Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Công Tước Và Em - Julia Quinn

Thông minh, quyến rũ và cũng lại vô cùng ngây thơ, Daphne Bridgerton không bao giờ tưởng tượng rằng cô sẽ bị cuốn vào vòng xoáy tình yêu với chàng công tước độc thân sáng giá bậc nhất nước Anh, đồng thời cũng là một tay chơi khét tiếng khiến cả mẹ lẫn các anh cô phải cấm đoán. Không chỉ có thế, khi bị anh trai cô lôi vào cuộc đấu súng một mất một còn, anh chàng đó sẵn sàng chấp nhận cái chết chứ nhất định không trao cho Daphne Bridgerton bất cứ điều  gì ngoài câu nói, Tôi không thể lấy em… Công tước và em - cuốn tiểu thuyết lãng mạn danh tiếng của Julia Qinn, cuốn sách mang màu của ký ức, màu của những rượt đuổi cô độc về cảm xúc, lại cũng tràn ngập màu đỏ của đam mê, màu vàng rực rỡ của hạnh phúc. Khi mọi sắc màu đó hòa quyện, thế giới của hai nhân vật chính tan vào nhau trong sự toàn vẹn… *** Đôi nét về tác giả: Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, chín lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác ngay từ khi rời trường trung học, và ngay từ các tác phẩm đầu tay đã nhận được những phản hồi tích cực từ cả độc giả lẫn các nhà xuất bản. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ. Những tác phẩm của cùng tác giả Julia Quinn được Nhã Nam xuất bản: The Secret Diaries of Miss Miranda Cheever (Nhật ký bí mật của tiểu thư Miranda) What Happens in London (Chuyện xảy ra ở London) Tử Tước và Em Như Chốn Thiên Đường Công tước và Em Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế ... *** Lời khen tặng dành cho Công tước và em “Cuốn hút.” - Nora Roberts “Tôi chỉ có thể chân thành cảm ơn Julia Quinn vì đã phục hồi niềm tin của tôi đối với văn học lãng mạn.” - Walaika Haskins, Romance Reader   “Julia Quinn là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett “Quinn sẽ mang đến cho các bạn những giấc mơ thú vị.” - Romantic Times *** Ngày sinh của Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset, Bá tước Clyvedon, được tổ chức rất long trọng. Nhà thờ đổ chuông trong hàng giờ liền, champagne được xả lênh láng hào phóng trong khuôn viên tòa lâu đài khổng lồ, nơi cậu bé mới sinh gọi là nhà, và cha ngài Bá tước nhỏ tuổi yêu cầu toàn thể dân làng Clyvedon nghỉ việc để tham dự yến tiệc và kì nghỉ. "Đây," bác bán bánh mì nói với người thợ rèn, "không phải là đứa trẻ bình thường." Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset không phải được sinh ra để cả đời sống với tước vị là Bá tước Clyvedon. Đó chỉ là một tước vị có được do ưu đãi. Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset – cậu bé con có nhiều tên hơn hẳn bất kỳ đứa trẻ nào khác – là người thừa kế một trong những tước vị Công tước lâu đời và giàu có nhất nước Anh. Và cha cậu bé, ngài Công tước Hastings thứ chín, đã chờ đợi khoảnh khắc này trong nhiều năm liền. Khi ngài đứng trong đại sảnh bên ngoài phòng sinh của vợ, nâng niu đứa con đỏ hỏn đang khóc ầm ĩ trong tay, trái tim ngài Công tước gần như nổ tung vì tự hào. Nhiều năm sau khi bước qua tuổi 40, ngài đã chứng kiến biết bao người bạn của mình – những vị Công tước và Bá tước khác, tất cả – đều sinh ra hết người thừa kế này đến người thừa kế nọ. Một vài người có con gái trước khi đứa con trai quý giá của họ được sinh ra, nhưng cuối cùng, tất cả họ đều tin chắc dòng dõi của họ sẽ tiếp tục, dòng máu của họ sẽ được truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Nhưng không phải ngài Công tước Hastings. Mặc dù vợ ngài đã mang thai năm lần trong suốt 15 năm hôn nhân của họ, chỉ hai lần bà hạ sinh, và cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào đời. Sau lần mang thai thứ năm, kết thúc bằng việc sẩy thai vào tháng thứ năm của thai kỳ, các bác sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thêm một lần có con nào khác. Mạng sống của nữ Công tước đã ở trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá yếu, quá mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công tước chỉ đơn giản cố gắng chấp nhận thực tế, rằng tước vị sẽ không còn liên quan đến dòng họ Basset nữa. Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của mình, sau sáu tháng hồi phục, đã mở cánh cửa thông giữa phòng ngủ của họ, và ngài Công tước lại tiếp tục yêu cầu có một đứa con trai. Năm tháng sau, nữ Công tước thông báo cho ngài biết, bà đã có mang. Tâm trạng của ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên, bằng một niềm tin không gì lay chuyển được – chắc chắn là không gì lay chuyển được – rằng lần mang thai này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm trên giường trong giây phút bà nhận ra mình đã trễ tháng. Các bác sĩ đến khám cho bà mỗi ngày, và trong suốt thời kỳ mang thai ấy, ngài Công tước đã mời vị bác sĩ được nể trọng nhất ở London, trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh để ông tạm thời rời khỏi phòng mạch của mình, đến sống ở lâu đài Clyvedon. Ngài Công tước không còn cơ hội nào khác ngoài lần này. Ngài phải có một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn ở trong tay của dòng họ Basset. Kinh nghiệm về những cơn đau của nữ Công tước đến sớm hơn một tháng, những tấm đệm được lót dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên trong, bác sĩ Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có cơ sở, và, vị bác sĩ rời đi vào buổi chiều, sau khi đặt những tấm đệm khác cho vợ ngài, giúp bà nằm theo một góc nghiêng hai mươi độ. Bà đã nằm trong tư thế ấy suốt một tháng. Rồi cuối cùng, khoảnh khắc ấy cũng đến. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho ngài Công tước, người luôn muốn có một người thừa kế, và cả cho nữ Công tước, lúc bấy giờ rất mảnh khảnh và yếu ớt, vào lúc vòng bụng của bà ngày càng tròn và to hơn. Tất cả đều cố gắng không hy vọng quá nhiều – bởi nữ Công tước đã hai lần hạ sinh và cả hai lần đều phải chôn đứa bé. Ngay cả nếu như bà an toàn sinh hạ một đứa trẻ, thì đứa trẻ ấy, chà, rất có thể là một bé gái. Khi tiếng hét của nữ Công tước ngày một lớn và lặp lại thường xuyên hơn, ngài Công tước xô cửa bước vào phòng bà, mặc kệ lời phản đối của bác sĩ, bà đỡ và cả đám hầu gái. Ngài nhất quyết phải ở đây, dù nơi đây đang hỗn độn cả lên bởi máu và máu, để chứng kiến giây phút được biết giới tính của đứa bé. Đầu đứa bé xuất hiện trước, rồi đến bờ vai. Mọi người đều cúi người quan sát nữ Công tước căng ra và cố gắng, và rồi... Và rồi ngài Công tước biết đó là Chúa, và ngài mỉm cười với toàn thể dòng tộc Basset. Ngài cho bà đỡ một phút để lau sạch đứa bé, rồi để bà đặt đứa bé trai nhỏ bé vào vòng tay ngài, rồi ngài bước vào đại sảnh để khoe cậu với cả thế giới. "Ta có một đứa con trai!" Ngài gầm lên. "Một đứa con trai nhỏ xíu hoàn hảo!" Tất cả người hầu đều vỗ tay và thở phào nhẹ nhõm, ngài Công tước cúi xuống nhìn vị Bá tước tí hon trong tay mình và nói. "Con thật hoàn hảo. Con mang họ Basset. Con là của ta." Công tước muốn ẵm cậu ngài ra ngoài để chứng minh với mọi người rằng cuối cùng ngài đã cho ra đời một thằng bé khỏe mạnh, nhưng vẫn còn quá sớm khi thằng bé hãy còn là một đứa trẻ mới sinh nhỏ bé vào tháng tư, nên ngài giao đứa trẻ lại cho bà đỡ, để bà đem thằng bé đến chỗ mẹ nó. Ngài Công tước bừng lên niềm vui về phần thưởng quý giá và tổ chức tiệc mừng, hét lên về vận may của mình cho bất kỳ ai chịu lắng nghe. Trong lúc đó, nữ Công tước, mất quá nhiều máu sau khi sinh và dần dần chìm vào hôn mê. Cuối cùng bà ra đi. Ngài Công tước tiếc thương vợ. Ngài thực sự tiếc thương. Ngài không yêu bà, dĩ nhiên, và bà cũng chẳng yêu ngài. Nhưng họ đã là bạn trong gần như cả cuộc đời. Ngài Công tước không mong mỏi gì hơn một đứa con trai và một người thừa kế từ cuộc hôn nhân, và trước sự quý trọng ấy, vợ ngài đã chứng tỏ là một người vợ mẫu mực. Ngài đặt những bông hoa tươi thắm bên cạnh mộ phần của bà vào mỗi tuần, bất kể đó là mùa nào trong năm, và hương phần của bà được chuyển từ phòng khách vào đại sảnh, trên một vị trí trang trọng nhất. Sau đó, ngài Công tước bận bịu với việc nuôi dạy con trai. Chẳng có việc gì ngài có thể làm được trong năm đầu tiên, dĩ nhiên là thế. Con ngài vẫn còn quá nhỏ cho những bài học về quản lý đất đai và trách nhiệm, nên ngài Công tước để Simon lại cho bảo mẫu và lên đường đi London. Tại đây, cuộc sống của ngài vẫn tiếp diễn như thường lệ, như trước khi ngài nhận biết được về tình cảm cha con, ngoại trừ việc ngài thuyết phục tất cả mọi người – thậm chí cả Đức vua – để chiêm ngưỡng con trai ngài trong một bức họa nhỏ mà ngài vẽ sau khi thằng bé chào đời. Ngài Công tước ghé thăm Clyvedon trong nhiều lần, rồi trở lại để chuẩn bị quà cho sinh nhật hai tuổi của Simon, sẵn sàng cho việc học của thằng bé. Ngài mua một chú ngựa con; một khẩu súng nhỏ cho cuộc săn bắn cáo trong tương lai cũng được ngài chọn sẵn, và ngài cũng đã thuê hẳn các gia sư cho mỗi môn học cần thiết giúp con trai ngài trở thành một người đàn ông thực thụ. "Cậu ấy còn quá bé cho tất cả những thứ này!" Bảo mẫu Hopkins la lên. "Không sao cả." Hastings đáp trả nhún nhường. "Rõ ràng là, ta không hy vọng thằng bé nắm vững hết được bất cứ cái nào trong khoảng thời gian này, nhưng không bao giờ là quá sớm để bắt đầu việc giáo dục một Công tước." Mời các bạn đón đọc Công Tước Và Em của tác giả Julia Quinn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bùn Pha Sắc Xám - Anthony Grey
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Bùn Pha Sắc Xám của tác giả Anthony Grey.
Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao
Nhà văn Uyên Thao tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953, ông cộng tác với nhiều tờ báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật. Sở trường của ông là sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tác phẩm của nhà văn Uyên Thao gồm đủ thể loại trong đó có những tác phẩm đã in trên báo và xuất bản như hai cuốn tiểu thuyết “Những Con Cọp Cháy Móng” đăng trên Tạp chí Sinh Lực-Sài Gòn từ năm 1959 đến 1961, “Trống Trận” đăng trên Nhật báo Tin Sáng vào năm 1964 và cuốn dã sử tiểu thuyết “Trong Ánh Lửa Thù” đăng trên Nhật báo Người Việt California từ năm 1996 đến 1997, và tập thơ viết trong tù “Không Tên” 1992. Ông cũng là nhà phê bình văn học với hai tác phẩm “Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960” gồm 6 tập do Nhà Xuất Bản Hồng Lĩnh ấn hành tại Sài Gòn năm 1970 và “Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970” do Nhà Xuất Bản Nhân Chủ ấn hành tại Saigon năm 1973. Ông cũng sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970 đến 1974. Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999, nhà văn Uyên Thao đã nghĩ đến chuyện thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Nhà văn Uyên Thao cho biết thêm là Tủ Sách Tiếng Quê Hương nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng việc này. “Tôi sang đây hơi trễ nhưng ngay khi mình nghĩ tới tủ sách này thì tôi viết thư cho tất cả những người bạn cũ tôi có được địa chỉ thì hầu như ai cũng sẵn sàng tiếp tay, ai cũng sẵn sàng ủng hộ. Chính vì vậy mình mới có thể thành lập được tủ sách.” Tủ Sách Tiếng Quê Hương được thành hình vào đầu năm 2000 vài tháng sau khi nhà văn Uyên Thao đặt chân lên nước Mỹ và tác phẩm đầu tiên được phát hành vào tháng 9 cùng năm là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. *** S áu năm sau đêm Trung Chính đẫm nước mắt cầm kiếm lệnh phóng ngựa như điên rời Thăng Long, đại quân Thát Đát tràn qua bắc thùy. Giữa mùa đông năm Tỵ, Ngột Lương xua quân từ Quí Châu, Vân Nam tiến vào đất Đại Việt. Kỵ binh Thát Đát xoài vó dọc dẫy Tượng Sơn theo tả ngạn sông Thao ào ạt tiến về xuôi. Các cứ điểm phòng thủ của quân Đại Việt từ Ngã Ba Hạc tới Phù Lỗ bị tràn ngập mau chóng trước sức tấn cônc) như vũ bão. Cuộc chiến đấu giữ nước được chuẩn bị gần mười năm vẫn không ngăn nổi quân Thát Đát tiến thẳng về Thăng Long. Triều đình bỏ kinh thành cho Thát Đát chiếm đóng. Thế nước chông chênh như bánh xe đang lăn trên bờ vực. Nhà vua băn khoăn hỏi Quốc Sư Thủ Độ: - Tình thế này liệu còn cách nào vượt khỏi nguy vong chăng? Vị lão thần nghiêng mái đầu bạc trắng về phía nhà vua. Cặp mắt trĩu ưu tư của ông quắc lên. Giọng ông trầm trầm nhưng quyết liệt, nhấn rõ từng lời: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo! Hơn một tháng sau, quân Đại Việt từ các lộ Hông, Khoái, Trường An, Thiên Trường dồn về phản công địch tại Đông Bộ Đầu, khôi phục kinh thành. Ngột Lương chuyển quân qua hữu ngạn sông Thao, gom lực lượng tại Qui Hoá, chuẩn bị mở đợt tấn công thử nhì về Thăng Long. Các thám tử Thát Đát trong vùng được lệnh cấp tốc về gặp chủ tướng Ngột Lương để tường trình về địa thế và quân tình Đại Việt. Cùng lúc Ngột Lương cho dựng trại chờ hội quân, chủ quán Quốc Oai khách điếm một mình một ngựa băng rừng tiến sâu vào miền tây bắc Qui Hoá, hướng về căn cứ Khau Pho. Hai ngày sau đó, kỵ binh Thát Đát nhận chịu một cuộc tấn công chưa hề gặp trên khắp các chiến trường từng in dấu chân ngựa của họ. Trong lúc cánh quân triều đình của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn từ lộ Quốc Oai vượt Trung Ha tiến lên, nghĩa binh lộ Qui Hoá dưới sự dắt dẫn của thủ lãnh Lý Trung Chính xuất hiện như tiếng sét bất ngờ nổ giữa trời trong, cắt nát kỵ binh Thát Đát thành từng toán nhỏ. Cuộc phối hợp giữa quân triều đình và nghĩa binh Qui Hoá dồn lực lượng Thát Đát vào thế bị động hoàn toàn từ phút khởi đầu trận đánh. Lần đầu tiên đoàn kỵ binh bách thắng khắp hoang mạc Bắc Á vừa xéo nát đế quốc Ba Tư và chinh phục Đại Lý lâm cảnh tan vỡ kinh hoàng. Những chiến sĩ áo chàm chập chờn biến hiện như những bóng ma và dũng mạnh như một bầy sư tử. Ngột Lương phải ra lệnh mở đường máu thoát thân, cuốn vó chạy dài về phương bắc dưới sự truy sát bén gót của quân Đại Việt. Những ngày cuối cùng của mùa đông năm Tỵ cũng là những ngày cuối cùng của ba vạn chiến binh Thát Đát vừa hung hăng vượt bắc thùy Đại Việt ít ngày trước đó. Ngột Lương chỉ còn vài chục thân tùy cắm đầu chạy không kịp thở, cố tránh thật xa đoàn quân áo chàm của chàng trai có cặp mắt như bốc lửa và cánh tay gươm không hề mệt mỏi. Vào lúc chờ nghĩa binh thu dọn chiến trường để tập hợp về xuôi, Lý Trung Chính trầm ngâm trên yên ngựa nhớ lại những người từng sát cánh bên chàng. Chàng nhớ tới người chú họ Lý Bảo Tuấn hầu như không lúc nào rời chàng nửa bước. Với tuổi già bảy chục, ông vẫn giữ nguyên khí phách của viên tướng trẻ lừng danh Trung Dũng Hầu thuở trước. Luôn luôn xông xáo trên đầu các hàng quân, ông chỉ chịu ngưng khi nhận một mũi tên Thát Đát cắm suốt qua tim. Trung Chính thở dài nhủ thầm: - Dù sao thì chú cũng hài lòng vì đã dự phần làm sống lại trận Như Nguyệt ngày xưa. Mời các bạn đón đọc Trong Ánh Lửa Thù của tác giả Uyên Thao.
Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh
“Những dấu chân của mẹ là tập 3 trong bộ ba tiểu thuyết Người kinh đô cũ (NXB Hội Nhà văn, 2004), Lửa kinh đô và Những dấu chân của mẹ (…). Hai nhân vật chính là Nguyễn Phúc Bửu Toàn và Đoan Thuận đã xuyên suốt tác phẩm. Bửu Toàn là một vương gia Tây học, làm Chánh văn phòng Tòa khâm sứ Trung Kỳ nhưng bí mật hoạt động cách mạng đã góp phần cùng nhân dân Huế và cả nước làm nên Cách Mạng Tháng Tám. Đoan Thuận là nữ sinh Đồng Khánh, nữ sinh Khải Định (thời đó trường Đồng Khánh chưa có ban tú tài), cô giáo trường Việt Anh đã tham gia cách mạng với lòng yêu nước thiết tha và nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ” (LTS của tạp chí Sông Hương). *** Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị  là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải Phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, thư ký toàn soạn rồi phó tổng biên tập tạp chi Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức… cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Campuchia… đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú. Trong khoảng 40 năm cầm bút cho đến nay chị đã xuất bản tám tập tiểu thuyết, bảy tập truyện và ký, hai tập thơ. Chị là một nhà văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ nên đề tài chiến tranh là đề tài được chị quan tâm nhiều nhất (…). Mấy năm gần đây chị mở rộng đề tài. Chị muốn tái hiện lại một số giai đoạn lịch sử quan trọng của Huế qua các tác phẩm dài hơi như tiểu thuyết Người Kinh Đô Cũ (dày 576 trang), Con gái người cung nữ … Về mảng đề tài này chị cũng đã có những thành công nhất định (…) Hà Khánh Linh là một nhà văn làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã vượt qua mọi chông gai, thử thách trên đường đời để tự khẳng định mình. Tôi rất đồng tình với điều mà chị tâm niệm: “Viết là một cách sống, một thái độ ứng xử trước cuộc đời” *** Đi thăm cô Minh Lý về gần ngót hai tháng rồi mà Anh Thi vẫn chưa vơi được cảm giác bàng hoàng lâng lâng bay bổng rất thực mà lại như mơ. Nhất là những ngày bên cô Minh Lý tâm trạng Anh Thi lúc nào cũng chao đảo giữa hai thái cực: hạnh phúc và đau khổ, vui mừng và tuyệt vọng, thỏa mãn và bức xúc... Thậm chí, trong niềm thương yêu kính trọng vào cùng vào hạn đối với mẹ thỉnh thoảng lại cộm lên một chút giận hờn. Rồi giận ba, giận anh Vĩnh Tuấn và giận cả chính mình. Từ sau khi có được Anh Thi - đứa con yêu quý mà Đoan Thuận gửi cho - quan ngài Nguyễn Phúc Bửu Toàn cứ ở nhà đợi Đoan Thuận, chứ không hề cất công đi tìm kiếm như buổi ban đầu Đoan Thuận bỏ nhà ra đi... Vì sao ba hành xử như vậy hở ba? Còn anh Vĩnh Tuấn, những ngày anh ở Sài Gòn, cự ly giữa anh với “dì Đoan Thuận” rất gần mà anh không hề hay biết. Những lần anh qua lại trên đại lộ Lê Lợi thênh thang cái biển hiệu mỹ viện Phúc Toàn ít nhất cũng một lần đập vào mắt anh, mà anh không hề có một chút suy nghĩ liên tưởng gì sao? Chưa bao giờ anh có ý định đi tìm gặp “dì Đoan Thuận” hoặc mơ gặp “dì Đoan Thuận” giữa Sài Gòn hoa lệ một thời sao?!... Khi những câu hỏi này được bật nên lời, thì anh Vĩnh Tuấn suy nghĩ một hồi lâu rồi cất giọng chậm rãi, rành mạch, mắt hơi trừng một chút với cô em gái Anh Thi - như thuở nào cô còn bé bỏng vậy: - Chúng ta ai cũng thương nhớ, mong chờ, day dứt, đau đớn, khắc khoải... không biết dì Đoan Thuận còn hay đã mất, nếu còn thì đang ở đâu? Như thế nào? Ra sao?... Có thể nói mấy chục năm qua không khí gia đình ta chưa có lấy một ngày vui thật sự, vì tâm trạng ấy luôn đè nặng lên tâm thức của mỗi người. Còn dì Đoan Thuận thừa biết tất cả những tình cảm ấy của mỗi một người trong chúng ta dành cho dì, thừa biết chúng ta đang ở đâu, làm gì... Nhưng dì đã chẳng hề coi trọng điều đó. Đối với dì thì những nguyên tắc của Tổ chức là cao nhất! Phương thức sống mà dì chọn lựa là tốt nhất! Dì sống vì lý tưởng mà dì đã chọn, vì ước mơ mà dì đã đạt được, vì nghĩa vụ mà Tổ quốc đã tin tưởng giao phó cho dì... Tất nhiên thiếu dì Đoan Thuận cách mạng vẫn thành công, nhưng chính dì muốn trong bản đại hợp xướng chiến thắng của dân tộc phải có sự góp mặt của dì. Chính dì đã từng nói với ba là dì có thể chết được rồi sau khi ba tiếp nhận tình yêu của dì. Con người khôn ngoan ấy đã không muốn chết bình yên trên chiếc giường của mình, trong ngôi nhà của mình. Con người ấy muốn sống một cuộc đời bằng nhiều cuộc đời cộng lại, nếu không muốn nói là nhân lên! Dì Đoan Thuận là như thế đó! Nếu anh không nhầm thì ngoài hai mươi tuổi ít nhất có một lần dì Đoan Thuận xác định đi vào chỗ chết, nhưng vẫn không chết. Đó là khi dì quyết định gửi em về Huế cho ba nuôi. Lời thư của dì viết cho ba anh đã thuộc lòng, và hẳn là em còn thuộc và nhớ hơn cả anh “... Sắp sửa vào chiến dịch mới. Tôi sợ lần ra đi này có thể không trở về, nên tôi đành phải gửi con tôi cho ngài nuôi dạy giúp...” Đó là mùa hạ năm 1948. Dì xác định mình có thể hy sinh. Nhưng ông trời còn để cho dì sống trên đời hai mươi năm nữa. Dì đã đi du học - như ước nguyện của ba ngày xưa mà vì quá yêu ba, nên dì không rời xa ba để đi học được. Dì học một ngành khoa học để làm đẹp cho bao người đàn bà con gái khác không được đẹp như dì. Cùng lúc, dì trở thành một cán bộ cách mạng hoạt động hợp pháp giữa thủ đô hoa lệ Sài Gòn trong một thời gian dài mà kẻ địch không hề hay biết. Thông minh, từng trải, đầy năng lực và dày dặn kinh nghiệm, hẳn là dì đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng được giao, để rồi cùng với đồng chí đồng bào làm nên một tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 lịch sử. Ngày kết thúc chiến dịch, một tay dì đã cứu sống hai thương binh bị thất lạc, rồi sau đó tự tay đưa các anh ra vùng an toàn, khi trở về dì mới bị địch bắt. Dì mãn nguyện lắm rồi, em không biết đó thôi! Em trách anh ở Sài Gòn lâu sao không nhìn thấy biển hiệu Phúc Toàn, và nếu đã nhìn thấy sao không có chút suy nghĩ, liên tưởng, tìm tòi... Nói thật với em, dạo đó - và cả về sau này - thỉnh thoảng nhìn thấy chỗ của các bà các cô lui tới để làm đẹp, là anh vội vã tránh xa ra! Có thể nói đàn bà con gái cứ mãi lo trau chuốt cái dung nhan cho lắm vào, thì đầu óc càng rỗng tuếch!... Hẳn là dì Đoan Thuận hàng ngày đều có đọc báo Sài Gòn, anh luôn ký tên thật dưới các bài báo, lẽ nào dì không nhận ra? Sao dì không chủ động đến tòa soạn tìm anh? Em biết không, khi em lặn lội cả năm trời đi tìm dấu tích của mẹ - từ tập nhật ký của mẹ để lại - cho đến những vùng miền mẹ đã từng qua, anh thương em lắm, vừa thương ba không còn nữa để biết được tin về mẹ. Nhưng bây giờ anh nghĩ khác. Nếu ba còn sống đến ngày nay để biết tất cả những sự ứng xử như thế của dì Đoan Thuận, chắc chắn ba sẽ buồn lắm. Thà ba không biết được những điều đó. Thà ba nửa tin nửa ngờ rằng dì Đoan Thuận đang còn sống ở đâu đó, hoặc đã hy sinh vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Mời các bạn đón đọc Những Dấu Chân của Mẹ của tác giả Hà Khánh Linh.
Đường Về - Erich Maria Remarque
“Tôi muốn mở cửa, đi vào trong phòng, tôi muốn nằm cuộn mình trên chiếc ghế bành, muốn ủ đôi bàn tay trong hơi ấm của gian phòng để hơi ấm ấy lan tỏa khắp người, tôi muốn nói chuyện, muốn mọi bạo tàn, khốc liệt và quá khứ sẽ tan chảy dưới đôi mắt yên lặng của người phụ nữ kia, và muốn bỏ chúng lại phía sau, muốn cởi bỏ chúng như cởi bỏ một bộ quần áo bẩn.” *** Trở về - là khải hoàn sau những năm chiến chinh, là đoàn tụ sau thời gian xa cách, là khoảnh khắc ấm áp của những con người đã tìm lại được nhau… Nhưng cuộc trở về của những người lính Đức sau Thế chiến I lại là hành trình khắc nghiệt của những cánh chim lạc bầy vật lộn giữa bão giông tìm đường quay lại cố hương, là gánh nặng của lửa đạn chiến tranh chết chóc, là hố thẳm ngăn cách giữa hai phần của cuộc đời. Và cả khi vượt qua tất cả để sang tới bến bờ bên kia, họ cũng chưa chắc sẽ tìm được những gì dấu yêu mình từng để lại sau lưng vào cái năm ly biệt. Đây là lần đầu tiên Đường về, tác phẩm được xem như phần hậu của Phía Tây không có gì lạ bởi sự tái xuất của một số nhân vật, ra mắt tại Việt Nam. Qua bản dịch đầy hồn lính mà vẫn đậm chất thơ của dịch giả Vũ Hương Giang, độc giả sẽ lại được gặp một Remarque rất khác, vừa khắc nghiệt lại mơ màng, trong tuyệt vọng lại hồi sinh hy vọng. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Đám lính còn sót lại của trung đội hai nằm nửa thức nửa ngủ trong chiến hào tan nát vì đạn pháo sau tuyến lửa. "Trái phá gì mà kỳ quái!" Jupp nói. "Sao cơ?" Ferdinand Kosole nhổm lên hỏi. "Thử nghe đi!" Jupp đáp. Kosole khum tay lên tai nghe ngóng. Và cả lũ chúng tôi cùng lắng tai vào màn đêm. Nhưng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nổ ì ầm của đại bác và tiếng rít của trái phá. Từ phía bên phải chỉ còn vọng đến tiếng súng máy tạch tạch và thi thoảng một tiếng kêu đơn độc. Nhưng chúng tôi đã quen với tất cả những thứ này từ nhiều năm nay, nên làm quái gì mà phải há hốc mồm ra như thế. Kosole nhìn Jupp ngờ vực. "Nó vừa dừng tức thì rồi," anh chàng kia lúng túng phân bua. Kosole nhìn bạn lần nữa đầy dò xét. Nhưng vì Jupp vẫn tỉnh bơ, anh quay đi càu nhàu: "Có mà bụng cậu sôi réo, chứ trái phá mẹ gì. Cứ ngủ đẫy mắt đi có hơn không." Vừa nói Kosole vừa vỗ vỗ đất thành hình cái gối và thận trọng nằm duỗi dài sao cho đôi ủng không thể tuột xuống nước. "Khỉ thật, trong khi ở nhà mình có hẳn một cô vợ và một cái giường đôi," anh làu bàu, mắt đã díp lại.   "Sẽ có một gã nào đó nằm ghé tí,' Jupp nói chõ ra trong xó của mình. Kosole hé một mắt, ném cho Jupp cái nhìn sắc lạnh. Có vẻ như anh định chồm dậy. Nhưng anh chỉ gầm gừ: "Tao chẳng khuyên cô ta làm vậy, cái đồ cú vọ nhà mày!" Liền sau đó anh đã cất tiếng ngáy. Jupp ra hiệu cho tôi qua chỗ anh ta. Tôi bò qua đôi ủng của Adolf Bethke và ngồi xuống bên Jupp. Cẩn thận ngó chừng anh chàng đang ngáy ngon lành, Jupp nói vẻ cay độc: "Cái ngữ ấy chả có tí học thức nào, nói để cậu biết." Trước chiến tranh Jupp từng làm thư ký cho một luật sư ở Köln. Mặc dù đi lính đã ba năm, anh ta vẫn giữ một tâm hồn nhạy cảm; và vẫn rất xem trọng việc tỏ ra là người có học thức ngoài chiến trường. Điều ấy thực sự có nghĩa gì, cố nhiên chính Jupp cũng chả rõ, nhưng trong tất cả những thứ trước kia anh ta đà từng nghe thì riêng cái từ "học thức" lại bắt rễ trong đầu anh ta, và anh ta bám chặt lấy nó như chết đuối vớ được cọc. Thật ra ai ở đây cũng có thứ gì đó đại loại như vậy: người này là vợ, người kia là cửa hiệu, kẻ nọ lại là đôi ủng, với Valentin Laher là rượu, còn với Tjaden đó là ước muốn được một lần nữa chén đẫy bụng món đậu nấu mỡ muối. Ngược lại, Kosole bao giờ cũng dị ứng với từ "học thức", với anh cái từ đó luôn liên quan đến lũ mặc áo cổ cồn, mà thế là quá đủ. Nên lúc này dù đang ngủ anh vẫn cáu tiết. Vừa ngáy anh vừa văng ra cộc lốc: "Rõ cái đống phân sặc mùi thư lại!" Jupp lắc đầu vẻ nhẫn nhịn và cao thượng. Chúng tôi im lặng ngồi sát bên nhau hồi lâu để sưởi ấm. Đêm lạnh và ẩm ướt, mây mù bao phủ, đôi lúc có mưa. Khi mưa, chúng tôi lôi những tấm vải bạt đang lót dưới người lên che đầu. Chân trời lóa sáng ánh lửa đạn. cảm giác dường như ở đó không lạnh như nơi đây, trông vui mắt dễ chịu thế cơ mà. Những trái phá bay vút lên trên những loạt pháo sáng, tựa những bông hoa sặc sỡ lấp lánh ánh bạc. Mặt trăng khổng lồ, đỏ ối lững lờ trôi trong sương mù bên trên những đống đổ nát của một nông trại. "Cậu có nghĩ là bọn mình sẽ về nhà không?" Jupp thì thầm. Tôi nhún vai. "Thì nghe nói thế..." Jupp thở dài. "Một căn phòng ấm áp, có ghế sofa, buổi tối đi chơi... Cậu còn hình dung nổi hay không?" "Lần về phép gần đây nhất, em đã thử lại những bộ thường phục của mình," tôi trầm ngâm nói, "nhưng đều chật quá rồi. Có lẽ sẽ phải sắm quần áo mới." Những từ: thường phục, sofa, buổi tối... vang lên nơi đây nghe sao lạ lẫm thế chứ. Những ý nghĩ kỳ quái nảy ra trong đầu... Giống như thứ cà phê đen đôi khi nặng vị thiếc và gỉ sắt đến nỗi vừa uống vào sẽ lập tức ọe ra nóng rẫy. Jupp mơ màng ngoáy mũi. "Ui chao, những quầy hàng... những quán cà phê... và đàn bà..." ... Mời các bạn đón đọc Đường Về của tác giả Erich Maria Remarque.