Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Thất Lạc Tập 5: Những Ngày Cuối của Lorien - Pittacus Lore
Trong cuốn sách này, hãy khám phá việc đã thực sự xảy ra trong những ngày cuối cùng của hành tinh xấu số từ chính đôi mắt của Sandor - người sẽ bất đắc dĩ trở thành Cêpan của Số Chín.      Sandor đã phát chán với việc chỉ là một thiếu niên, mệt mỏi khi cứ phải đến trường và nghe lời giáo viên của mình nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ mình. Cậu ta thích phá luật hơn là làm theo chúng. Nhưng trong một lần phá luật, cuộc đời của Sandor đã rẽ sang một hướng khác, và cậu ta bị buộc phải gia nhập Học viện Phòng thủ Lorien.      Sandor chưa bao giờ tin vào cái ý tưởng điên rồ rằng Lorien phải phòng thủ chính mình - Lorien là một hành tinh hòa bình, với không có một kẻ thù rõ ràng nào cả. Nhưng khi bọn Mogadorian bất ngờ tấn công, Sandor biết được rằng mối nguy hiểm thực sự là gì. Giờ Sandor là một trong một toán nhỏ những người Loric còn sống, và số phận của Lorien nằm trong tay họ. Cuốn sách được dịch bởi Green-Octopus​. *** Sau đây là hệ thống series Lorien Legacies đã xuất bản:  1. I Am Number Four (Tôi Là Số Bốn) 2. The Power of Six (Sức Mạnh Của Sáu) 3. The Rise of Nine (Số Chín Lên Ngôi) 4. The Fall of Five (Sự Sa Ngã Của Năm) 5. The Revenge of Seven (Sự Báo Thù Của Bảy) 6. The Fate Of Ten (Số Phận Của Mười) 7. United as One (Quy Tụ Làm Một) - (Final Book) Ngoài 7 tập truyện chính ra còn có 15 quyển phụ cho chúng ta biết thêm về các nhân vật, sự kiện được gọi là Hồ sơ thất lạc (The lost file). Và 15 quyển đó được gộp lại và chia thành 5 bộ với các tên gọi riêng. 1. Di sản (The Legacies) #1 - Di sản của Số Sáu (Six's Legacy) #2 - Di sản của Số Chín (Nine's Legacy) #3 - Những di sản đã mất (The Fallen Legacies) 2. Những bí mật lịch sử (Secrect Histories) #4 - Hành trình tìm kiếm Sam (The Search For Sam) #5 - Những ngày cuối của Lorien (The Last Days Of Lorien) #6 - Những kẻ bị lãng quên (The Forgotten Ones) 3. Kẻ thù giấu mặt (Hidden Enemy) #7 - Di sản của Số Năm (Five's Legacy) #8 - Trở lại Paradise (Return to Paradise) #9 - Sự phản bội của Số Năm (Five's Betrayal) 4. Đồng minh phe nổi loạn (Rebel Allies) #10 - Kẻ chạy trốn (The Fugitive) #11 - Người điều hướng (The Navigator) #12 - Người bảo vệ (The Guard) 5. Giờ G (Zero Hour) #13 - Các biệt năng tái sinh (Legacies Reborn) #14 - Chốt chặn cuối cùng (Last Defend) #15 - Cuộc săn lùng các Garde (The Hunt For The Garde) Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Thất Lạc Tập 5: Những Ngày Cuối của Lorien của tác giả Pittacus Lore.
Tra Thú Hoàn Lương Ký - Mộc Noãn Chi
Một ngày, mỗ tiên quân nhàm chán nên làm một bài thơ ” tiên gia có thú mới trưởng thành, dưỡng tại tiên phủ ai cũng biết. Trời sinh tính tình khó tiến thủ, một khi hoàn lương tại canh quân, ngoái đầu nhìn lại cười si tình, tam giới thần thú không mặt mũi”. Mỗ thú đang nhai xương gà, kinh sợ hỏi ” đứa nhỏ nhà ai lại làm thơ sứt sẹo như thế?”. Một ngày, tới phiên mỗ thú nhàm chán mà làm thơ ” tiên gia có thú mới trưởng thành, dưỡng tại tiên phủ luyện dạng chân. Thiên sinh lệ chất khó tiến thủ, một khi bị quải tại canh quân. Ngoái đầu nhìn lại cười gà nướng, tam giới thần thú ai dám tranh?”. Mỗ tiên quân cười nhếch mép ” thơ hay, vì tác phẩm xuất sắc này, bản tôn quyết định thưởng cho ngươi mười năm không được ăn gà nướng”. *** Ta gọi là Cốc Nhiễm, thực ra ta vốn họ Phó nhưng lúc ta mới được sinh ra, có vị đạo sĩ thọt chân đi vào nhà ta, nói ta đời này sẽ gặp phải tai kiếp, để tránh kiếp nạn, hắn nói phụ thân ta nên giao ta cho hắn, để hắn mang ta vào núi tu đạo. Ta là con trai độc nhất của Phó gia, tu đạo có khác nào là xuất gia, vậy thì hương hỏa sau này của Phó gia sẽ ra sao? Cha mẹ ta suy nghĩ suốt một đêm, cuối cùng không có nhận lời vị đạo sĩ kia. Vị đạo sĩ thọt chân cứ liên tục thở dài làm phụ thân ta cũng chột dạ, vội hỏi xem có cách nào giúp ta hóa giải tai kiếp không, vị đạo sĩ liền nói ta không nên mang họ Phó nữa, đổi sang tên khác cũng xem như là một cách xuất gia, nói xong liền sai người mang bút mực tới, viết xong hai từ “ Cốc Nhiễm” thì vị đạo sĩ cũng biến mất trước mắt mọi người. Vì thế từ đó ta được gọi là Cốc Nhiễm. Ngay từ đầu, phụ thân rất cẩn thận trông chừng ta, sợ ta xảy ra sơ suất, bắt ta ở nhà đọc sách viết chữ, một bước cũng không ra khỏi nhà. Ta cũng vượt qua hai mươi năm bình an, phụ thân cũng dần dần lơi lỏng cảnh giác, lại thêm ta luôn tìm cách năn nỉ, hắn rốt cuộc cũng gật đầu cho ta rời nhà đi thì, tìm kiếm công danh. Thực ra đi thi là giả, du ngoạn mới là mục đích thật sự. Không ngờ, lần đi xa này mới là bắt đầu cho tai kiếp của cuộc đời ta. Trên đường từ kinh thành về nhà, ta gặp phải mưa to trong rừng, đường sá lầy lội làm xe ngựa của ta không cách nào nhúc nhích, trước không nhà, sau không đường, ta vài tên gia nô đành mạo hiểm tìm gốc cây cổ thụ để làm chỗ tránh mưa. Khi đó ta vẫn cho rằng mấy cái cây to sẽ là chỗ chắn mưa tốt nhất. Mưa vẫn rơi, không khí toàn mùi bùn đất ẩm ướt. Màn đêm buông xuống, mưa càng to hơn, nơi chân trời lóe lên những tia chớp chói mắt, gia nô ôm lại thành một đoàn, cả người run lên vì lạnh và sợ, mà t a lại hưng trí bừng bừng chờ xem giông tố. “Ầm vang ——” mấy tiếng sấm vang lên liên tục, tia chớp lóe lên không ngừng, mắt ta bị nước mưa tạt vào làm hơi rát, ngay lúc ta nhắm lại thì một đạo ánh sáng chói mắt bổ nhào về phía chúng ta đang tránh mưa, gia nô la hét, ta còn chưa kịp phản ứng thì tia chớp đã đánh tới. Trốn không thoát, ta chỉ đành hít sâu một hơi, trong đầu nhớ lại chuyện tai kiếp vị đạo sĩ đã nói trước kia, có lẽ chính là lúc này? ... Mời các bạn đón đọc Tra Thú Hoàn Lương Ký của tác giả Mộc Noãn Chi.
Đêm Khoái Lạc - Sherrilyn Kenyon
Sinh ra trong một gia tộc cực kỳ giàu có, Kyrian của xứ Thrace sở hữu nét quyến rũ mê hồn. Nét đẹp của chàng cũng tựa như thanh gươm trong tay chàng, có sức mạnh hủy diệt tất cả. Chàng cai trị lãnh địa bằng lòng quả cảm, sự táo bạo và lòng nhiệt thành. Không một sức mạnh nào trên đời này có thể thiêu cháy bầu nhiệt huyết đang chảy trong cơ thể tráng kiện đó. Sôi nổi, hoang dã và năng động, chàng luôn lao thẳng vào mọi thử thách. Chàng không hề biết sợ hãi, cũng không biết mệt mỏi. Cả thế giới như một món hàu mà chàng sung sướng được thưởng thức đến miếng cuối cùng. Mang trong người sức mạnh của thần chiến tranh Ares, dáng vóc và gương mặt mê hoặc của Adonis, và sự dâm dục của nữ thần tình yêu Aphrodite, chàng dễ dàng chinh phục bất cứ người phụ nữ nào chỉ từ cái nhìn đầu tiên. Tất cả họ đều muốn chàng là của họ, họ thầm mơ màng được sở hữu người chiến binh dũng mãnh nhất trần đời. Và một khi được chàng chạm đến, cảm giác ngây ngất đó chẳng khác nào thiên đường. Nhưng trái tim chàng lại chưa hề đặt vào bất kỳ người phụ nữ nào. Chàng chỉ là người sống trong cảm xúc nhất thời, những khoái cảm tạm bợ và những dục vọng dâng trào trong thoáng chốc. Chàng yêu thích sự hoan lạc, khát khao được hiến dâng và cũng khát khao ban phát. Cũng có vài người phụ nữ tự hào khẳng định họ đã hoàn toàn chiếm hữu chàng trọn cả một đêm và kiêu ngạo khoe khoang với những kẻ luôn thèm khát được một lần chạm vào cơ thể ấy. Chàng là đam mê. Là ham muốn. Là nhục dục, là cuồng say. Mọi người đều cúi đầu tôn trọng và sợ hãi trước chàng – một chiến binh thiên bẩm. Khi Đế Chế La Mã còn thống trị, chàng đã một mình đơn độc chống lại người La Mã tạo nên một bản trường ca về một vị anh hùng. Chiến thắng đó không chỉ mang về vinh quanh và sự giàu có cho cá nhân chàng mà còn cho cả xứ sở của chàng nữa. Kể từ đó, người ta tôn vinh chàng như Người cai trị thế giới. Nhưng rồi một biến cố xảy ra – sự phản bội đáng kinh tởm đã biến chàng trở thành Bạo Chúa của đêm đen. Giữa lằn ranh của Nhân gian và Địa ngục, chàng không phải một con người, cũng không hẳn là dã thú. Như một linh hồn, chàng không thuộc về bất cứ một thế giới nào. Chàng là Cô Độc. Chàng là Tăm Tối. Chàng chỉ là một ảo ảnh trong đêm. Một linh hồn lẻ loi không mệt mỏi. Định mệnh của chàng chính là bảo vệ cho những kẻ căm ghét và sợ hãi những thứ như chàng. Chàng không bao giờ có được sự an nghỉ vĩnh cửu hay giấc ngủ vĩnh hằng trừ khi chàng có thể gặp được một người phụ nữ, một người phụ nữ không bao giờ phản bội chàng. Một người phụ nữ với trái tim thánh thiện, người có thể nhìn thấu bóng đêm đeo đẳng định mệnh chàng và đưa chàng trở về với ánh sáng. *** Các bạn có bao giờ muốn biết cuộc sống bất tử là sao không? Thế nào là những chuyến hành trình trong đêm săn đuổi ma cà rồng làm hại con người? Thế nào là giàu có kếch sù, sức mạnh vô hạn? Cuộc sống của tôi là thế đấy, u ám và đầy rẫy nguy hiểm. Tôi đóng vai người hùng với hàng vạn người, nhưng lại chẳng người nào biết tôi là ai. Và tôi yêu cuộc sống như thế đến từng khoảnh khắc. Có lẽ tôi sẽ chẳng thay đổi cách nghĩ kia cho đến một đêm nọ, khi tôi thức giấc trong tình trạng bị còng tay với cơn ác mộng tồi tệ nhất: một người phụ nữ bảo thủ trên người vận áo sơ mi. Hoặc nếu nói như Amanda thì là mọi cái cúc trên chiếc sơ mi đều kín bưng đến tận cằm. Cô ấy thông minh, quyến rũ, hóm hỉnh và chẳng hề muốn dính líu đến những chuyện tâm linh huyền bí – nói cách khác, đó chính là tôi. Sự say mê tôi dành cho Amanda Deveraux đi ngược lại với mọi quan điểm mà tôi luôn ủng hộ: Ấy là chưa đề cập đến lần cuối cùng tôi rơi vào lưới tình mà cái giá phải trả không những là sinh mệnh, mà còn là cả tâm hồn của tôi. Chưa kể mỗi lần nhìn cô ấy, bản thân tôi lại muốn nỗ lực một lần nữa. Muốn tin vào tình yêu đó và sự thủy chung thực sự tồn tại trên đời. Thậm chí, phiền phức hơn, tôi nhận ra mình đang băn khoăn tự hỏi, liệu có cách nào để người phụ nữ như Amanda có thể yêu một người đàn ông mà những vết sẹo trong những lần đánh nhau đã hằn sâu trên cơ thể, mặt khác, trái tim người đó cũng đã tan nát vì bị phản bội đến nỗi, chính anh ta cũng không dám chắc liệu nó có bao giờ rung động nữa hay không. *** Là tác giả có sách bán chạy nhất trên bảng xếp hạng của tờ New York Times, Sherrilyn Kenyon rất tự hảo với nguồn gốc Cherokee (người bản địa châu Mỹ) pha trộn của mình và cuộc sống với những cuộc phiêu lưu đầy cảm hứng. Hiện bà sống cùng chồng và ba con trai, một đàn thú cưng và một bộ sưu tập kiếm. Trong những lúc rảnh rỗi, bà thường ngồi lì trước máy tính để chơi cùng những người bạn tưởng tượng của mình. Với hơn ba mươi triệu bản sách in đã bán tại hơn một trăm quốc gia, Sherrilyn chắc chắn có rất nhiều bạn bè khắp năm châu. Sách của bà thường chiếm vị trí số một các bảng xếp hạng. Tác giả đặc biệt ăn khách này tiếp tục thống trị các thể loại tiểu thuyết. Hiện tại bà đang theo đuổi các sê-ri: Thợ săn đêm, The League, Chronicles of Nick và Beladors. Từ năm 2004, bà đã đưa hơn 80 đầu tiểu thuyết lên vị trí top ten của tờ New York Times ở mọi thể loại, bao gồm cả truyện tranh. “Ngòi bút của Kenyon đầy sức sống, giàu sức châm biếm, gợi tả và khơi lên trí tưởng tượng đến bất tận.” - Trích tờ Boston Globe Trọn bộ series Thợ săn đêm (Dark Hunter): -  Đêm khoái lạc (Night Pleasures) -  Gặp lại kiếp này (Night Embrace) -  Điệu múa với tử thần (Dance with the Devil) -  Kiss of the night -  Night Play  *** Kyrian ngạc nhiên nhìn dải băng cưới quấn trên tay trái. Anh vẫn không sao tin được mình lại may mắn có được Amanda trong cuộc đời này. Bảy tháng trôi qua kể từ khi Amanda mang anh trở lại với ánh sáng. Bảy tháng tuyệt vời được ở cạnh cô ngày cũng như đêm. Cùng cô chấp nhận, phát triển và khai thác sức mạnh của mình, và giờ thì cô đã mạnh hơn anh rất nhiều. Nhưng với anh chuyện đó không quan trọng. Năng lực Kẻ Săn Đêm còn lại trong người vẫn đủ để anh đảm bảo an toàn cho cô. Và an toàn của cô mới là điều quan trọng nhất. Điều đó và việc mỗi sáng được nhìn thấy nụ cười trên gương mặt xinh đẹp của cô. Và giờ thì họ chính thức kết hôn. Amanda ôm anh từ phía sau, nép sát vào người anh. “Sao lại ra đây đứng một mình ?” cô hỏi. Anh quay người, nhìn cô trong bộ áo cưới. Áo cưới trắng sữa càng tôn thêm làn da hoàn hảo của cô. Má cô ửng hồng vì phấn khích, ánh trăng như đang tỏa ra trong đôi mắt cô. “Anh chỉ muốn hít thở không khí chút thôi.” Cô mỉm cười, nụ cười đó cùng lúc vừa khiến anh trở nên mềm yếu, vừa khiến anh trở nên mạnh mẽ. “Anh có muốn trốn khỏi bữa tiệc này không ?” Anh bật cười. “Trong đám đông khổng lồ đó chỉ có tám người là bạn anh thôi, còn lại đều là bạn em cả đấy.” “Oh,” cô nhăn mũi nói. “Cũng không sao cả. Mọi chuyện còn có thể tệ hơn nữa mà. Với lại, dì Xenobia của em có thể đã nguyền rủa chúng ta rồi.” Anh khoác tay lên vai cô, khi cô kéo anh quay lại phòng khiêu vũ trong nhà. Dàn nhạc vẫn đang chơi trong khi một trăm năm mươi thành viên của gia tộc Devereaux-Flora vừa nhảy múa, vừa ăn uống vừa huyên thuyên trò chuyện. Miguel, Rosa và Liza đang ngồi với bà chị gái Selean của Amanda, cười đùa về chuyện của Grace và cậu con trai mới sinh. Amanda dẫn anh đến gặp cha mẹ cô, Talon, Nick, Julian và Acheron đi xung quanh anh. Julian chúc mừng anh. “Cô ấy đúng là một quản gia.” Kyrian gật đầu. “Đúng thế đấy.” “Ôi trời,” Talon buồn bã nói. “Tôi sắp sửa nhớ đến những lúc cậu đe dọa, rồi làm phiền tôi vì những trò dớ dẩn. Wulf thì sắp nổi loạn tới nơi vì cậu ấy mất đi một đối thủ truyền kiếp.” Kyrian mỉm cười nhớ lại những tối chuyện trò với các anh em Dark Hunter trên mạng. “Nói Viking không cần lo đâu. Bất thình lình tôi sẽ xuất hiện hù anh ta một trận, và thách đấu với anh ta đó.” Acheron uống một ngụm champaign. “Vậy cậu định làm gì trong phần đời ngắn ngủi còn lại ?” Kyrian nhìn Amanda bế nhóc Niklos ba tuổi và khiêu vũ với thằng bé. Một ngày nào đó, cô cũng sẽ là một bà mẹ tuyệt vời. “Em sẽ sống một cuộc sống thật hạnh phúc.” Nick cho tay vào túi quần. “Vậy là tôi phải tìm một Kẻ Săn Đêm khác để phục vụ rồi…” Cái nhìn của anh chuyển sang Talon đầy ngụ ý. “Quỷ tha ma bắt, đi làm mồi cho cá sấu đi, nhưng đừng có nhìn tôi bằng cái kiểu như thế. Tôi không có đủ kiên nhẫn như Kyrian đâu. Với lại, cabin chỉ đủ chỗ cho tôi và máy vi tính thôi.” ... Mời các bạn đón đọc Đêm Khoái Lạc của tác giả Sherrilyn Kenyon.
Thư Viện Linh Hồn - Ransom Riggs
Từ London đến tận Đồng Ma, khu ổ chuột rùng rợn nhất nước Anh thời Victoria, Jacob cùng đám trẻ băng qua các Vòng Thời Gian khác nhau để tiến tới trận chiến sử thi chống lại xác sống và đội quân hồn rỗng quái dị. Trên đường đi, họ gặp người đàn ông thân phận bí ẩn tên Bentham, thông tin từ ông ta giúp họ vỡ lẽ vì sao Jacob bị đám quái vật săn lùng và thèm khát đến vậy, đồng thời họ nhận ra mối hiểm nguy lớn hơn bao giờ hết họ đang đối mặt… Thư viện Linh Hồn - tập ba đồng thời là tập cuối trong series Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine vẫn đầy rẫy những bức ảnh đen trắng kỳ lạ được thu thập khắp mọi nơi nhưng trông như thể được tạo ra chỉ để minh họa cho câu chuyện, tạo nên một làn sóng ngầm có vai trò quan trọng trong dòng chảy chung của truyện. Các biến cố từ đầu đến cuối đều bí ẩn và gây sửng sốt, không phụ lòng kỳ vọng của độc giả hâm mộ. Phim điện ảnh Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine của đạo diễn lừng danh Tim Burton đã được công chiếu vào​​ cuối năm 2016. "Người hâm mộ sẽ dễ dàng đánh mất mình trong câu chuyện kỳ quái này." - Booklist *** Bộ sách Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine gồm có: Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine Thành Phố Hồn Rỗng Thư Viện Linh Hồn *** RANSOM RIGGS là một nhà văn và nhà làm phim, sinh ra ở Maryland và lớn lên ở Florida, Mỹ. Anh học chuyên ngành Văn học Anh tại Cao đẳng Kenyon, và học làm phim tại Đại học Nam California. Riggs đam mê những bức ảnh hoài cổ, và một ngày nọ anh nảy ra ý định viết một câu chuyện xâu chuỗi những nhân vật, tình tiết trong những bức ảnh này lại. Bộ tiểu thuyết Miss Peregrine's home for peculiar children (Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine) chính là thành quả của sự lồng ghép sáng tạo ấy, tiểu thuyết đã đem lại thành công và danh tiếng không ngờ, đưa anh trở thành tác giả sách bán chạy nhất của The New York Times. Phim điện ảnh chuyển thể từ Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine ra mắt vào năm 2016. *** Con quái vật đứng cách xa một đoạn còn chưa tới chiều dài của một chiếc lưỡi, mắt nhìn chằm chằm vào cổ họng chúng tôi, bộ óc teo tóp đầy phự những mường tượng được giết chóc. Không khí nồng nặc sự thèm thuồng của nó với chúng tôi. Hồn rỗng được sinh ra với nỗi thèm khát săn lùng linh hồn của những người đặc biệt, và lúc này đây chúng tôi đang dàn hàng trước mặt nó như một bàn bày các món buffet. Addison chỉ vừa một miếng đớp của nó, can đảm đứng kiên cường dưới chân tôi, đuôi dựng lên cảnh giác; Emma lép vào tôi lấy điểm tựa, vẫn còn choáng váng sau cú va đập nên chẳng thể tạo ra thứ gì đó khá hơn đám lửa que diêm vào buồng điện thoại vỡ tan tành. Cách một đoạn từ nơi xảy ra tình cảnh nghiệt ngã của chúng tôi, ga tàu điện ngầm trông như hiện trường của một vụ đánh bom hộp đêm. Hơi nước từ các đường ống bị vỡ xì ra thành những tấm màn ma quái. Những màn hình cỡ treo lơ lửng rũ xuống từ trên trần. Một biển kính vỡ lan tới tận chỗ đường tàu, chập chờn phản chiếu ánh sáng dưới ánh đỏ nhấp nháy của những bóng đèn báo hiệu khẩn cấp chẳng khác gì một quả cầu kính phản chiếu ánh sáng tại các vũ trường với kích thước rộng đến hàng mẫu Anh. Chúng tôi đã bị dồn vào góc chất, một bên là bức tường chắc chắn, một bên là lớp kính dày cộp kề sát miệng một con vật có bản năng tự nhiên duy nhất là xé chúng tôi ra từng mảnh - ấy thế nhưng nó lại không động đậy gì để siết chặt gọng kìm. Con quái vật có vẻ bị bám rễ xuống sàn, nó lắc lư trên hai chân như đang say hoặc đang mộng du, cái đầu chết chóc rũ xuống, những cái lưỡi của nó như một ổ rắn đã bị tôi thôi miên làm cho ngủ thiếp đi. Chính tôi. Tôi đã làm điều đó - Jacob Potman, một thằng bé vô danh tiểu tốt tới từ một nơi chẳng có chút liên quan nào, Florida. Hiện giờ thì con quái vật không định giết chúng tôi - con vật kinh tởm được gom góp từ bóng tối và ác mộng của những đứa trẻ đang ngủ - vì tôi đã yêu cầu nó không làm thế. Yêu cầu nó bằng những lời không chút chắc chắn, bảo nó gỡ những cái lưỡi đang quấn quanh cổ tôi ra. Lùi lại. Tôi nói thế. "Đứng im. Tôi đã nói thế - bằng thứ ngôn ngữ cấu thành từ những âm tiết tôi biết rằng chưa cái miệng người nào phát ra - và kỳ diệu làm sao nó lại làm theo, đôi mắt vẫn thách thức tôi trong khi cơ thể nó tuân lệnh. Bằng cách nào đó tôi đã thuần phục được cơn ác mộng, đã ếm được bùa chú lên nó. Nhưng những sinh vật đang ngủ rồi sẽ tỉnh dậy và bùa chú rồi sẽ hết tác dụng, nhất là khi bùa chú được ếm một cách vô tình, và bên dưới cái vẻ ngoài điềm tĩnh tôi có thể cảm thấy nó đang lồng lên sôi sục. Addison hích mũi vào cẳng chân tôi. "Nhiều xác sống nữa sẽ tới. Con quái vật này sẽ để chúng ta đi chứ?" "Nói với nó lần nữa đi." Emma nói, giọng cô thều thào mê mụ. "Bảo nó đi đi." Tôi tìm kiếm những từ cần thiết nhưng chúng chẳng chịu ló ra. "Tớ không biết nói thế nào." "Một phút trước cậu còn làm được kia mà." Addison nói. "Nghe cứ như có một con quỷ bên trong cậu vậy." Một phút trước, khi tôi còn chưa biết mình có thể làm được, những từ ngữ ấy đã hiện diện ngay trên đầu lưỡi tôi, chỉ chực chờ để nói được ra. Giờ đây, khi tôi muốn chúng quay trở lại, tình thế lại chẳng khác gì muốn bắt cá bằng tay không. Mỗi khi tôi chộp được một từ, nó lại tuột khỏi nắm tay tôi. ... Mời các bạn đón đọc Thư Viện Linh Hồn của tác giả Ransom Riggs.