Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thắm Sắc Hoa Đào - Vương An Ức

Vương An Ức chọn cách miêu tả hình tượng người phụ nữ như biểu hiện tràn đầy sung mãn của đời sống bình thường, niềm hạnh phúc sâu xa của tồn tại cá nhân. Trở lại với cuốn tiểu thuyết mới - Thắm sắc hoa đào - sau thành công vang dội của Trường hận ca, Vương An Ức một lần nữa khẳng định bút lực vượt trội của mình so với các nhà văn Trung Quốc đương thời, bằng một ngôn ngữ kể chuyện hiện đại, đa chiều, và quan niệm nhân sinh phóng túng, xa rời những thứ luận lý sẵn có. Không còn bận tâm đến những thua thiệt, bất hạnh mà người phụ nữ trong một xã hội hậu Nho giáo phải gánh chịu, như các đồng nghiệp của mình: Tô Đồng, Dư Hoa, Giả Bình Ao…, Vương An Ức chọn cách miêu tả hình tượng người phụ nữ như biểu hiện tràn đầy sung mãn của đời sống bình thường, niềm hạnh phúc sâu xa của tồn tại cá nhân. Câu chuyện xoay quanh những biến cố đời sống của hai mẹ con: Minh Minh (vốn là một diễn viên hài kịch) - Úc Hiểu Thu và những người thân quen khác: Úc Tử Hàm, chồng cũ của Minh Minh; anh chị cùng mẹ khác cha của Hiểu Thu; Dân Vỹ, bạn học của Hiểu Thu, cũng là người yêu đầu đời; Dân Hoa, người chị gái đầy lòng đố kỵ và thành kiến của Dân Vỹ; anh rể của Hiểu Thu, người sau này sẽ mang lại những bất ngờ… Bằng cách đó, người phụ nữ trong Thắm sắc hoa đào vượt khỏi mọi thành kiến, đố kỵ, ngộ nhận của đám đông xung quanh, thỏa mãn cá tính độc lập và độc đáo của bản thân, cũng như mang lại điều tốt lành từ nội tâm mình tới cho đời sống. Cũng bằng cách như vậy, người phụ nữ-bình-thường nhưng mang đầy nét khác lạ mãnh liệt của cá nhân, đã bình thản vượt qua những oan khốc nặng nề, những gian lao và nguy biến tưởng chừng không thể vượt, của một thời đại lầm lạc, một dân tộc đau thương. Để chỉ còn lại những niềm vui bình dị, những cảm xúc từ nhiều phía, niềm kinh ngạc về một cuộc sống đời thường ẩn chứa xiết bao bất ngờ, khác biệt, không ai có thể dự đoán nổi, mà nhà văn đang mở ra trước mắt chúng ta. *** Vương An Ức sinh năm 1954 tại Nam Kinh, là con gái của nữ nhà văn nổi tiếng Như Chí Quyên. Bắt đầu sáng tác vào năm 1976, sự nghiệp cầm bút của bà rất đáng chú ý với nhiều giải thưởng uy tín: năm 1999, Trường hận ca được tạp chí Asian bình chọn là một trong 100 tiểu thuyết Trung Văn thế kỷ 20, tác giả giải thưởng văn học Mao Thuẫn lần thứ 5 năm 2000, nhà văn xuất sắc trong năm giải Truyền thông Văn học Hoa ngữ 2008. *** Về xuất thân của Minh Minh, trong cái ngõ này mỗi người nói một cách khác nhau. Mẹ của Minh Minh là diễn viên hài kịch - ai cũng nói như thế, nhưng không biết rằng, từ trước đấy rất lâu bà là diễn viên kịch hiện đại - năm mười ba tuổi theo một ông chú họ làm chân hát đế, sắm vai trẻ con trong một ban kịch diễn ở Đại Thế Giới. Minh Minh có khuôn mặt xinh xắn, cặp lông mày thanh tú, mắt rất đẹp, đuôi mắt dài hơi vểnh lên. Nhưng không phải là mắt xếch, mà như ta vẫn nói, mắt phượng, lúc cười cặp mắt cong xuống rồi lại uốn lên. Làn môi mỏng, môi trên hơi cong. Thời ấy, người đẹp Chu Tuyền mới xuất hiện, ai cũng gọi Minh Minh là Chu Tuyền. Vì giống người đẹp Chu Tuyền, lại biết hát, nhưng giọng không thanh, không sang như Chu Tuyền, mà hơi the thé, trong ban kịch ai cũng bảo nàng có cái họng “vòi nước”, đanh đá, không phù hợp với vẻ mặt. Điều đáng quý là, Minh Minh biết hát các điệu dân ca các miền, biết nói tiếng các vùng. Hát Thân Khúc, Than Hoàng, Trích Đốc, Nhiệt Hôn, Bình Đàn, Hoài Dương, giọng ông già trong Kinh kịch; biết nói tiếng Tô Châu, Vô Tích, Hàng Châu, Ninh Ba, Thiệu Hưng, Thượng Hải, Sơn Đông, Quảng Đông... Cái giọng the thé, lúc lên cao vút, lúc xuống thật thấp, mới nghe phải giật mình, nghe nhiều cảm thấy hay, không mệt. Hơn nữa khẩu hình đẹp, nhả chữ rõ, người xem rất thích. Năm mười lăm tuổi, nghe nói có một trường kịch chiêu sinh, cô rủ mấy bạn cùng lớp đi thi. Ở cái tuổi ấy, bất cứ lúc nào, đi đến đâu cũng đều chú ý cơ hội, không bằng lòng với hiện trạng. Như Minh Minh, cũng đã từng gặp may, tự giác quen với nghề son phấn, cần thử cứ thử một phen. Hồi ấy, đang phổ biến phong cách học sinh, cô cắt tóc ngắn, đuôi tóc uốn cuộn vào trong. Đeo cái kính gọng đen, mặc váy liền áo kiểu phương Tây, lụa xanh màu táo, tay bồng, thêu hoa, đi giày da đen mõm vuông, cài khoá ngang, giống như cô tiên Bồ Đào học sinh vẫn diễn trên sân khấu. Cổ tay quàng cái ví hạt cườm màu trắng, trong để khăn tay, phấn son, cây bút máy, một con dấu xương khắc tên, thêm một bao thuốc lá. Tất cả những thứ đó cũng không làm cô già đi, mà trông rất nhí nhảnh ngây thơ. Vốn người nhỏ nhắn, ngồi với đám học sinh mười hai, mười ba tuổi cùng dự thi trông cô cũng không lớn hơn mấy. Trong số các thầy giám khảo có một người mặc đồ Tây màu kem, giày da bóng loáng, nhưng tay cầm ống điếu thuốc lào rất quê, trông như cái tẩu hút thuốc phiện, rít thuốc kêu lọc xọc, đi dọc theo đám học sinh đang ngồi thành hàng ngang. Khi đến trước mặt cô, người này hỏi bằng cái giọng Tô Châu: cô tên cái chi? Cô trả lời cũng bằng tiếng Tô Châu: con chó con mèo cũng có tên, sao hỏi tên cái chi là mần răng? Vị giám khảo nhìn cô, nhìn một lúc rồi bỏ đi chỗ khác. Vì trường kịch thực chất là trường dạy Kinh kịch, chiêu sinh Kinh kịch, cho nên cô không đỗ, nhưng vị giám khảo hỏi “tên cái chi” làm quen với cô từ đấy. Không ngờ họ lại gặp nhau, lần ấy, hai người gặp nhau đúng với nghĩa ân nhân cứu mạng. Một dạo mọi người gọi cô là Chu Tuyền, sau lại gọi cô là Bạch Quang, rồi Điền Lệ Lệ. Cô bắt chước ai cũng giống, nhưng rốt cuộc chỉ là theo đuôi người ta, nhìn cho vui mắt. Trông cô rất non nớt, mười bảy mười tám tuổi vẫn có thể sắm vai trẻ con, nhưng đã có phần miễn cưỡng. Cô cũng muốn đổi nghề, tìm được sư phụ mới, tự đặt cho mình một cái tên, tên gọi Tiếu Minh Minh. “Tiếu” gần với âm “tiểu”, lại có ý nghĩa vui vẻ, còn là danh nghĩa chính truyền, vì trong đó có cả chữ tên của sư phụ. Cô ra khỏi đoàn kịch hiện đại đi diễn kịch độc diễn. Thời ấy kịch độc diễn đang thịnh hành, kịch hiện đại càng ngày càng mờ nhạt. Trong ban kịch độc diễn, cô vẫn là diễn viên mặc áo rồng, nhưng không được nổi như trước. Kịch độc diễn “cười” sang trọng, cô còn trẻ đẹp, trong thâm tâm không muốn đem mình ra làm trò cười, không thể hy sinh bản thân để “cười”. Tuy có tên, nhưng không nổi danh, tất nhiên cũng cảm thấy buồn. Còn may đang thời tuổi trẻ, có nhan sắc, lại thêm chút tiếng tăm trong quá khứ, nên cũng nổi trội trong con mắt người đời, có thể cân bằng được mất. Có một khán giả quen thuộc rất chung tình kể từ ngày Minh Minh vào nghề, tưởng chừng chờ cô lớn lên, chờ cho cô gặp điều không may, lúc ấy mới xuất hiện. Đương nhiên Minh Minh không nghĩ đấy là chuyện nghiêm túc, không phải vì không ưng anh ta, mà vì không thể dễ dãi quyết định chuyện lớn trong đời. Tương lai của nữ diễn viên vừa mờ mịt lại vừa có chút hy vọng, tóm lại chưa biết ra sao, không hiểu phía trước là những gì đang chờ đón. Tuy vậy, mỗi tối tan diễn đều có người gọi xe kéo chờ sẵn ở cửa sau nhà hát, mời đi ăn đêm, chủ nhật đưa đi mua vải may xường xám, trả hộ mấy khoản nợ nần, cùng đi xem phim, ăn kem, nghe cô nói xấu vai nữ chính, tóm lại toàn những chuyện có thể diện. Cho nên, hai người cũng tốt với nhau một độ. Trong mênh mông biển người, hiếm được người nhắm vào mình, trung thành với mình, khó mà nói không sinh lòng yêu thương. Nhưng nhiều lắm chỉ là ôm nhau, không làm điều gì quá. Thực ra, nữ diễn viên không phải ai cũng nhẹ dạ như mọi người vẫn tưởng, ngược lại, họ giữ mình như giữ ngọc. Ở chốn nam nữ lẫn lộn, lại quen với trăng gió yêu đương từ lời kịch, chuyện đó chẳng có gì là lạ, nhưng ai cũng hiểu số phận nằm ở chính bản thân, không thể sa sẩy, khinh suất, vậy nên rất mực gìn giữ. Vị khán giả được hưởng tài sản của ông cha - phàm tài sản ông cha đến đất Thượng Hải là cứ co dần, càng co càng ít đi, lớp con cháu hậu thế không có bản lĩnh chăm lo gia sản, lúc nào cũng túng tiền - rất tận tâm tận lực đánh đổi tấm lòng chân thành của một nữ minh tinh. Cả hai đều là người bình thường, đều phải tuân theo nhân tình thế thái, không có tham vọng gì lớn, cùng cảm thấy được như thế là tốt lắm rồi. Cho nên, đó là giai đoạn lãng mạn yên bình, cảm thông và chăm sóc cho nhau. Giai đoạn lãng mạn này kết thúc vào lúc Minh Minh đi Hồng Công. Công ty điện ảnh Vĩnh Hoa của Hồng Công đến Thượng Hải tuyển diễn viên, mấy chị em trong đoàn kịch cùng đi dự thi. Nơi tuyển sinh đặt tại một nhà xe ô tô trong con hẻm đường Trường Đua. Nhà xe một nửa thấp dưới mặt đường, một nửa ngang với mặt đường, cửa sổ có song sắt tựa như nắp đậy cống ngầm. Ngồi trong đấy nhìn qua cửa sổ chỉ thấy chân người đi lại làm ánh sáng loang loáng, mặt người bên trong loang lổ. Ba vị người Hồng Công, chen lẫn giữa đám trai tài gái sắc đang ngồi chật căn phòng, không nhìn rõ mặt. Người đông, cũng không kịp nói chuyện, chỉ trao một tấm ảnh, đi qua trước mặt người Hồng Công như lướt qua sân khấu rồi ra ngoài. Ra ngoài, đứng dưới nắng thu bốn giờ chiều, trên tường in bóng gầy guộc mờ nhạt, tưởng như trở về cõi nhân gian. Vòng hai ít người hơn, người đến đều nhận được giấy báo, nữ nhiều nam ít, ngồi thành vòng tròn trong nhà. Đạo diễn, một trong số mấy người Hồng Công, bảo mọi người chơi trò trẻ con, ném khăn tay. Hát xong một bài hát, khăn tay trong tay ai, người ấy phải đứng dậy trình bày một tiểu phẩm. Lúc bắt đầu, đôi bên còn thiếu tự nhiên, vào cuộc thì thoải mái hẳn. Có người giả tiếng mèo kêu, có người bắt chước chó nhảy, cũng có người làm trò ảo thuật, diễn tạp kỹ. Minh Minh nhận ra một nữ diễn viên của một công ty điện ảnh, từng sắm vài vai phụ. Còn một đôi trai gái là học sinh trường kịch công lập, đang lúc chiến tranh, nghe nói nhà trường sắp đóng cửa. Vào cái thời loạn lạc, thanh niên không biết đi đâu, làm gì, dù là sinh kế hay sự nghiệp thảy đều mờ mịt. Chiếc khăn đến tay Minh Minh, cô lập tức đứng dậy biểu diễn màn kịch vui nổi tiếng “Đánh mạt chược”, một người cùng lúc đóng bốn vai Thiệu Hưng, Ninh Ba, Giang Bắc, Tô Châu, vô cùng sinh động và vui nhộn. Hai trong số ba người Hồng Công kia vốn là người vùng Giang Tô-Triết Giang, cho nên nghe hiểu, còn một người tuy nghe không hiểu, nhưng trông cách diễn vui vẻ hoạt bát, rất hứng thú, nên cũng tâm phục khẩu phục. Thế là, Minh Minh may mắn trở thành một trong bốn nữ một nam thi được vào công ty điện ảnh Vĩnh Hoa, chỉ ít ngày sau thì lên đường đi Hồng Công. Thời ấy, Hồng Công trong con mắt người Thượng Hải là một vùng hoang vu, lạc hậu. Những người như Minh Minh, chỉ loanh quanh nơi bến tàu Thượng Hải, cho rằng ngoài Thượng Hải ra còn nữa đều là nông thôn, nghĩ Hồng Công vô cùng quê mùa. Cho nên, cô chuẩn bị hai va li to áo quần, vì phải chờ may xong mấy chiếc xường xám, đành đi chuyến tàu sau, trơ trọi một mình. Nhưng vì cô đi làm sớm, từng tiếp xúc với đủ người đủ việc, không còn lạ lẫm gì, nên cứ thản nhiên lên đường. Một cô gái trẻ xinh đẹp ra đường tự khắc có người ân cần giúp đỡ, cô lên khoang hạng ba, cơ hồ không phải đụng tay vào hai cái va li to. Có hai sinh viên đi Hồng Công để rồi tới Hawai học tập, một thương nhân, thậm chí cả một người Bồ Đào Nha da trắng thay phiên nhau ăn cơm, nói chuyện, ngắm mặt biển, xem phim trên tàu cùng cô. Một tuần trên đường không những không cô đơn mà còn rất vui. Có điều, càng đến gần Hồng Công không khí càng nóng ẩm, toàn thân nhớp nháp tưởng như trong nhà tắm, rất khó chịu. Lên bến, hai cái va li to cho vào cốp taxi, cô nhanh nhẹn ngồi vào ghế sau, vẫy tay chào tạm biệt những người bạn đường. Một người bạn đường đóng cửa xe, làm xong nghĩa vụ cuối cùng. Xe đi vào phố phường Hồng Công. Dù là thời chiến, Hồng Công về đêm vẫn rất đẹp. Đường phố lên xuống quanh co theo triền núi, nhà cửa lúc ẩn lúc hiện, đèn lúc sáng lúc tối, đẹp một cách kỳ ảo. Quen dần với ánh sáng và cảnh vật xung quanh, phố xá hai bên hiện rõ và cụ thể hơn, trông cũng rêu phong cũ kỹ, nhà gác làm nhô ra lối đi giống như đường Tứ Mã của Thượng Hải, phía dưới tối tăm, bốc mùi tanh tưởi của cá và các thứ khác. Theo ý khách, xe dừng lại trước một tòa chung cư. Minh Minh xuống xe, lấy hành lý, lúc này chỉ còn lại một mình. Cô không sợ, mỗi tay xách một va li, bước vào chung cư. Bất kỳ ai nếu trông thấy một cô gái đi giày cao gót, ăn mặc mốt như vậy, mà hai tay rất nhẹ nhàng xách đống hành lý nặng, ắt đều phải giật mình. Cô bước vào sảnh, một bác già ngăn lại. Bác già mặc áo đồng phục ngắn tay màu ghi nhạt, quần cộc, chân đi guốc mộc gõ lộc cộc trên nền gạch, hỏi cô tìm ai ở phòng nào. Minh Minh nghe hiểu một ít tiếng Quảng Đông, thậm chí ứng phó được đôi câu, bảo với bác già tìm công ty nào, ở phòng nào, tầng nào. Sau đấy thì nghe không hiểu nữa, phải đợi hỏi lại mấy lần, bác già còn giải thích thêm mấy lần nữa, đầu óc Minh Minh ù lên, không hiểu gì. Một tuần trên biển không say sóng, vậy mà lúc này không chịu nổi. Cô đặt va li xuống, ngồi lên đấy định thần lại. Bác già đi vào rồi quay ra, tay cầm hộp dầu Vạn Kim đưa cho Minh Minh. Cô gạt đi, chỉ xin ông một ly nước. Nước đưa ra, cô ngửa cổ uống cạn, rồi hỏi gần đây có khách sạn nào không. Bác già chỉ chỗ, cô đứng dậy, xách hành lý, gót giày nhọn gõ lên nền gạch, chỉ giây lát đã không thấy đâu. ... Mời các bạn đón đọc Thắm Sắc Hoa Đào của tác giả Vương An Ức.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai Số Phận
Hai số phận (tên gốc tiếng Anh làKane and Abel) là cuốn tiểu thuyết được ông viết dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Truyện kể về hai người đàn ông với xuất thân địa vị xã hội và hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau nhưng có chung một đức tính là luôn chiến đấu hết mình để chinh phục những điều mà mình đã đặt ra. Họ là những người có hoài bão, lý tưởng sống và trên hết họ có một tâm hồn cao quý. William Lowell Kane là một người mạnh mẽ và giàu có trong khi đó Abel Rosnovski là một người gốc Ba Lan phải đấu tranh từ lúc sinh ra và lớn lên cùng với những người nghèo khổ, cuối cùng di cư đến Hoa Kỳ…. William tiếp nối sự nghiệp của cha mình là Richard Kane, để trở thành một chủ ngân hàng thành công. Trong khi William vẫn còn là một đứa trẻ, cha của anh đã chết trong thảm họa tàu Titanic. Người cha mất đi đã biến anh trở thành người thừa kế của ngân hàng Kane and Cabot. William đã thể hiện là một con người có tính kỷ luật và thông minh như những học sinh khác của trường St. Paul's School và sau đó là ở Harvard… Hai số phận là câu chuyện cuộc đời của hai con người đã bằng những tài năng của mình làm giàu cho quê hương. Con mắt tinh đời với những phán đoán sắc sảo về lĩnh vực kinh tế trên hết họ đặt nguyên tắc kinh doanh lên hàng đầu để vượt lên bằng chính khả năng của bản thân. *** Nói về “Hai số phận” thì rất lâu rồi từ sau khi đọc “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mới lại có một cuốn sách cuốn hút mình theo kiều như vậy. Nếu nói chính xác là kiểu cuốn hút gì thì thật sự mình không gọi được tên ^^ nhưng nó khác với cái cuốn hút khi mình đọc một cuốn trinh thám kiểu Higashino Keigo, hay kiểu lưu lạc không nhà như “Không gia đình” hoặc kiểu đọc gấp rút ko dừng được khi lật những trang đầu của “Triệu phú khu ổ chuột”, cứ sợ đọc chậm lại là ko theo kịp nhịp độ cuộc đời nhân vật. Chắc là do cách viết của tác giả, kể chuyện khéo léo và xây dưng nhân vật chỉn chu một cách bất ngờ. Lời nhận xét ở bìa sau của tác phẩm quả không sai ^^ : “Nếu có giải thưởng Nobel về khả năng kể chuyện, giải thưởng đó chắc chắn sẽ thuộc về Archer”. Với “Hai số phận” mình có thể đọc chậm một chút, vì không chậm thì có khi không ngẫm được hết cái lí lẽ trong cách hàng xử của nhân vật. Mà hai nhận vật chính trong truyện, William Kane và Able Rosnovski, thì thâm sâu và uyên bác tới không ngờ ấy. Hai nhân vật sinh cùng ngày tháng năm, tuy lớn lên trong hoàn cảnh quá trái ngược nhưng đều có những khả năng thiên phú riêng (chắc là do gen). Họ giỏi thật sự, và biết rằng mình giỏi,luôn tự tin và phấn đấu không ngừng. Về William Kane, cuộc đời người đàn ông này gần như hoàn hảo từ khi chào đời tới lúc sắp rời ghế tại ngân hàng Lester. Gần như hoàn hảo vì William sớm phải chịu mất đi những người thân yêu nhất, với mình thi ngay khi người mẹ tái giá là William đã mất mẹ rồi. Mình đọc mà nhìn William với một sự ngưỡng mộ nhiều, tất nhiên là ngưỡng mộ tư tưởng ấy, cách hành xử cao thượng và tầm nhìn quá tuyệt vời của ông. Đối với Abel Rosnovski thì khác chút vì quá lắm thăng trầm, nên khiến mình lưu tâm nhiều hơn ấy. Ban đầu là khâm phục khả năng chịu đựng và mưu trí của cậu bé, dần dần là tâm đắc với sự ham học hỏi và nỗ lực vươn lên từ hai bàn tay trắng, sau cuối lại hơi bất bình vì cái ý tưởng trả thù cứ đeo đẳng Abel. Nhưng đoạn tác giả viết về tấm lòng của Abel khi nhất định là ra trận, vì lòng tự tôn dân tộc, vì mong muốn cống hiến cho đất nước không chỉ về tài chính mà còn về sức lực, đoạn này hay thật sự, khiến mình cộng thêm bao nhiêu điểm cho Abel luôn. Chốt lại thì “Hai số phận” là cuốn sách rất rất rất lôi cuốn và đáng đọc nhé các bạn, chẳng biết cảm thán thế nào cho vừa vì cho dù đã đọc xong mấy hôm rồi nhưng dư âm vẫn còn đọng lại khá nhiều khiến mình chưa thể ngay lập tức cầm một cuốn sách khác. À nhân tiện nói về bản dịch, mình thấy mọi người nói nhiều về bản dịch của dịch giả Nguyễn Việt Hải ( NXB Văn học 2018), đúng là bản này dịch hay và cập nhật dễ hiểu, nhưng mình có đọc cả bản dịch của dịch giả Anh Thư ( NXB Văn học 2011) nữa ( vì đi làm không chịu được nên tìm sách đọc onl thì có bản dịch 2011 nè). Mình thấy kết cấu hai bản dịch hơi khác nhau một chút, theo mình thì bản 2018 có nhỉnh hơn về logic sắp xếp và câu từ nhưng bản 2011 cũng có rất nhiều đoạn dịch rất hay và mượt đó. Đây là lần đầu mình viết review sách, mong được các bạn góp ý nếu có sai sót nhé. Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết dài lê thê lướt thướt như thế này. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ nha. Trang Nguyen *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. ***   Mời các bạn đón đọc Hai Số Phận của tác giả Jeffrey Archer & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Một Linh Hồn
Một linh hồn là tiểu thuyết đầu tay của Thụy An, in năm 1941-Nhà xuất bản Đàn Bà (76 pho Wiélé Hà Nội). Theo Bùi Thụy Băng (con Thụy An), Một linh hồn in năm 1943 (1). Cuốn sách này được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao: “Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Ông cũng định vị Thụy An trong tư cách nhà văn: “Hàn Mặc Tử đã đem vào thi ca Việt Nam lòng tin tưởng ở đạo Gia-Tô với một giọng say sưa đầm ấm. Thụy An cũng xây dựng cho tiểu thuyết của bà có những nhân vật tin cậy ở đẳng cấp Đấng Cứu Thế ở Đức Mẹ Đồng Trinh và sẵn lòng nhịn nhục, hi sinh”.  *** Bài giới thiệu của Nhà thơ Viên Linh:   Nữ sĩ Thụy AnThụy An Hoàng Dân là một nhà văn nữ nổi tiếng từ trước 1945, vừa qua văn chương vừa bởi cách sống, song danh vọng đã không rực rỡ, số phận lại còn gian lao; bà vào tù ra khám nhiều lần, một đời văn không ngừng va chạm với sắt máu, kể cả với chính mình khi tự cầm đũa chọc thủng một con mắt giữa nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.        Thụy An là bút hiệu của bà Lưu Thị Yến, sinh năm 1916 ở Hà Nội, từng viết cho báo Phụ Nữ Tân Văn do Phan Khôi chủ trương, và trên hai tờ Đàn Bà Mới và Đàn Bà đều do chính bà chủ trương, xuất bản ở Sài Gòn và Hà Nội, khoảng từ 1939 tới năm chiến tranh chống Pháp bùng nổ. Trong Nhà Văn Hiên Đại, khi viết về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồncủa Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã dùng câu sau đây để kết luận 8 trang sách về bà: “Một Linh Hồn… đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”        Khoảng đầu thập niên ’50, nhà hoạt động cách mạng Đỗ Đình Đạo, từng là quân ủy trung ương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau lúc bôn ba qua Trung Hoa trở về thì bị ám sát chết; vụ thanh toán gây sôi nổi trên báo chí Hà Nội lúc ấy, và một số bài báo có nhắc đến tên Thụy An Hoàng Dân như là người trách nhiệm chính. Trong trí nhớ đã phai mờ, tôi hình dung câu chuyện như một truyện tình, tuy rằng có thể đó là một vụ khai trừ vì chính kiến. Giờ này, không rõ tờ báo đọc hồi nhỏ có đáng tin không, tường thuật có chính xác không (không nhớ đó là tờ Tia Sáng hay tờ Giang Sơn, hay tờ Tiếng Dân), tôi đã đi tìm đọc những tác phẩm của nhà văn nữ ấy, như Vợ Chồng, như Bốn Mớ Tóc.       Những năm cuối thập niên ’50, tên Thụy An Hoàng Dân lại được báo chí nói đến, cả ở Hà Nội lẫn ở Sài Gòn. Lần này bà bị chính quyền Miền Bắc qui tội gián điệp, bị bỏ tù 15 năm. Đó là sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, – bề ngoài là vụ án hữu khuynh chống Đảng, song thời gian đang cho thấy đây nhiều phần là vụ thanh toán các nhà văn gốc Miền Bắc bởi Tố Hữu, một cán bộ văn vần kém cỏi nhưng đắc thế, đầu óc nặng nề địa phương tính, lệt sệt mặt đất vì mặc cảm thua tài nhưng lại ở đỉnh cao của Đảng, phóng dọi qua lăng kính chủ nghĩa để thành cao viễn mà nạn nhân 99% là trí thức văn nghệ sĩ quê quán vùng Sông Hồng: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Thụy An, Hoàng Cầm, Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, Trần Dần… [gốc Bắc mà thoát nạn là vì biết sợ như Nguyễn Tuân, im lặng như Thế Lữ, hay thỏa hiệp từ đầu như Nguyễn Đình Thi]. Tố Hữu tuy đã chết, song chủ trương của đồng bọn / có thể ví như bọn kiêu binh tam phủ thời Hậu Lê / vẫn còn đang hoành hành từ Bắc vào Nam. Trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, 304 người bị gọi đi tập trung chỉnh huấn, nhưng có 4 người chống lại không đi, trong có Thụy An Hoàng Dân.       Bị tù vì tội gián điệp (vì liên hệ với một người bạn ngoại quốc), bà Thụy An đã khắc lên tường phòng giam số 12 ở nhà pha Hỏa Lò câu sau đây: “Tại nơi này, tôi dã dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi để phản đối chế độ cộng sản phi nhân, đàn áp dã man văn nghệ sĩ.” Bà từ trần ngày 10 tháng 6.1989 tại Sài Gòn. Truyện ngắn Giết Chó sau đây, đăng lần đầu trên Tạp chí Phổ Thông của Hội cựu Sinh viên Trường Luật Hà Nội, (số đôi 19-20, tháng 6-7.1953, trang 109), cho thấy Thụy An đã chống Cộng sản ngay từ lúc ấy. Đương thời, hoạt động vào ban đêm của Việt minh Cộng sản thường bị chó phát giác; như phát giác trộm đạo, nên họ đi tới đâu, chó sủa tới đó, vì vậy chó trở thành kẻ thù sớm nhất của “cách mạng”. Truyện này viết cách đây đúng nửa thế kỷ cho thấy Thụy An Hoàng Dân vẫn xứng đáng là nhà văn nữ xuất sắc nhất Việt Nam, như lời Vũ Ngọc Phan viết về tác giả Một Linh Hồn từ năm 1942. *** Thụy An sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi, bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của Triều đình nhà Nguyễn. Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Nhưng sau khi bà sinh được 6 người con, thì ly thân với chồng từ 1949. Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn. Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận Lưu Thị Yến là con nuôi. sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù. Năm 1973, Lưu Thị Yến cùng với Nguyễn Hữu Đang, cũng bị tù vì vụ Nhân Văn–Giai Phẩm, được thả trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Vào Thành phố Hồ Chí Minh, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987 và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ. Mời các bạn đón đọc Một Linh Hồn của tác giả Thụy An.
Đám Ma Tôi
"Đám ma tôi" được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó. Nội dung "Đám ma tôi" thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống - chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay... Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”. *** Viết về cái chết, trước Đinh Hùng (1940) có thi sĩ Hàn Mạc Tử với những vần thơ ngập tràn cô đơn và cõi chết đau thương. Đọc 'Đám ma tôi', đặc biệt đoạn gần cuối, khi người thiếu nữ Hoài yêu say, yêu đắm năm xưa vô tình lạc bước, nàng để ý đến một nấm mồ vì nó điêu tàn nhất nhưng lại bỏ qua dòng chữ khắc mờ trên mộ chí mà chàng Hoài Điệp nằm đó từ năm 17 tuổi, không khỏi liên tưởng đến những câu thơ rất liên quan của Hồ Dzếnh “Nằm im dưới gốc cây tơ/ nhìn xuân trải lụa trên tờ lá non”, và bài thơ tuyệt diệu “Tưởng chuyện ngàn sau”: “Nằm đây, tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ!” “… Ta nằm trong ván trông ra/ tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười!/ ta toan... giận dỗi xa đời/ chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm/ nát thân, không nát nổi hồn/ lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!” 'Đám ma tôi' của tác giả Hoài Điệp (tức thi sĩ Đinh Hùng), do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Công ty sách Thư Books và NXB Phụ nữ liên kết tái bản tháng 7.2021. - Cảo Thơm - *** Tập văn xuôi Đám ma tôi của tác giả Hoài Điệp (thi sĩ Đinh Hùng), quan niệm về sự sống, cái chết do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Thư Books và NXB Phụ nữ cho tái ngộ độc giả sau 81 năm. Thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ: " Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay trong một hoàng hôn nắng tắt, từng chứng kiến nhiều cuộc sinh ly tử biệt, từng khóc cho những người đi mãi không về nhưng cậu vẫn chưa thể lý giải được ý nghĩa của sự ly trần. Những trăn trở của cậu được thể hiện qua ngòi bút tài hoa của thi sĩ Đinh Hùng. Đám ma tôi ra mắt độc giả năm 1940, khi Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi, cũng có thể được viết sớm hơn khi ông mới 16 - 17 tuổi, thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống-chết ở đời. Thay vì chọn làm người sống để nói về kẻ chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Tập văn xuôi tràn ngập chất thơ, định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” Trong câu chuyện của thi sĩ Đinh Hùng, nhân vật của ông sao nhiều nước mắt quá, nào là mẹ góa, chị gái, anh trai… ai cũng nức nở, sụt sùi, mắt đỏ hoe. Với cậu con trai, chết là sự sung sướng, giản dị hơn cả việc làm quan hay lấy vợ đẹp. Thân xác bất động trên giường kia được mặc cho áo đẹp, chỉnh tề, hương trầm bay nghi ngút, tiếc là không thể lượn lờ đi chơi với bộ cánh người ta mặc cho. Cậu bất lực nhìn người thân họ hàng chọn cho mình nào quan tài, xe ngựa, nơi chôn cất… Khi mặt trời ló dạng, mọi người đều thức giấc, riêng cậu vẫn thờ ơ với buổi bình minh “vì đã đi hết cuộc đời, sang đến hoàng hôn”. Cậu nằm đó, chứng kiến “tình thương” của người thân và những cuộc “thương vay” của hàng xóm láng giềng, bạn bè của họ và của cậu. Cậu trai mới mấy ngày trước còn chơi bời vui vẻ nay tỏ ra giác ngộ, “có chết đi mới biết rằng người ta yêu nhau!”. Nếu không nằm bất động, e là cậu không có dịp chứng kiến bạn bè mình tập trung lại đông đủ cùng một lúc như thế, chuyện có lẽ chỉ xảy ra khi cậu nảy ra ý định cưới vợ nếu còn sống thêm, nhưng lúc này cậu đã chết rồi, mang theo những món nợ trần gian, tiền bạc chưa kịp trả. Cậu nằm đó, lắng nghe những cuộc đối đáp, than van, Đinh Hùng viết: “người nào cũng tìm được câu để nói, nhưng người nào giỏi thì tìm được thêm nguồn sầu để khóc, và khóc với đủ tự do cá nhân”. Cái bản mặt cậu dưới tờ giấy bản có lẽ là sự hiếu kỳ lớn đối với người đến thăm viếng, ai cũng muốn nhìn mặt người chết lần cuối, dù đã nhẵn mặt, với vẻ kính cẩn lạ kỳ. “Chết đi, bạn ạ, chết đi để được hưởng những thú vị quái lạ”. Một cái xác bất động, tưởng như bỏ đi, sai khiến cùng lúc mọi người làm những việc khác nhau, hoặc nằm nghe tiếng não nùng của con gà tận số nào đó vừa bị cắt tiết. Vì không có việc gì làm, cậu trở nên triết lý: “Thì ra cũng có cái chết nầy và cái chết khác, nếu không sao lại có khi hàng vạn con người chết chôn một lúc mà chẳng lôi theo được một mạng con gà?” Cái “tôi” nằm đó với hai bàn tay trắng nhận lấy tặng phẩm của đời lần cuối, chết đi để lại niềm tiếc thương trong lòng người ở lại trần gian và cả những lời tán thưởng không đáng có, không bao giờ có khi còn sống… Chết với cậu là hết, không lời trối trăng bởi lúc sống đâu có ai nghe tiếng lòng cậu nói, không vướng víu nợ đời như những người đang vây quanh cậu lúc này. Người sống tỏ ra thương hại người chết, người chết thì thương hại người sống một cách thành thực. Cỗ quan tài bắt đầu rời nhà cậu, đi vào một con đường thanh vắng, “hai bên đường có cây xanh. Đằng xa là dáng buồn lả lướt của những cánh đồng lúa non”. Nơi cậu nhập tịch thật tịch mịch, xa tiếng ngựa xe thành thị. Những đôi mắt không hẹn cùng trào lệ, những lời sau cuối được thốt ra trước khi hạ huyệt. “Ở đây ai khóc thương được hãy cứ khóc thương, ai thản nhiên được hãy cứ thản nhiên cho nhiều”, linh hồn cậu bâng quơ nghĩ ngợi khi người phu đào huyệt đắp đất lên cỗ quan tài đang nằm sâu dưới lòng đất. Người sống từ giã người chết lần cuối, một lần trong muôn thuở. Khi họ rời đi, linh hồn cậu rồi sẽ bắt đầu những chuỗi ngày lưu lạc, linh hồn ấy không vội rời đi liền theo gót chân đoàn người đưa tang để lại cái xác đơn chiếc làm gì. Một ngày gần nào đó, linh hồn cậu sẽ “đi đây, đi đó, ra ngoài đất khách, ra ngoài quan san… Rồi mùa đông sau biết đâu nó chẳng trở về nhìn cuộc điêu tàn đời nầy kết liễu?” Tấm linh hồn lưu lạc viễn xứ để lại cái xác dưới hố sâu cô đơn khinh đời nằm vắt từ bình minh này sang đến hoàng hôn khác, để lại dưới huyệt sâu cái thân xác trong lòng đất ẩm thấp, “cái xác khô có rùng mình hay không, nào ai được biết?” Xác thân cậu nằm đó, ngày này qua tháng nọ, “ngày xưa trong cái vô tình của lòng người sống, ngày nay trong cõi lạnh lùng của đất thờ ơ”. Như một lẽ tự nhiên, rồi sẽ có lúc người ta cũng thờ ơ với những dòng chữ đìu hiu khắc mờ trên mộ chí. Tập văn xuôi về sự chết nhưng tràn ngập chất thơ, chất thơ về sau định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” lừng danh trên thi đàn muôn thuở. Qua Đám ma tôi, qua giọng văn giễu cợt mọi thứ không chút kiêng kỵ, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.   Mời các bạn đón đọc Ðám Ma Tôi của tác giả Hoài Điệp.