Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie - Mitch Albom
Đây là một quyển sách nhỏ rất cảm động đã được in lần đầu vào tháng 10, năm 2002. Quyển sách nói về một ông thầy già nua có thật ngòai đời, một cậu sinh viên cũ của người thầy khả kính đó, và những bài học cuối quí giá nhất trên đời. Văn phong của Mitch Albom rất giản dị, kể chuyện một cách rất nhẹ nhàng tâm tình, về những kỹ niệm với ông thầy khả kính và rất ư có cá tính ấy. Sau những ngày thăm viếng thứ ba kết thúc, chúng ta cũng sẽ rất ngậm ngùi thương tiếc cho những kỹ niệm đẹp tuyệt vời mà ông Mitch Albom ghi lại cho chúng ta cùng nhón chân nhìn vào những bài học tuyệt vời đầy tình người với người của cặp thầy trò này. *** Mitch Albom là một nhà báo, giữ mục thể thao cho tờ Detroit Free Press. Liên tiếp mười năm, lúc chỉ vào lứa tuổi trên 30, anh chàng  ký  mục  gia  thể  thao  này,  được  Hội  Ký  Giả  Thể  Thao (Associated Press Sports Editors) vinh danh là người ký muc gia thể Thao hay nhất. Thế rồi một ngày nọ, vì một sự đình công, anh đã tạm ngưng viết mục ký Thể Thao, để hoàn thành quyển sách, sau này là quyển sách bán chạy nhất trong năm 1977 - Quyển sách không liên quan gì tới thể thao. Một quyển sách viết về kinh nghiệm cuộc đời của một giáo sư đại học già đang chết dần mòn vì bệnh Lou Gehrig. Một tối nọ, Mitch Albom đang đổi từ  đài này qua đài khác không mục đích, và anh bỗng chú ý tới chương trình "Nightline" của Ted Koppel. Kìa người ta đang nói về ông Thầy yêu quý của anh! Từ lâu khi ra khỏi đại học, anh không còn liên lạc với ông Thầy Xã Hội Học, mà anh rất thân từ thuở bận quần jeans, áo thun, và đầu óc đầy lý tưởng. Giờ đây Mitch Albom là ký mục gia ăn khách, người ta cần anh viết về các trận banh, bóng rỗ, túc cầu, baseball, quần vợt nóng bỏng. Thêm vào đó anh còn làm cho đài radio, xuất hiện trên đài truyền hình, anh bận rộn với các các buổi phỏng vấn về các tay thể thao gia nổi tiếng đương thời. Anh chạy theo từng mùa của thể thao và quên mất ông Thầy yêu quý đã từng có những buổi nói chuyện đời lý thú với.... Sau buổi truyền hình, Mitch Albom gọi điện thoại hỏi thăm người thầy già, rồi bay về lại thành phố đại học cũ để thăm thầy. Và từ đó mỗi ngày thứ Ba cho đến khi Thầy Morrie Schwartz qua đời, hai thầy trò gặp nhau. Một thầy giảng về cuộc đời, và một trò ghi chép bài học và cảm nghĩ đã thay đổi đời sống của anh. Dù Thầy đang chết dần mòn nhưng thế giới thầy đầy tình yêu và hy vọng. "Tình Yêu là sự hiện diện của ta trên cuộc đời, dù rằng thể xác ta đã ra đi (Love is how you stay alive, even after you are gone).  Mitch Albom đã ghi lại kinh nghiệm của một người đang chết dần mòn, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn mãi mãi. Đó là quyển "Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie" (Tuesdays with Morrie) của Mitch Albom. *** Khoá học cuối đời của vị giáo sư già của tôi diễn ra mỗi tuần một buổi tại nhà ông bên cạnh cửa sổ phòng đọc sách, nơi ông có thể nhìn ngắm một cây dâm-bụt, rụng lá đỏ hồng. Lớp nhóm vào mỗi ngày thứ ba. Bắt đầu sau bữa ăn sáng. Môn học là Ý Nghĩa Cuộc Đời. Dạy theo kinh nghiệm. Không có điểm sắp hạng nhưng có thi vấn đáp mỗi tuần. Sinh viên phải trả lời câu hỏi và phải tự đặt câu hỏi của mình. Cũng phải làm một vài công việc tay chân như nâng đầu giáo sư lên để vào một tư thế thoải mái, hoặc đeo cặp kiếng của ông vào sống mũi. Hôn ông từ giã cũng được thêm điểm. Không cần sách nhưng bàn nhiều về đề tài, bao gồm lòng nhân ái, làm việc cộng đồng, gia đình, tuổi già, tha thứ và cuối cùng là cái chết. Bài giảng cuối cùng rất vắn tắt chỉ có vài chữ. Đám tang diễn ra thay cho lễ tốt nghiệp. Mặc dầu không thi cuối khoá nhưng sinh viên phải viết một bài dài về những gì đã học được. Bài ấy được trình bày ở đây. Khoá học cuối cùng của vị thầy già chỉ có một sinh viên. Sinh viên đó là tôi. Khoảng cuối mùa Xuân năm 1979, vào một buổi chiều Chủ Nhật nóng bức, nhễ nhại. Tụi tôi cả trăm đứa ngồi với nhau, bên cạnh nhau, trên nhiều dãy ghế xếp đế trên nền cỏ trong khu trung tâm đại học. Chúng tôi mặc áo thụng nylon màu xanh dương và nghe bài diễn văn dài đến sốt ruột. Khi cuộc lễ chấm dứt, chúng tôi ném mũ lên trời và thế là chúng tôi chính thức tốt nghiệp, hoàn thành  năm  chót  của  đại  học  Brandeis,  nằm  trong  thành  phố Waltham, Massachussetts. Đối với nhiều đứa chúng tôi, tuổi thơ vừa mới hạ màn. Sau buổi lễ, tôi gặp Thầy Morrie Schwartz, ông thầy mà tôi quý mến nhất và giới thiệu Thầy với ba má tôi. Ông là người nhỏ bé, bước đi là những bước ngắn như thể là gió mạnh lúc nào cũng có thể bốc ông lên tới mây. Trong bộ lễ phục ngày tốt nghiệp, trông ông giống như một cây thánh giá dựng giữa ông tiên tri trong Kinh Thánh và một thiên thần tí hon vào dịp Giáng Sinh. Mắt ông long lanh hai màu xanh dương lục, tóc thưa mỏng màu bạch kim xoà xuống trán, đôi tai lớn, sóng mũi hình tam giác và hai chùm lông mày hơi ngả màu. Mặc dầu răng ông không đều đặn và hàm răng dưới thụt vào trong -- giống như có ai đấm xô vào trong -- khi ông cười lại giống như khi bạn vừa nói một câu khôi hài chưa ai từng nói trên trái đất này. Ông bảo ba má tôi là tôi đã chọn tất cả những giảng khoá mà ông dạy. Ông bảo ba má: "Ông bà có một cậu con đặc biệt lắm đấy. " Tôi bối rối nhìn xuống đôi chân. Trước khi chia tay, tôi trao tặng ông thày một gói quà là chiếc cặp da màu xám với tên tắt của phía trước chiếc cặp. Tôi đã mua chiếc cặp này ngày hôm trước tại một thương xá. Tôi không muốn quên ông. Có lẽ tôi không muốn ông quên tôi thì đúng hơn. "Mitch, cậu là một trong những sinh viên giỏi. " Ông vừa nói vừa ngắm chiếc cặp. Rồi ông ôm tôi. Tôi cảm thấy hai cẳng tay gầy gò ôm quanh lưng. Tôi cao hơn ông nên khi ông ôm tôi, tôi cảm thấy ngượng ngùng như tôi là một phụ huynh và ông là một thằng nhỏ. Ông hỏi rồi đây tôi sẽ còn liên lạc với ông nữa không, tôi không do dự trả lời: "Dĩ nhiên còn chứ, Thầy". Khi ông lùi ra, tôi thấy ông khóc. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie của tác giả Mitch Albom.
Không Khoan Nhượng - Brad Thor
Biệt tài của Brad Thor là im lặng và “lạnh lùng” miêu tả, không đưa ra bình luận. Nhưng mọi tình tiết ly kỳ tới mức kinh dị của ông đã nói lên tất cả. Có một bài ca được cất lên. Đó là nét đẹp của tình yêu và lẽ sống, nét đẹp của trí thông minh và lòng dũng cảm. Thật khó có thể nói hết được tình yêu của Harvath với Tracy. Từ đó, thật mà khó nói hết nỗi đau của anh khi chứng kiến cô người yêu của mình rơi vào cảnh “sống mà như chết”. Tuy đơn độc trong cuộc chiến, nhưng Harvath được hậu thuẫn bởi nhiều đồng nghiệp, người thân, sự hiểu biết và tình yêu đối với công việc. Anh bỏ qua sự lạnh nhạt của tổ chức, sự tiếp tay vô tình của nhiều người với kẻ địch (như thằng Lùn chẳng hạn)… để hướng tới mục tiêu duy nhất: Truy đuổi đến cùng để triệt hạ đối phương. Với 124 chương, kéo dài suốt 551 trang sách, bạn đọc sẽ trải qua một cuộc “đọc marathon” mệt nghỉ với nhiều tâm trạng. Nhưng cảm xúc từ tiểu thuyết này thật lớn. Có quá nhiều sự kiện ly kỳ “hơn cả trinh thám”. Cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn thêm nhiều tri thức về sự xung đột ý thức hệ thời hiện đại với nhiều sắc thái biểu hiện. ở đó, ta sẽ thấy âm mưu và tình yêu bộc lộ rõ rệt. Và ta cũng thấy ở đó, nghị lực sống, nghị lực vượt qua thử thách cao hơn tất cả. *** Câu chuyện bắt đầu từ “trại 5” Delta, tại căn cứ của hải quân Mỹ ở vịnh Guantanamo (Cuba). Ai cũng biết đây là trại giam khét tiếng, chuyên giam giữ tù nhân là bọn khủng bố. Đó là những kẻ Hồi giáo cực đoan ở rải rác khắp nơi (như Afghanistan, Palestine, Ảrập Xêút, Iran, Iraq...). Cả thế giới đều phải e ngại trước những kẻ mà “bom cảm tử mạnh hơn cả bom nguyên tử”. Dĩ nhiên, chuyện Al Qaeda tác oai tác quái là điều quá rõ. Điều mà bạn đọc tự hỏi là, vấn đề chính trị như vậy sẽ được khai thác như thế nào dưới góc độ tiểu thuyết? Các nhân vật trong truyện “lưỡng phân” thành 2 nhóm. Đó là thế lực ngầm (những kẻ khủng bố, giấu mặt) và thế lực nổi (mật vụ Mỹ, FBI và lực lượng chống khủng bố, cũng giấu mặt). Đây là sự đối đầu gian nan, khốc liệt nhất. Bởi trong sự đối chọi này, có cái thiện và cái ác, có âm mưu và tình yêu, có sự sống và cái chết, và có niềm tin bắt nguồn từ hai phía... *** TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ VỊNH GUANTANAMO, CUBA Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lơ lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy. Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên nét mặt họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cởi quần áo. Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ. Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối. Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ? Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng. Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái. “Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về. Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas. Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì. “Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.” “Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?” “Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài. Hẳn có chuyện gì đó không ổn. Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa. Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài. “Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!” Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn. Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài. Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé. Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng. Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”. Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới. “Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.” Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to. Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng. Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai. Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại. Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều. Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng. Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Không Khoan Nhượng của tác giả Brad Thor.
Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.
Khoảng Trời Mênh Mông - Kirby Larson
Sách là chuyện về cô gái mồ côi cha mẹ, chưa từng đi khỏi nhà người bà con nơi cô tá túc. Nhưng một ngày, với 320 mẫu đất thừa kế từ cậu ruột, cô một mình tiến về miền Tây nước Mỹ, lập nghiệp với đôi bàn tay thiếu nữ. Từ khi chưa mọc răng sữa cho đến 16 tuổi, Hattie Brooks đều phải sống nhờ bà con xa, nay ở nhà này, mai sang nhà khác vì bố mẹ cô sớm qua đời. Cuộc sống thiếu thốn tình cảm, sự chăm bẵm từ đấng sinh thành khiến cô gái trẻ luôn khao khát được yêu thương, được thể hiện bản thân.  Một ngày kia, Hattie bất ngờ nhận được lá thư của cậu Chester từ Montana cho biết, trước khi qua đời, ông để lại cho cô cháu gái 320 mẫu đất, một con bò cái và con ngựa. Mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được phao, Hattie khăn gói lên đường tiến về phía Tây với một viễn cảnh huy hoàng vẽ ra trước mắt: những ruộng lúa bạt ngàn, cây trái sum suê, một căn nhà của chính mình và mãi mãi giã từ kiếp ăn nhờ ở đậu, lệ thuộc vào người khác. Hành trang mang theo trên chuyến tàu rời thành thị về vùng quê hẻo lánh của cô gái chưa đầy 17 tuổi, chưa hoàn tất những năm học ở trường phổ thông là sách dạy nấu ăn, dạy nghề nông và con mèo Whiskers, người bạn trung thành của cô. Nhưng niềm vui thoát khỏi kiếp sống bị ghẻ lạnh chưa kịp trọn vẹn, Hattie phải liên tiếp đối mặt với khó khăn vất vả. Đất đai trong tay cô bạt ngàn nhưng chúng chưa hẳn thuộc về cô. Thật ra, cậu Chester chỉ để lại cho cô quyền tiếp quản đất và cô có một khoảng thời gian để chứng minh với dân trong vùng, với chính quyền Montana cô phải có năng lực cai quản, canh tác. Cô phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn được đề ra mới có thể nộp hồ sơ lên chính quyền để xin đất công. Một mình sống trong căn nhà nhỏ tuềnh toàng, nằm lọt thỏm giữa bạt ngàn đồng cỏ, không ít lần Hattie định từ bỏ cuộc sống lao động nặng nhọc để quay về nơi mình ra đi. Thế nhưng, càng sống ở đây, càng gặp nhiều thử thách, Hattie dần nhận ra rằng, cô yêu quý mảnh đất nhọc nhằn. Ở đó cô có những người hàng xóm quê mùa nhưng tốt bụng. Họ sẵn sàng giúp cô khám phá những điều thú vị của nghề nông. Thiên nhiên hoang sơ và khoáng đạt cũng như tình cảm nồng hậu của người nông dân Montana nhen nhóm trong cô gái trẻ những tình cảm gia đình ruột thịt mà từ lâu cô bị mất đi. Tình cảm ấy mang lại cho cô gái nhỏ sức mạnh để còng lưng nhổ cỏ, nhặt đá trên đồng cỏ để gieo trồng cây trái; đóng hàng trăm cọc rào để khoanh ranh giới đất của mình. Dưới bầu trời Montana cao xanh lồng lộng, Hattie đương đầu với thời tiết khắc nghiệt. Vượt qua nhiều thời khắc khốn đốn, cuối cùng Hattie đã chứng minh được chủ quyền với 320 mẫu đất. Nhưng thử thách vẫn chưa kết thúc. Đổ máu, mồ hôi và nước mắt mới giành được đất, Hattie lại đành phải bán đi vì khốn khó vẫn dàn đầy trước mắt. Trong những trang cuối của cuốn sách, người bạn mà Hattie xem như ruột thịt mất đi, mảnh đất cô hằng khao khát cũng phải nhượng lại cho đối thủ, những thứ của nả cô nghĩ có thể gày dựng được trên đất Montana rốt cuộc chẳng còn là bao. Hattie lại đón chuyến tàu rời Montana tiếp tục đi về phía Tây, tìm kiếm cơ hội xây dựng cuộc đời mình... Tuy nhiên, Hattie không buồn. Bởi những tháng ngày đầy lo âu, đầy trải nghiệm ở vùng đồng cỏ Montana chính là tháng ngày mà Hattie yêu quý nhất trên đời. Những tháng ngày đó mở ra trước mắt cô gái trẻ "khoảng trời mênh mông" của niềm tin, nghị lực và của tình yêu. *** Arlington, Iowa Ngày 19 tháng Mười hai năm 1917 Charlie thân mến! Mỗi ngày, cô Simpson đều nhắc chúng em cầu nguyện cho anh và mọi quân nhân khác. Nhưng theo em, ta nên cầu nguyện cho vua Đức tội nghiệp: Ông ta sẽ phải khấn trời rủ lòng thương ngay khi giáp mặt anh! Hôm nay, em tình cờ gặp mẹ anh ở tiệm cậu Holt. Bà kể qua loa rằng, anh sẽ sớm đến Anh quốc, rồi từ đó sang Pháp. Từ lúc đó, em không đủ can đảm nhìn bản đồ phía sau cô Simpson vì nó bắt em nhớ giờ anh và Arlington đã nghìn trùng xa cách! “Ngài” Whiskers muốn nhắn anh rằng “ngài” vẫn mạnh! Mấy hôm nay trời lạnh cóng nên em cho nó ngủ trên giường em. Khi biết chuyện, mợ Ivy nổi cơn tam bành. Ơn trời, vì mợ bảo em lớn rồi, đánh mãi sẽ lì đòn. Nếu không, chắc bây giờ em chẳng còn chân mà đi. Anh không biết chứ mợ Ivy bây giờ khác lắm. Mợ tự may mũ màu trắngcó đắp dấu thập đỏ chói bằng vải ở vành. Mợ đội mũ ấy mỗi khi dự họp ở Hội Chữ Thập Đỏ. Chắc mợ muốn mọi người phải biết mình có góp tiền cho Hội này. Hồi này, mợ cư xử lạ lắm, thậm chí sáng nay còn hỏi em thấy trong người thế nào. Lần đầu tiên trong nhiều năm ròng, mợ hỏi em khỏe hay yếu. Lạ thật. Chắc nhờ tham gia Hội Chữ Thập Đỏ nên mợ dịu hiền hơn. Chị Mildred Powell đang đan đôi vớ thứ năm. Đừng vội mừng vì anh không được hưởng trọn cả năm đâu. Chị ấy đan cho Hội Chữ Thập Đỏ đấy. Hồi này, nữ sinh chúng em ai nấy đều bận rộn đan lát cho Hội. Tuy nhiên, em nghĩ rằng đôi đẹp nhất của chị là dành cho anh. Chắc anh phải cố gắng lắm mới ních được vào bộ quân phục nhỉ! Đúng là con lật đật (Hì hì). Đùa tí thôi chứ thật lòng em biết chắc anh sẽ khiến người thân và bạn bè được thơm lây. Mợ Ivy vừa đi họp về, đang gọi em đấy. Em phải dừng bút thôi, nhưng sẽ sớm viết thư sau gửi anh. Bạn cùng trường Hattie Inez Brooks Thấm mực xong, tôi nhẹ tay đẩy bức thư vào phong bì. Mợ Ivy sẽ không chần chừ đọc bất kì thứ gì lọt vào mắt bà, dù thứ đó trong phòng tôi, trên bàn riêng của tôi. ... Mời các bạn đón đọc Khoảng Trời Mênh Mông của tác giả Kirby Larson.