắc (The Flower of the North - 1912). — Kazan (1914). — Người đàn bà bị săn đuổi (The Hunted Woman - 1916). — Vua gấu xám (The Grizzly King - 1916). — Baree - con trai của Kazan (Baree, Son of Kazan – 1917). — Thung lũng của những kẻ im lặng (The Valley of Silent Men –1920). — Cái bẫy thú bằng vàng (The Golden Snare –1921). *** Sự im lặng sâu thẳm của ban trưa bao trùm lên cánh rừng Canada mênh mông quạnh vắng. Những con nai sừng tấm và tuần lộc đã ăn no từ sớm mai đang lặng lẽ nghỉ ngơi trong hơi ấm của mặt trời tháng Ba. Con mèo rừng nằm cuộn mình trong cái hang giữa những tảng đá lớn của nó, chờ đợi ánh mặt trời chìm xuống phương tây để khởi sự săn mồi. Con cáo đang ngủ giấc trưa và những chú chim sâu hay chộn rộn lười nhát rỉa lông dưới ánh nắng ấm áp đang làm tan chảy lớp tuyết cuối đông. Đó chính là lúc một người thợ săn già nào đó tháo chiếc ba lô khỏi người, lặng lẽ thu nhặt củi để nhóm lửa, ăn bữa trưa và khoan khoái rít chiếc tẩu thuốc, tai và mắt đầy cảnh giác, chính lúc đó, nếu bạn chỉ nói lớn hơn tiếng thì thầm một chút thôi, ông ta sẽ bảo bạn: “Suỵt! Hãy im lặng! Anh không biết chúng ta đã đến gần con mồi thế nào đâu. Mọi con vật đã ăn xong bữa sáng và nằm nghỉ. Con mồi sẽ bất động khoảng một hai giờ, và có lẽ những con nai hoặc tuần lộc ở phía trước chỉ cách một tầm đạn mà thôi. Giờ thì chúng ta không thể nghe thấy chúng!” Một lúc sau, có một con vật bắt đầu thoát ra khỏi trạng thái im lặng bất động. Đầu tiên, nó chỉ là một chấm đen trên phía tràn ánh nắng của đỉnh đồi phủ tuyết. Rồi nó cử động, duỗi dài thân hình như một con chó, hai chân trước của nó duỗi ra và vai nó hạ thấp xuống – đó là một con sói. Sói là loài thú ngủ rất ngon lành sau một bữa no. Một tay thợ săn giỏi có thể biết rằng con sói này đã ăn no vào đêm trước. Tuy nhiên, đã có cái gì đó đánh thức nó. Mơ hồ xuất hiện trước con vật nhạy cảm nhất trong số những cư dân của rừng một thứ mùi – mùi của con người. Nó đi xuống dốc núi với vẻ chậm chạp hờ hững của một con thú đã no nê, và với chỉ nửa phần sự khéo léo vốn có của nó; chạy chầm chậm trên lớp tuyết mềm của khe núi và dừng lại nơi mùi của con người đậm đặc đến nỗi nó ngóc mõm lên trời và gửi tới các bạn cùng đàn trong rừng một dấu hiệu cảnh báo rằng nó đã phát hiện ra sự có mặt của con người. Một con sói chỉ làm như thế vào ban ngày. Khi đêm xuống, nó và đồng bọn có thể khởi sự cuộc săn tìm, nhưng dưới ánh sáng ban ngày nó chỉ lên tiếng cảnh báo rồi nhanh chóng lẩn xa khỏi dấu vết. Nhưng có một cái gì đó giữ nó lại. Có một điều bí ẩn trong không khí làm nó bối rối. Ngay phía trước có vết rộng và êm của một chiếc xe trượt tuyết và dấu chân của nhiều con chó. Khoảng một giờ trước chuyến xe chở thư từ Bưu cục Wabinosh đã chạy ngang con đường này trên chuyến hành trình dài đến thế giới văn minh. Nhưng không phải cuộc di chuyển vừa qua của người và chó khiến cho con sói đang cảnh giác cao độ, sắp sửa chuồn đi mà vẫn chần chừ. Đó là điều gì đó từ hướng đối diện, hướng Bắc, đang đến theo cơn gió. Đầu tiên là những tiếng ồn, rồi đến các mùi, rồi cả hai, và con sói chạy vụt lên sườn núi tràn ánh nắng. Từ phía tiếng ồn và mùi lạ xuất hiện có một cái hồ, và trên bờ phía kia của nó, cách đấy khoảng một phần tư dặm, đột nhiên lao ra từ bìa rừng thông rậm rạp một đám người, xe trượt tuyết và chó. Trong khoảnh khắc, cái khối thú vật đó dường như bị vướng vào một sự hỗn loạn, một kiểu đánh nhau tàn bạo thường xảy ra giữa những con chó lai sói kéo xe ở miền Bắc. Rồi có tiếng ra lệnh sắc đanh của con người, tiếng roi quật xé gió, tiếng oăng oẳng đau đớn của những con chó Eskimo, và đội hình rối loạn được chỉnh đốn trở lại, trở thành một sợi chỉ màu vàng xám băng qua mặt hồ đóng băng trơn trợt. Người đàn ông chạy bên cạnh cổ xe trượt. Ông ta cao, gầy, và dù ở khoảng cách khá xa người ta cũng có thể nhận ra đó là một thổ dân da đỏ. Khi chiếc xe trượt băng qua được một phần tư quãng đường trên mặt hồ, một chiếc xe trượt khác lao ra từ khu rừng rậm. Bên cạnh chiếc xe này cũng có một người đàn ông đang chạy với tốc độ liều mạng. ... Mời các bạn đón đọc Thợ Săn Vàng của tác giả James Oliver Curwood.
Tắt Đèn
Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm kể về nhân vật chính là chị Dậu. Trước khi lấy chồng chị vốn có tên là Lê Thị Đào, một cô gái đẹp, giỏi giang, tháo vát và (theo nhà văn là) sinh ra trong gia đình trung lưu. Vốn lúc đầu, gia cảnh anh chị Dậu có dư dả, nhưng vì liền lúc mẹ và em trai anh Dậu cùng qua đời, anh chị dù đã hết sức cần kiệm nhưng vẫn phải tiêu quá nhiều tiền cho hai đám ma chay. Chưa hết, sau khi đám ma cho em trai xong, anh Dậu bỗng mắc bệnh sốt rét, không làm gì được, mọi vất vả dồn lên vai chị Dậu, khiến gia cảnh lâm vào'nhất nhì trong hạng cùng đinh' trong làng. Mùa sưu đến, chị Dậu phải chạy vạy khắp nơi vay tiền để nộp cho chồng, nhưng không kiếm đâu ra. Anh Dậu dù bị ốm nhưng vẫn bị bọn cai lệ cùm kẹp lôi ra giam ở đình làng. Cuối cùng, bần quá, chị buộc lòng phải dứt ruột bán đi cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi ngoan ngoãn hiếu thảo, và ổ chó mới đẻ cho vợ chồng lão Nghị Quế để lấy hai đồng nộp sưu. Nhưng vừa đủ tiền nộp sưu cho chồng, bọn cai trong làng lại ép chị nộp cả tiền sưu cho em trai anh Dậu với lý do chết ở năm ta nhưng lúc đó lịch năm tây đã sang năm mới. Vậy là anh Dậu vẫn bị cùm kẹp không được về nhà. Nửa đêm, anh Dậu dở sống dở chết được đưa về. Được bà con lối xóm giúp đỡ, anh dần tỉnh lại. Một bà lão hàng xóm tốt bụng cho chị bò gạo nấu cháo để anh ăn lại sức. Nhưng vừa kề bát cháo lên miệng, bọn cai lệ và người nhà lý trưởng ập vào ép sưu. Chị Dậu ra sức van xin không được, cuối cùng uất ức quá không thể chịu được nữa, chị đã ra tay đánh cả cai lệ và tên người nhà lý trưởng. Phạm tội đánh người nhà nước, chị bị thúc giải lên quan. Tên quan huyện lại là tên dâm ô, định ra tay sàm sỡ chị. Chị bèn vứt tọt nắm bạc vào mặt hắn rồi vùng chạy. Sau đó, chị may mắn gặp một người nhà quan cụ trên tỉnh. Người này cho chị 2 đồng nộp nốt tiền sưu và hứa hẹn cho chị công việc vắt sữa để quan cụ uống (do quan cụ đã rụng hết răng không ăn được cơm). Chị bèn về bàn với anh Dậu, cho cái Tỉu làm con nuôi nhà hàng xóm, lên tỉnh làm việc. Thời gian đầu, chị làm được tiền và gửi về cho anh Dậu. Nhưng vào một đêm tối, quan cụ mò vào buồng của chị định dở trò đồi bại với chị... Tác phẩm kết thúc bằng câu "Chị vùng chạy ra ngoài giữa lúc trời tối đen như mực, đen như cái tiền đồ của chị vậy!" *** Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục-tục kéo thợ cầy đến đoạn đường phía trong điếm tuần. Mọi ngày, giờ ấy, những con-vật này cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần-lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải-rác ở hai vệ đường, giống như một lũ phu vờ chờ đón những ông quan lớn. Dưới bóng tối của rặng tre um-tùm, tiếng trâu thở hì-hò, tiếng bò đập đuôi đen- đét, sen với tiếng người khạc khúng-khắng. Cảnh-tượng điếm tuần thình-lình hiện ra trong ánh lửa lập-lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh giẫy sào, giáo ngả nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần-phu lố-nhố ngồi trên lớp chiếu quằn-quèo. Có người phì-phò thổi mồi. Có người ve-ve mồi thuốc và chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người đang hai tay dụi mắt. Cũng có người gối đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu, ngảnh mặt vào vách mà ngáy. Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm, sáu người chuyền tay, chiếu đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt, trong điếm chỉ còn tiếng nói chuyện rầm-rầm. Gà gáy giục. Trời sáng mờ-mờ. Trâu bò, con đứng, con nằm, thi nhau quai hai hàm răng nhai trầu xuông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái trứng. Thợ cầy khắp lượt dùng bắp cầy, vai cầy làm ghế ngồi, cùng nhau bàn tán băng-cua về chuyện sưu thuế. Những con chèo-bẻo chẽo-choẹt hót trên ngọn tre, như muốn họa lại khúc ca réo-rắt - mà người quê vẫn gọi là khúc váy cô, cô cởí - của mấy con chào-mào đậu trên cành xoan, đon- đả chào vẻ tươi đẹp của cảnh trời buổi sáng. Toang cổng vẫn đóng chặt. Tuần-phu lại lần lượt thổi mồi hút thuốc lào. - Ông Trương ơi, ông làm ơn mở cổng cho tôi đánh trâu ra đồng ạ. Mọi ngày bây giờ tôi đã cầy được ba sào ruộng rồi. Hôm nay, bây giờ còn nhong-nhóng ở đây... Phỏng chừng từ giờ đến trưa, cầy sao cho xong cái ruộng mẫu hai? Thôi ông làm phúc, làm đức... Sau tiếng năn-nỉ của anh chàng cục-mịch, vai vác cầy, tay cầm thừng trâu, trương-tuần quẳng cái điếu cầy xuống đất, thở nốt khói thuốc trong miệng, rồi giương đôi mắt say thuốc lờ- đờ: - Nay chẳng xong thì mai! Ông Lý đã bảo thuế còn thiếu nhiều, không cho một con trâu, con bò nào ra đồng hết thảy... - Thưa ông, ông chủ tôi nóng tính lắm kia! Ông ấy đã dặn buổi nay tôi phải cầy cho xong ruộng ấy, nếu không xong, đến trưa về ăn cơm, ông ấy mắng như tát nước và nói như móc cơm ra... Chớ tôi có muốn vất-vả vào mình làm gì? Vả lại, ông Lý sai tuần đóng cổng, cốt để bắt trâu, bắt bò của người thiếu thuế kia chứ! Ông chủ tôi nộp thuế đủ từ hôm qua rồi, xin ông mở cổng cho tôi...! Trương-tuần nhăn mặt: - Tôi không phải tộc-biểu, không phải phần thu, biết điếc gì đâu ông chủ anh nộp thuế rồi hay chưa nộp. Bây giờ mở cổng cho anh, chốc nữa ông Lý ông ấy chửi cha tôi lên, anh có-nghe hộ tôi không? Anh chàng cục-mịch lủi-thủi đánh trâu gồng cầy lùi xuống, để nhường khu đất trước điếm cho người khác vác bừa và đuổi trâu lên. - Người ta trâu của nhà, ông chẳng cho ra thì chớ. Đây tôi, trâu thuê... đồng hai một buổi đáp, ông ạ. Xin ông lượng tình mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng kẻo trưa quá mất rồi. Người ấy nói tuy thiết-tha, trương-tuần chỉ đáp lại bằng cái lắc đầu: - Nếu trưa quá thì bừa luôn đến chiều. Trâu thuê sợ gì! - Thế được thì còn gì nói truyện gì nữa! Của một đống tiền, ai để cho mình ốp nó đến chiều? Chỉ đến non trưa, ông chủ có trâu cho thuê đã ra tận ruộng tháo vai trâu mà dắt trâu về, muốn bừa thêm một nửa đường nữa cũng không cho, ông ạ. Thôi! Mùa làm ăn, ông nghĩ lại...! - Tôi chẳng nghĩ lại, nghĩ đi gì cả! Bố tôi sống lại, bảo tôi mở cổng này bây giờ, tôi cũng xin chịu đừng nói anh... Người ấy lại vác bừa, đưa trâu trở lại chỗ cũ với cái sắc mặt thìu-thịu. Mặt trời ngấp nghé mặt lũy, muốn nhòm vào điếm. Tuần-phiên lẻ-tẻ vác sào, cắp chiếu, đeo hiệu đi về. Trong điếm chỉ còn trương-tuần duỗi gối kiểu gọng bừa, ngồi trên chiếc chiếu điểm những tro mồi, bã điếu, đốc suất mấy tên đàn em ở lại canh ngày. Xa xa nẻo trong đình, một hồi mõ cá thật dài, tiếp luôn đến trống ngũ-liên nện đủ ba hồi chín tiếng. ... Mời các bạn đón đọc Tắt Đèn của tác giả Ngô Tất Tố.