Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện

Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. ------------- Lisa Wingate là một cựu nhà báo, diễn giả truyền cảm hứng và là tác giả của hơn 30 tác phẩm bán chạy nhất của New York Times. Các tác phẩm của cô đã giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá như Pat Conroy Southern Book Prize, Oklahoma Book Award, Carol Award và Christy Award. Bí ẩn trong Cô nhi viện là tác phẩm thành công nhất của Lisa Wingate với hơn 1,5 triệu bản in được bán và là tác phẩm nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times suốt hơn một thời gian dài. Tác phẩm đã được xuất bản tại hơn 35 quốc gia trên toàn thế giới. *** Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là truyện hư cấu liên quan đến đường dây buôn bán trẻ và nhân vật tai tiếng là Georgia Tann, tuy nhiên, ban đầu mình cảm tưởng sẽ có kịch tính và phơi bày mặt tối của cô nhi viện Tennessee hay ít nhất là đời sống bí mật của Georgia Tann theo góc nhìn của Rill, nhưng thay vào đó chỉ là hình ảnh hồi tưởng nỗi buồn da diết về Arcadia, đảo bùn, Camellia, và phân chương chẵn là của bà May và lẻ là của Avery. Ở góc độ nào đó Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của Lisa Wingate nhẹ nhàng, giảm tải góc tối của cô nhi viện Tennessee, đơn giản mọi thứ tình tiết – thẳng chừng mà nói tình tiết có phần nhanh – việc tàn bạo và đối xử tệ bạc là điều luôn hiện thực không thể phủ nhận được, nhưng trong Rill và đàn em bị bắt cóc là một tấn bi kịch xảy ra rồi. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, và là nỗi đau da diết khi rời xa gia đình trong thời thơ ấu, rồi chứng kiến mọi thứ diễn ra trong cô nhi viện có thể gây ra điều gì đó tệ hơn bao giờ hết.Bi kịch xảy ra Hình ảnh Rill cuối cùng trước khi rời nhà thuyền Arcadia là ông bố dẫn mẹ Queener rời đi cùng với Zede già, Rill và đàn nhóc ở lại cùng với Silas, ở một đêm tối nhà thuyền là đêm cuối cùng trước khi bị dời đi đến cô nhi viện là hình ảnh hoài niệm của Rill sau này, hình như đó cũng là dòng tâm tư của tác giả muốn độc giả nhớ lại trước khi bỏ sách xuống.Đó chỉ là giai đoạn khởi đầu của tâm bi kịch xảy ra, dù cho Rill và Fern đã quay trở lại nhà sàn Arcadia thì cũng không thể khiến cho Briny quay trở lại nhịp điệu trước đây nữa, mà khiến cho Rill càng quyết tâm rũ bỏ mọi thứ mà trở lại với cuộc sống làm con nuôi khác, thế nhưng Rill đã không còn hạnh phúc trong cuộc sống sau này bởi bà đã rũ bỏ Silas thì còn hạnh phúc gì đủ để bà hạnh phúc hơn khi ở bên mối tình đầu nhỏ nhoi ấy?Tuy nhiên Rill – thực ra mình thích tên Rill này hơn tên May, chỉ là bà đã quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ có liên quan đến vương quốc Arcadia mà lấy tên May, đại diện cho bà hướng về tương lai, nhưng đến cuối đời bà lại hướng ngược lại dòng quá khứ, tức là bà không thể nào quên được vương quốc Arcadia có mặt đầy đủ mọi người ở đó  là Queenie, Briny, Camellia, Lark, Fern, Gabion, Silas và Zede già cùng phiêu lưu trên con sông – đã cưới ba đời chồng, thì cả ba người làm nghề khác nhau, một người làm giáo viên tượng trung cho suy nghĩ, một người làm nhà truyền giáo tượng trưng cho hiểu biết và người cuối cùng là dạy cho bà về tưởng tượng. Nhưng không một ai bằng Silas, một kiểu mối tình sâu đậm và có thể hạnh phúc trên dòng sông mãi mãi, nhưng bà lại không muốn vì sợ rằng sẽ lập lại như Briny, điên dại khi mất vợ, mất con, sống trong cái cảnh nghèo khó ấy luôn là tương lai tối mù. Giả sử bà vẫn chọn cách ở với Silas thì sao? Mọi tối tăm cùng quá khứ sẽ diễn ra, và bà mãi mãi không thể tìm được các em, mà thậm chí sống trong quá khứ mãi mãi.Tấm bi kịch xảy ra trong gia đình Rill là như vậy, có lẽ, tội nghiệp nhất là đứa bé Camellia, bướng bỉnh, ngoan cố y như ông bố Briny, và đứa em không thể tìm lại là Gabion, cùng với việc rời xa Silas, mà sau này chẳng thể nghe được tin tức gì về anh ta nữa, thật tình mà nói mình thấy xót thương cho Silas nhất, tính ra anh ta không có tương lai, lang bạc để kiếm sống và đối mặt với đám cớm. Thành thử, sau này Rill kể đã không biết tin tức gì về Silas càng làm lòng người ta vừa tò mò, vừa cảm thấy xót thương nhiều hơn.Văn phong trong truyện Văn phong Lisa Wingate mượn (nếu như mình đoán không nhầm vì đôi khi dịch giả chuyển ngữ đã mất đi phần văn phong của tác giả) theo kiểu nhẹ nhàng tối đa, và giảm tải bạo lực, mặt tối của cô nhi việc Tennessee không gây ấn tượng, ở phần nào đó chỉ nâng cao trải nghiệm cuộc sống của chị em Rill rồi được nhận nuôi cho đến khi nhận ra vương quốc Arcadia đã không còn nữa mà thôi. Do đó mình chỉ ấn tượng đến thế, về mặt nào đó ở góc tối, Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện chưa thật đủ gây ra ấn tượng nhiều hơn, chỉ ở khúc nào đó bị giam nhốt trong hầm tối là cùng lắm, hay việc Camellia biến mất chưa thật sự sáng tỏ và gây ra sự buồn bã nào đó với cái chết.Mình chỉ đánh giá cao về cuộc sống từ gia đình cho tới bị tách ra rồi đưa vào cô nhi viện, sau đó nhận nuôi, trốn thoát quay trở lại dòng sông để rồi phải quay trở về nhà ông bà nhận nuôi. Trong giai đoạn này hầu hết là giai đoạn tâm tư, nhớ nhung và thương xót, không gây ra kịch tính nào, hoặc chỉ đơn giản là phơi bày mặt tối thì không đạt, thậm chí tác giả Lisa Wingate chỉ ậm ừ viết cho nhanh cho qua giai đoạn mặt tối, nhất là giai đoạn về Rill khi trở về dòng sông, biết được Briny trở nên điên loạn vì mất Queenie, để rồi khi trời mưa, Briny cắt dây cho con thuyền đến giữa sống mặc kệ cho trời mưa xối xả dẫn đến có thể giết chết Rill và Fern. Mình thấy việc tác giả Lisa Wingate không miêu tả giỏi nội tâm nhân vật là Rill, từ đầu cho tới cuối, các bạn cũng sẽ đọc tới giai đoạn Rill nhớ nhung về bố mẹ ra sao, đau khổ khi thấy Briny ra sao, nhưng lại không hề sâu sắc và diễn tả buồn vui thế nào, Camellia đã mất, nhưng tác giả không hề nhắc tới, chỉ nhắc một lần duy nhất là Camellia thiệt mạng, về sau, không một từ ngữ tiếc thương nào về người em gái như thể nó đáng chết, và phải chết. Điều này mình cảm thấy nó có chút không được tự nhiên và tác giả miêu tả quá sơ sài – dĩ nhiên mình không chê văn phong của tác giả và trình độ, cái đáng tiếc là tác giả đã mong muốn kết thúc, càng về sau tác giả càng hụt hơi và nhanh chóng kết thúc truyện nhiều hơn là giải bày bí ẩn – hẳn nhiên sẽ có người cho rằng việc kết thúc nhanh chóng như vậy chỉ vì vương quốc Arcadia của Rill đã mất, sự thật đã phơi bày rằng Rill và Fern có quay trở lại thì không thể cứu vãn gia đình vốn dĩ đã sụp đổ trước khi cả năm đứa trẻ bị bắt cóc. Nhưng đối với mình thì việc phơi bày sự thật trần truồng như vậy còn nhẹ nhõng mà không hề gây ám ảnh sau này cho Rill về khoảnh khắc ông bố đứng trên mái nhà và chửi rủa, còn bình tĩnh như thể chuyện đó là hẳn nhiên, là cần thiết xảy ra không nên đau buồn. Đó là nỗi ám ảnh của đám trẻ bị tan vỡ gia đình cơ mà? Dù cho không bị ám ảnh thì đau buồn nó vẫn hiện diện như chuyện này đã xảy ngày hôm qua nhưng mình không hề thấy Lisa Wingate có miêu tả một sự đau đớn nào cho từng nhân vật mà chỉ đơn giản là khoảnh khắc hiện diện trước mặt là chuyện buồn rồi sẽ nhanh chóng qua trên khuôn mặt của May.Tuy nhiên mình không chê truyện Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là dở, cái dở ở trong  truyện chỉ vài điều và nó không nói lên rằng truyện không hay, có những khoảnh khắc mà Rill cùng Fern trốn khỏi gia đình nhận nuôi trở về Arcadia là khoảnh khắc chúng ta nhận ra rằng vương quốc Arcadia ấy đã không còn, đã biến mất hoàn toàn kể từ khi các chị em bị bắt đi và mẹ Queenie mất đi là lúc tâm trí của bố Briny đã biến mất, chẳng thiết tha sự sống của mình và của hai đứa con.Tóm lạiBí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là câu chuyện trong thời kỳ nạn buôn bán trẻ em, tuy nhiên chưa thật sự lột tả được sự tối tăm của con người Georgia Tann và cô nhi viện của bà ta như thế nào, chủ yếu tác giả tập trung vào Avery con của chính trị gia, khám phá ra lịch sử của gia đình mình để rồi biết được lịch sử bà nội mình, đằng sau câu chuyện nhận nuôi. Nhưng không thể lột tả trần trụi sự thật tối tăm vốn dĩ bản chất của việc này chẳng mấy sáng sủa hay ho gì, tuy nhiên, mình cảm thấy Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là chưa đủ nói lên sự bí ẩn lớn lao nào như tựa đề mang lại nên chưa thật sự hài lòng về việc tác giả đã đặt tên như vậy.Tuy nhiên, ngoài các chi tiết ấy thì mọi thứ điều ổn thỏa, nhẹ nhàng và đem lại ấn tượng về một gia đình tan nát, Rill bị bắt cóc cho đến quay trở về vương quốc Arcadia thì nhận ra sự thật rằng gia đình của Rill đã mất hoàn toàn, và rồi phải tự quyết định rũ bỏ vương quốc; nơi mà mình đã từng là công chúa, ra đi cùng với gia đình mới. Một ý nghĩa truyền tải đơn giản là gia đình của Arney, nếu như một đứa trẻ sống trong một gia đình đối xử bạo hành, có nghĩa bạn nên rời khỏi nơi đó, hoặc cứ như Rill đón nhận gia đình nuôi sau khi gia đình cũ bị tan nát, chấp nhận sự thật này rồi tương lai sẽ đón nhận điều mới của chúng ta. *** Dành tặng hàng trăm người đã biến mất và hàng ngàn người vẫn còn tồn tại. Cầu mong câu chuyện của các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đồng thời dành tặng cho những ai từng giúp đỡ trẻ mồ côi ngày nay tìm được mái ấm vĩnh viễn. Chúc các bạn luôn hiểu rõ giá trị công việc và tình yêu của mình. "Bạn có biết rằng, ở tại vùng đất của sự tự do và ngôi nhà của lòng quả cảm này, có một thị trường buôn bán trẻ em cực lớn? Và cổ phần sang tay... không chỉ đơn thuần là những tờ giấy hứa hẹn số cổ tức tài chính nào đó, mà là những đứa bé bằng xương bằng thịt vẫn đang quẫy đạp đầy sinh khí." Trích bài Thị trường buôn trẻ em Thời báo Tối Thứ Bảy, số ngày 1 tháng 2 năm 1930 "Georgia Tann nhiều lần nói rằng trẻ em như tấm bảng trắng. Chúng được sinh ra không chút tì vết, và nếu bạn nhận nuôi chúng từ lúc nhỏ, cho chúng tiếp cận điều hay và nền giáo dục tốt, chúng sẽ trở thành con người như bạn mong muốn." Barbara Bisanta Raymond Tên trộm trẻ thơ *** Baltimore, Maryland Ngày 3 tháng 8 năm 1939 Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất. Bên ngoài, làn gió thổi nhẹ uể oải và ve sầu kêu rộn rã trên cây cao, nơi ẩn nấp xanh tươi của chúng nằm ngay dưới khung cửa sổ. Chiếc quạt trần kêu lạch cạch trên đỉnh đầu thổi tấm màn lưới tạt vào trong, lôi kéo luồng không khí ẩm ướt chẳng buồn cựa quậy. Mùi gỗ thông thoảng nhẹ vào phòng, và tiếng gào thét thật to của một người phụ nữ vang lên khi y tá giữ chặt cô ta trên giường. Mồ hôi đầm đìa, tuôn xối xả xuống mặt và tay chân cô ta. Nếu tỉnh giấc trong tình cảnh này, cô ta sẽ sợ chết khiếp cho xem. Cô ta rất xinh. Một linh hồn dịu dàng mỏng manh. Không phải kiểu người sẽ cố tình gây ra tình huống thảm khốc này. Trong cuộc sống ngần ấy năm muôn màu muôn vẻ, tôi đã nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cố hết sức để tự mình xoay xở. Họ không hề có ý định tổn hại bất cứ ai. Chẳng qua đó chỉ là hậu quả phụ khủng khiếp của nỗ lực để tồn tại mà thôi. Đó không phải là lỗi của cô ta, tất cả chỉ là một giọt nước tràn ly, một cú đẩy cuối cùng tàn nhẫn, không chút thương xót. Cô ta tạo ra điều cuối cùng mà bản thân mong muốn. Một sinh linh thinh lặng chào đời - bé gái nhỏ xíu có mái tóc vàng nhạt, đẹp như búp bê, nhưng lại xanh xao và im lìm. Người phụ nữ ấy sẽ không thể nào biết được số phận của con mình, hoặc giả nếu như cô ta có biết thì thuốc men cũng sẽ làm cho ký ức ấy nhạt nhòa cho tới hôm sau. Cô ta ngừng quẫy đập và đầu hàng tình trạng nửa tình nửa mê, được ru ngủ nhờ những liều moócphin và thuốc gây mê giúp cô ta đánh bại cơn đau. Cũng như giải thoát cô ta khỏi mọi thứ. Một cuộc trò chuyện đầy cảm thông diễn ra trong lúc các bác sĩ khâu vết thương và y tá dọn dẹp những thứ còn sót lại. "Thật đáng buồn khi chuyện lại xảy ra như thế. Một mạng sống thậm chí còn chưa được một lần hít thở trên cõi đời này." "Đôi khi chúng ta phải tự hỏi... tại sao... khi người ta khao khát một đứa trẻ thì..." Tấm khăn liệm được hạ xuống, che đi đôi mắt nhỏ xíu. Đôi mắt ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy gì. Người phụ nữ kia vẫn nghe được nhưng chẳng thể nắm bắt ý. Mọi âm thanh cứ lọt vào tầm nghe rồi tan biến. Như thể cô ta đang cố bắt lấy đợt thủy triều, nhưng nước lại chảy hết qua kẽ bàn tay nắm chặt, và cuối cùng cô ta đành thả mình trôi theo dòng nước. Một người đàn ông đang đợi gần đó, có lẽ là ở trong hành lang ngay bên ngoài cửa. Trông ông ta oai vệ, cao quý và không quen rơi vào tình huống bất lực như thế. Đáng lý hôm nay sẽ là ngày ông ta trở thành ông ngoại. Cảm giác mong chờ tuyệt diệu đã tiêu tan thành nỗi đau quặn thắt ruột gan. "Thưa ngài, tôi thực sự xin lỗi." Bác sĩ nói ngay khi vừa rời khỏi phòng. "Chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi đã cố gắng hết sức làm dịu cơn đau lâm bồn của con gái ngài và cứu lấy đứa trẻ. Tôi hiểu chuyện này rất khó khăn. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến cha đứa trẻ khi nào ngài liên lạc được với anh ấy ở nước ngoài. Sau khi chịu nhiều nỗi thất vọng, gia đình ngài chắc đã nuôi niềm hy vọng lớn lao như vậy." "Con bé còn khả năng sinh nở nữa chứ?" "Đó là điều không nên đâu." "Đây sẽ là dấu chấm hết cho con bé. Và cả mẹ nó nữa, một khi bà ấy biết được việc này. Ông biết đấy, Christine là đứa con duy nhất của chúng tôi. Một đứa trẻ sắp sửa chào đời... sự khởi đầu của một thế hệ mới..." "Tôi hiểu, thưa ngài." "Con bé sẽ gặp rủi ro gì nếu như..." "Mạo hiểm tới mạng sống. Và rất khó có khả năng là con gái ngài sẽ mang thai lần nữa. Nếu cô ấy cố thử thêm, kết quả có thể..." "Tôi hiểu rồi." Vị bác sĩ đưa một tay lên an ủi người đàn ông đang đau khổ ấy, hay có lẽ điều đó chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Và mắt họ cứ thế giao nhau. Rồi vị bác sĩ ngoái ra sau để đảm bảo là các y tá không thể nghe thấy. "Thưa ngài, tôi có thể đề nghị một chuyện này được chứ?" Ông ta khẽ nói với vẻ nghiêm trang. "Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis..." Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của tác giả Lisa Wingate & Mokona (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon
Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.
Cây Thập Tự Ven Đường - Jeffery Deaver
Những cây thập tự ven đường xuất hiện dọc theo các xa lộ ở Bán đảo Montery, không phải để tưởng niệm những người đã thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông, mà là để thông báo thời gian sắp diễn ra các vụ ám sát. Nạn nhân chính là những người đã đăng bài viết thiếu cẩn trọng hay để lộ quá nhiều thông tin cá nhân trên các trang mạng xã hội.   Đặc vụ Kathryn Dance cùng các đồng sự tại CBI được giao phó tiếp nhận vụ án. Là một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể, cô đã nhanh chóng lần ra các manh mối và phát hiện ra trung tâm của mọi nghi vấn là cậu thiếu niên Travis Brigham. Động cơ giết người của Travis là để trả thù những ai đã từng nhục mạ mình trên mạng. Nhưng sự thật đằng sau lại không hề đơn giản như vậy, khi chính Travis cũng chỉ là nạn nhân trong kế hoạch giết người của hung thủ thật sự...   Tác giả:   Jeffery Deaver sinh ngày 06/05/1950 tại ngoại ô thành phố Chicago, bang Illinois. Ông là một cựu nhà báo, luật sư và ca sĩ hát nhạc dân gian. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã sáng tác hơn 20 cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm của ông được bán tại 150 quốc gia và được dịch ra 25 thứ tiếng khác nhau.   Ông đã giành được:   -          Giải thưởng Steel Dagger thường niên của Hiệp hội các tác giả hình sự Anh cho tiểu thuyết phiêu lưu/ ly kỳ hay nhất trong năm.   -          Giải thưởng Độc giả Ellery Queen.   -          Giải thưởng British Thumping Good Read.   -          Giải thưởng Anthony, giải thưởng văn học cao quý dành cho các tác giả viết truyện trinh thám.   -          Đề cử giải thưởng Edgar của tổ chức Các tác giả viết truyện trinh thám Mỹ.   Các Sách của Jeffery Deaver đã xuất bản tại Việt nam:   - Cây Thập Tự Ven Đường (2014)   - Lá Bài Thứ XII (2013)    - Vũ Điệu Của Thần Chết (2012)   - Kẻ tầm xương (2012)   - Búp Bê Đang Ngủ (2012)    - Dữ Liệu Tử Thần (2012)   - Trăng Lạnh (2012)   - Cái Ghế Trống (2012)    - Nữ Phụ Tá và Bùa Mê Đàn Ông - tải eBook   Mời các bạn đón đọc Cây Thập Tự Ven Đường của tác giả Jeffery Deaver.  
Búp bê đang ngủ - Jeffery Deaver
Tên Ebook: Búp bê đang ngủ (full prc, epub) Tác giả: Jeffery Deaver    Thể Loại: Kinh Dị, Trinh Thám, Tiểu Thuyết   Dịch giả: Phạm Hồng Anh   Nhà xuất bản: Lao Động   Cty phát hành: Bách Việt   Năm xuất bản: 2012   Kích thước: 16x24cm   Số trang: 616   Thực hiện ebook: Hoa Quân Tử   Ebook: www.dtv-ebook.com     Là chuyên gia về ý nghĩa cử chỉ của Cục điều tra bang California, Kathryn Dance được mệnh danh là máy phát hiện nói dối. Nhưng khi phải đối diện với Daniel Pell, kẻ được nhắc đến với cái tên Đứa con của Manson, trong phòng thẩm vấn, cô thấy mình chưa bao giờ gặp một tên giết người kỳ lạ như hắn. Vào năm 1999, Daniel Pell đã giết hại gia đình của nhà sáng chế máy tính giàu có, Wiliam Croyton, tại Carmen, California. Theresa, cô con gái nhỏ của họ là người duy nhất may mắn sống sót. Trong lúc Pell sát hại cha mẹ và hai anh chị của Theresa, cô bé đã ngủ quên trên giường và được đám đồ chơi che khuất. Khi Kathryn Dance thẩm vấn Pell, hắn ta chỉ trả lời những câu hỏi một cách đơn giản và cố tình tránh né. Tuy nhiên,chỉ một khoảnh khắc sau khi quay về nhà giam, tên sát nhân đã giết chết ba nhân viên cảnh sát và đào tẩu. Chuyến tàu chết chóc và trả thù của hắn bắt đầu khởi hành. Để bắt được Pell, Dance đã phải lần theo từng manh mối nhỏ trong cuộc thẩm vấn giữa họ ngày hôm đó. Dance dần khám phá những bí mật sâu kín nhất của tên giết người và Búp bê đang ngủchính là mắt xích quan trọng nhất dẫn cô tới sự thật đằng sau vụ án mạng nhiều năm trước.
Tuyển Tập Dan Brown
AudioBook Pháo Đài Số  AudioBook Thiên Thần và Ác Quỷ AudioBook Điểm Dối Lừa AudioBook Mật mã Da Vinci AudioBook Biểu Tượng Thất Truyền AudioBook Hỏa Ngục Dan Brown  là một nhà văn Mỹ chuyên viết tiểu thuyết hư cấu, nổi tiếng với tác phẩm gây tranh cãi Mật mã Da Vinci xuất bản năm 2003 và gần đây nhất là tác phẩm Địa ngục ( Inferno), lấy bối cảnh thành phố Florence của Ý. Một tháng sau khi phát hành, quyển tiểu thuyết Địa ngục của nhà văn Dan Brown đã bán được chín triệu bản tại 13 nước trên thế giới.   Dan Brown Có thể chắc chắn một điều rằng dù là một fan trung thành hay một độc giả thờ ơ với các tiểu thuyết trinh thám, cái tên Dan Brown ắt hẳn cũng vẫn ít nhiều để lại ấn tượng trong mỗi người đọc. Sở hữu cuốn sách bán chạy nhất nhì làng văn học hiện đại với hơn 80 triệu bản in - hiện tượng của dòng tiểu thuyết trinh thám - lịch sử Mật mã Da Vinci, cùng những tựa sách gây sốt trên toàn thế giới như Thiên thần và Ác quỷ hay mới đây nhất là Biểu tượng thất truyền, nhà văn người Mỹ đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được hàng triệu độc giả yêu thích cũng như hâm mộ.   Các tác phẩm của Dan Brown:  - Digital Fortress, 1998  - Angels and demons, 2000  - The deception point, 2001  - The Da Vinci code, 2003   The Lost Symbol, 2009  - Inferno, 2013    - Origin, 2017 Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt:    - Pháo đài số (Digital Fortress), 1998 - Thiên thần và ác quỷ (Angels and demons), 2000 - Điểm dối lừa (The deception point), 2001 - Mật mã Da Vinci (The Da Vinci code), 2003 - Biểu tượng thất truyền (The Lost Symbol), 2009 - Hỏa Ngục (Inferno), 2013    - Nguồn Cội (Origin), 2018     Ebook Pháo đài số Digital Fortress full prc pdf epub   Ebook Thiên thần và ác quỷ Angels and demons full prc pdf epub   Ebook Điểm dối lừa The deception point full prc pdf epub Ebook Mật mã Da Vinci The Da Vinci code full prc pdf epub Ebook Biểu tượng thất truyền The Lost Symbol full prc pdf epub   Ebook Hỏa Ngục