Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Phù Thủy Thành Florence

Nàng phù thủy thành Florence (Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch - Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) là tiểu thuyết thứ tám của Salman Rushdie. Ông không chỉ được biết đến với giải Man Booker năm 1981 cho cuốn tiểu thuyết Những đứa trẻ lúc nửa đêm, mà còn nổi tiếng vì bị giáo chủ Iran Khomeini kết án tử hình vắng mặt, với lý do cuốn tiểu thuyết Những vần thơ của quỷ Satan (1988) của ông được cho là xúc phạm sâu sắc đến giới tăng lữ Hồi giáo. Trong bài phỏng vấn được Lévai Balázs thực hiện, Salman Rushdie có nói rằng: “Tách câu chuyện ra khỏi văn học là một nhầm lẫn”, và “phản xạ đầu tiên của tôi là không làm cho độc giả chán” (Thế giới là một cuốn sách mở, Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam và NXB Văn Học). Có lẽ đối với ông, câu chuyện luôn nằm ở vị trí trung tâm của văn học. Ðiều này trái với xu hướng gạt bỏ vai trò trọng yếu của cốt truyện ra khỏi tác phẩm mà ta thường thấy trong tự sự hiện đại. Salman Rushdie không xây nên một cốt truyện mỏng mảnh, rồi bồi đắp cho tác phẩm bằng những miêu tả, ghi chép, bình luận phong phú, mà ông chủ trương chỉ kể những câu chuyện và từ đó tác phẩm ra đời. Cuốn Nàng phù thủy thành Florence có hàng chục câu chuyện lớn nhỏ như thế khác nhau, tạo nên một thế giới chuyện kể phong phú và huyền ảo, pha lẫn sắc màu Ðông - Tây. Tự nhận là một nhà văn được cả hai thế giới Ấn Ðộ và Anh chấp nhận, Salman Rushdie dựng nên phông nền cho cuốn tiểu thuyết thứ tám của mình bằng chính chất liệu của hai thế giới ấy. Florence thời Phục hưng và đế chế Mughal nằm trên tiểu lục địa Ấn Ðộ thế kỷ thứ 16 - thời kỳ rực rỡ của văn học, nghệ thuật và tôn giáo. Cuốn sách kể hai câu chuyện chính song song nhau, bên cạnh hàng loạt câu chuyện khác. Ðó là cuộc phiêu lưu của nàng công chúa Qara Köz thuộc vương triều Mughal. Ðó còn là cuộc sống của ba người bạn từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành tại Florence. Mỗi người mang một niềm tin khác nhau vào cuộc đời. Nổi bật và là yếu tố gắn kết hai câu chuyện là sức sống của nàng công chúa thất lạc Qara Köz. Nàng bắt đầu ra đi khỏi một vùng đất, chu du khắp nơi để rồi xuất hiện lại tại chính vương quốc mà nàng đã từ bỏ sau quãng thời gian dài, trong một hình thái khác. Song trong suốt cuộc hành trình đầy biến động đó, tâm trí nàng vẫn chỉ đắm chìm trong một thế giới khép kín, bất biến của tự do, tình yêu và sự khát khao nhục thể. Sự xuất hiện của Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một trong những chi tiết lịch sử có thật được nhắc tới trong cuốn tiểu thuyết này. Song ông không chỉ được nhìn nhận là một nhà ngoại giao, triết học chính trị, tác giả của cuốn sách Quân vương mà còn là một con người với những khát khao thông thường nhất. Ðiển hình là lòng ngưỡng mộ và tình yêu ông dành cho Qara Köz Cùng với Haroun và biển truyện đã được xuất bản trước đây tại VN, Nàng phù thủy thành Florence một lần nữa chứng tỏ Salman Rushdie luôn là người biết kể những câu chuyện dài theo một cách rất đặc biệt, đầy hào hứng và tràn ngập bất ngờ.. *** Nàng phù thủy đầy mê hoặc của Salman Rushdie Một người đàn bà gần như không có thật nhưng lại mê hoặc được vị quân vương anh minh bậc nhất. Đôi khi một dung nhan tuyệt mỹ không tồn tại trong một hình hài cụ thể... Tên sách: Nàng phù thủy thành Florence Tác giả: Salman Rushdie Nhà xuất bản: Hội nhà văn Salman Rushdie đưa chúng ta đến vương triều Mughal - một vùng đất giàu có và quyền lực bậc nhất. Ở đó có Akbar đại đế, đấng minh quân được cả vương quốc tôn sùng. Ông là một vị vua luôn bị dằn vặt bởi những câu hỏi đầy triết lý của chính mình. Tâm trí Akbar luôn bị bủa vây bởi sự lo sợ về những tai ương sẽ xảy đến với một bậc quân vương. Nhưng sâu thẳm bên trong vị vua đầy quyền lực này là gì? Câu trả lời chỉ có một: sự cô độc. Một người đàn ông có tất cả những vật chất xa hoa nhưng chẳng có lấy một ai để chia sẻ. Một người đàn ông có trong tay những người phụ nữ đẹp nhất nhưng chưa bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Quyền lực đã trở thành một vật cản để Akbar mở lòng mình. Chính sự cô đơn trong hào nhoáng này đã khiến vị hoàng đế quyền uy phải tự thỏa mãn bằng một mỹ nhân do chính mình tưởng tượng ra. Đó chính là một người phụ nữ không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà còn biết vẽ hình xăm, ca hát và nhảy múa... Người phụ nữ không chỉ làm cho Akbar mê đắm mà khiến cho tất cả đàn ông trên thế gian này đều phải khuất phục trước vẻ đẹp của nàng. Bằng âm mưu đầu độc cả đoàn thủy thủ đến từ Anh Quốc, tên lừa đảo Niccolò Machivavell đã đến vương quốc Mughal với cái tên Mogor dell'Amore. Hắn là đứa con của thành Florence thời kỳ cực thịnh, một tên tinh ranh bậc nhất. Bất cứ điều dối trá nào cũng có thể được nói ra từ miệng của hắn. Đó là con người chỉ bằng khả năng ba hoa và lừa phỉnh của mình mà từ một đứa trẻ mồ côi bơ vơ đầu đường xó chợ leo lên được chiếc ghế cao quyền lực và làm cho kẻ khác phải điêu đứng. Đặc biệt hắn là kẻ dâm đãng điên cuồng. Hắn luôn bị ám ảnh bởi vẻ đẹp thể xác của phụ nữ, dẫu đó là một ả gái điếm trong nhà thổ. Do sự sắp đặt tài tình của thượng đế hay chỉ là điều tình cờ mà hai người đàn ông đã gặp nhau và kể cho chúng ta nghe câu chuyện về nàng phù thủy thành Florence. Phù thủy thành Florence thực chất là ai? Mỹ nhân tuyệt sắc chính là sự pha trộn giữa La Fiorentina - ả gái điếm xinh đẹp nhất thành Florence và Qara Koz - nàng công chúa quyến rũ mang dòng dõi Thành Cát Tư Hãn đã bị thất lạc nhiều năm. Nhờ miệng lưỡi khôn lường của Niccolò mà hai người phụ nữ đã hợp thành một. Và mỹ nhân tuyệt sắc này đã xoa dịu trái tim cô đơn của hoàng đế, giúp một tên tha phương giảo hoạt nắm trong tay quyền lực. Dù là vương triều Mughal, hay thành Florence thì đó đều là nơi đàn ông làm chủ. Ở đó, bề ngoài phụ nữ được yêu chiều, được ngưỡng mộ, được theo đuổi; nhưng thực chất họ chỉ bị sở hữu chứ không được yêu. Đàn ông chỉ coi phụ nữ là công cụ để thỏa mãn những đam mê thể xác và thói quen sở hữu của mình. Những người đàn ông luôn nghĩ họ có thể điều khiển được người phụ nữ. Nhưng họ đã nhầm! Những con người thông minh nhưng độc đoán ấy, đã lún quá sâu vào dục vọng không tưởng. Để rồi nàng phù thủy của thành Florence đã chế ngự họ một cách khéo léo. Những người đàn ông đã tự rơi vào cái bẫy do họ tự đặt ra mà vẫn tưởng rằng mình là người thắng cuộc.  body-2-9211-1396949276.jpg Tác giả Salman Rushdie.   Nàng phù thủy thành Florence là một tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tình dục nhưng không hề dung tục. Nó đưa người đọc vào sâu hơn nữa phần "người" trong mỗi chúng ta. Lấy bối cảnh là vương quốc Mughal của Ấn Độ và thành Florence của Italy - hai trung tâm tôn giáo lớn của đạo Hindu và đạo Thiên Chúa giáo. Tác phẩm đã tạo nên một không gian tôn giáo và văn hóa đa màu sắc. Tiểu thuyết là sự giao thoa không gian văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Ở đó, ta bắt gặp những nét văn hóa truyền thống, độc đáo của Ấn Độ như: nghệ thuật dùng hương liệu, nghệ thuật vẽ hình xăm và những điệu múa đầy mê hoặc. Lấy bối cảnh là hai "mảnh đất thánh", không gian truyện đậm màu sắc tôn giáo. Ta có thể cảm nhận được sự sùng kính của những con chiên ngoan đạo với Đức tin của mình. Được đặt trong một không gian văn hóa độc đáo nên những điều Salman Rushdie muốn chuyển tải đến độc giả không chỉ là nhục cảm bình thường. Là một nhà văn tài năng, Salman Rushdie dám sống hết mình vì văn chương. Ông đã đoạt giải Booker của Anh vào năm 1981 cho tác phẩm Midnight's children (tạm dịch: Những đứa con của nửa đêm). Do quan điểm táo bạo về tôn giáo, ngày 14/2/1989 ông bị kết án tử hình vắng mặt. Rushdie được nước Pháp trao tặng Huân chương văn học nghệ thuật vào năm 1999 và Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ vào tháng 6/2007 vì sự nghiệp văn chương. Tuy còn nhiều đánh giá trái chiều về đóng góp của ông cho văn học, nhưng không thể phủ nhận Rushdie là một trong những tác gia văn chương đáng kể hiện nay. Quỳnh Anh *** Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh dưới kinh thành như biển vàng nung chảy. Một lữ khách thả bước lối này trong hoàng hôn - lữ khách ấy, bấy giờ, thả bước lối này, dọc con đường ven hồ - tưởng đâu mình đang đến gần ngai vàng của vị quốc vương giàu có hoang đường đến mức có thể cho phép trút một phần kho báu của mình vào một cái hố khổng lồ trong lòng đất khiến cho khách khứa của ngài lóa mắt và kinh sợ. Lớn bằng cả một hồ vàng, nhưng chắc hẳn chỉ là một giọt nước nhểu ra từ biển của cải còn lớn hơn nữa - trí tưởng tượng của người lữ khách không thể nắm bắt được tầm vóc mẹ đại dương! Cũng không có người lính canh nào bên mé hồ nước vàng; phải chăng nhà vua hào phóng đến mức cho phép mọi thần dân của mình, có lẽ cả những người xa lạ và những vị khách như chính người lữ khách đây, được thoải mái múc lấy thứ tặng vật lỏng từ dưới hồ? Quả thật có một ông hoàng trong số mọi người, tên gọi là Prester John. Vương quốc của chàng nay đã mất, toàn những bài ca và truyền thuyết, hàm chứa những điều không thể tin được. Có lẽ (người lữ khách phỏng đoán) đài phun nước thanh xuân vĩnh cửu nằm bên trong những bức tường thành - hay biết đâu ngay cả cánh cửa trong truyền thuyết dẫn đến Thiên dường trên Mặt đất cũng ở đâu đấy cận kề tầm tay? Nhưng sau đó mặt trời lặn dưới chân trời, khối vàng chìm xuống dưới mặt nước, biến mất. Các nhân ngư và mãng xà lại canh gác nó cho đến khi ánh sáng ban ngày trở lại. Từ giờ cho đến lúc ấy, kho báu duy nhất mời gọi sẽ chỉ là nước hồ, tặng vật mà người lữ khách khát bỏng chấp nhận đầy biết ơn. Người khách lạ đi trên một cỗ xe bò, nhưng thay vì ngồi trên những tấm đệm xù xì trên xe, y lại đứng như một vị thần, một tay hờ hững bám vào tay vịn của khung gỗ mắt cáo chiếc xe. Chuyến đi bằng xe bò hoàn toàn không êm ả, cỗ xe hai bánh lắc lư xóc nảy theo nhịp bước của con vật, tùy theo cả sự thất thường của mặt đường phía dưới. Một kẻ đứng trên xe có thể dễ dàng ngã gãy cổ. Tuy nhiên, lữ khách vẫn đứng, vẻ bất cẩn và hài lòng. Người đánh xe từ lâu đã không còn quát tháo y nữa, ban đầu anh ta cho gã xa lạ này là kẻ gàn dở - nếu hắn muốn chết trên đường thì kệ hắn, chẳng người nào ở cái đất nước này thương tiếc! Tuy nhiên, không lâu sau, thái độ dè bỉu của người đánh xe nhường chỗ cho sự ngưỡng mộ đầy ác cảm. Người này có thể hơi ngốc nghếch thật, nhưng ta có thể nói mà không sợ quá lời rằng y có gương mặt gã khờ quá đẹp và mặc bộ quần áo gã khờ không phù hợp - một chiếc áo choàng chắp vá từ những mảnh da nhuộm màu hình quả trám, trong tiết trời nóng như thế! Nhưng tài giữ thăng bằng của y thì không chê vào đâu được, thật đáng kinh ngạc. Con bò đực bước đi khó nhọc, bánh xe va phải ổ gà, vào đá, vậy mà người đang đứng ấy hầu như không lắc lư, và bằng cách nào đó vẫn tỏ ra phong nhã. Một gã khờ phong nhã, người đánh xe nghĩ, hay có lẽ không khờ khạo chút nào. Có thể là kẻ nào đó đáng cho ta trông cậy. Giả sử y có lỗi, thì ấy là lỗi cố gắng không chỉ là chính y mà còn là màn trình diễn của y, vả chăng, người đánh xe nghĩ, xung quanh đây mọi người đều phần nào như thế, vì vậy suy cho cùng người này không hoàn toàn xa lạ với bọn ta. Khi lữ khách bảo rằng y khát, người đánh xe bỗng thấy mình đi đến bờ nước múc một cốc bằng quả bầu rỗng đánh bóng, đoạn giơ ra cho khách lạ uống, hệt như thể y là một quý tộc xứng đáng được người ta hầu hạ. “Anh cứ đứng đó như ông lớn, còn tôi chạy nháo nhào theo yêu cầu của anh,” người đánh xe nhíu mày nói. “Tôi không hiểu sao mình đối xử tốt với anh vậy. Ai cho anh cái quyền ra lệnh cho tôi? Anh là ai nào? Không phải một quý tộc, cái đó thì chắc rồi, nếu không thì đã chẳng ở trên cỗ xe bò này. Nhưng vẫn có cái vẻ ta đây ở anh. Vậy có lẽ anh thuộc loại du côn du kề.” Người kia vục vào quả bầu để uống. Nước trào qua khóe miệng vương vào chiếc cằm cạo nhẵn giống như bộ ria bằng chất lỏng. Lúc lâu sau, y trả lại quả bầu rỗng, thở dài hài lòng, lau nước dính ở ria. “Tôi là ai?” y nói, như thể đang nói một mình, nhưng lại dùng ngôn ngữ của chính người đánh xe. “Tôi là người có một điều bí mật, và điều bí mật đó là gì, chỉ có tai của hoàng đế mới nghe thấy được.” Người đánh xe chắc mẩm: gã này khờ thật rồi. Không cần phải kính cẩn với y nữa. “Cứ giữ lấy bí mật của anh,” anh ta nói. “Chúng chỉ dành cho trẻ con, và gián điệp.” Người lạ xuống xe bên ngoài trạm nghỉ dành cho khách lữ hành, nơi mọi hành trình bắt đầu và kết thúc. Y cao đến lạ và xách theo một cái túi may bằng vải thảm. “Và cho các thầy phù thủy,” y nói với người đánh xe bò. “Cho cả các tình nhân. Và những vị vua.” Ở trạm nghỉ, đâu đâu cũng ồn ào, náo nhiệt. Gia súc được chăm sóc: ngựa, lạc đà, bò đực, lừa, dê, trong khi thú hoang chưa thuần thì chạy loạn xạ: bọn khỉ kêu choe chóe, lũ chó chẳng phải thú cưng của ai. Đám vẹt la hét inh tai bay ùa ra như pháo hoa xanh trên bầu trời. Thợ rèn đang làm việc, cả thợ mộc cũng thế, còn trong các cửa hàng tạp hóa khắp bốn phía quảng trường rộng lớn, những người đàn ông chắc nịch lực lưỡng tính toán trù liệu hành trình, mua tích trữ đồ tạp hóa, nến, dầu, xà phòng, dây thừng. Những anh cu li đội khăn xếp mặc áo đỏ đóng khố dhoti không ngừng chạy tới lui đây đó, với những bó to không hiểu nổi và nặng trĩu trên đầu. Nhìn chung là rất nhiều hàng lên hàng xuống. Giường nghỉ qua đêm ở đây hẳn rẻ, những chiếc giường căng dây khung gỗ trải đệm lông ngựa chăn bông, sắp hàng như đội hình nhà binh trên mái những tòa nhà một tầng vây quanh cái sân lớn mênh mông của khu nhà trạm, những chiếc giường nơi người ta có thể nằm ngửa mặt lên trời mà tưởng tượng mình là thiên sứ. Xa hơn, về phía Tây, là doanh trại rì rầm của các đoàn quân của hoàng đế mới từ chiến trận trở về. Quân đội không được phép vào khu vực cung điện mà phải ở lại đây dưới chân ngọn đồi hoàng gia. Một đội quân thất nghiệp, mới từ chiến trường về, phải được đối xử cẩn trọng. Khách lạ nghĩ đến La Mã cổ đại. Một hoàng đế không tin người lính nào trừ vệ sĩ của mình. Người lữ khách biết rằng câu hỏi về lòng tin chính là câu hỏi y sẽ phải trả lời thật thuyết phục. Bằng không, y sẽ sớm mất mạng. Cách không xa khu nhà trạm, một ngọn tháp tua tủa những ngà voi đánh dấu cổng vào cung điện. Mọi con voi đều thuộc về hoàng đế, và việc trang trí tháp bằng ngà voi thể hiện quyền lực của ông. Hãy cẩn thận! ngọn tháp cảnh báo. Ngươi đang bước vào địa phận của Vua Voi, vị quốc chủ sở hữu nhiều giống vật da dày này đến độ có thể hoang phí răng nanh của hàng nghìn con thú khổng lồ chỉ để trang trí cho tôi đấy. Qua cách phô trương sức mạnh của tháp, người lữ khách nhận thấy cũng cái tính chất phô trương ấy nóng bỏng trên trán y như một ngọn lửa, hay dấu ấn của Quỷ dữ; nhưng người làm ra ngọn tháp này lại chuyển thành sức mạnh cái phẩm tính mà ở người lữ khách thường được xem như một nhược điểm. Quyền lực có phải là lý do duy nhất biện minh cho một cá tính hướng ngoại? lữ khách tự hỏi và không trả lời được, song tự thấy mình hy vọng rằng vẻ đẹp có thể là một lý do nữa, bởi y chắc là mình đẹp, và biết rằng dáng vẻ ngoài của y cũng có sức mạnh riêng. Xa hơn tòa tháp ngà voi là một cái giếng to đại, bên trên nó là một hệ thống cấp nước phức tạp đến không sao hiểu nổi phục vụ cung điện nhiều mái vòm trên đỉnh đồi. Không có nước, chúng ta chẳng là gì, người khách nghĩ. Thậm chí một hoàng đế không có nước cũng sớm thành tro bụi. Nước là đấng quân vương đích thực và tất cả chúng ta là nô lệ. Một lần ở nhà tại Florence y đã gặp một người có thể làm cho nước biến mất. Pháp sư này đổ nước đầy đến miệng bình, lẩm nhẩm câu thần chú, lật ngược cái bình, thế là thay vì nước, vải vóc tuôn ra, một dòng những khăn lụa nhiều màu xối xả. Đó chỉ là mẹo lừa, tất nhiên, và chưa hết ngày hôm đó người khách đã moi được bí mật của gã phù thủy và cất đi cùng những bí mật khác của mình. Y là một người có nhiều điều bí mật, nhưng chỉ có một điều xứng cho một vị vua. Con đường dẫn đến tường thành bỗng nhiên dốc hơn và trong khi leo dốc, y nhìn thấy tầm cỡ của cung điện nơi mình đến. Rõ ràng nó là một trong những thành phố lớn trên thế giới, theo quan sát của y, lớn hơn Florence, Venice hoặc Rome, lớn hơn bất kỳ thành phố nào mà lữ khách từng thấy. Y đã thăm Luân Đôn một lần; nó cũng nhỏ hơn nơi này. Khi ánh sáng nhạt nhòa đi, thành phố dường như lớn hơn lên. Những khu dân cư đông đúc chen chúc bên ngoài tường thành, thầy tu báo giờ từ trên những tòa tháp giáo đường, và từ xa, y nhìn thấy ánh sáng của những điền trang lớn. Lửa bắt đầu cháy trong ánh chiều chạng vạng, như những lời cảnh báo. Từ trên mái vòm tối đen của bầu trời xuất hiện ánh sáng hồi ứng của những vì sao. Như thể trái đất và thiên đường là những đội quân sắp xung trận, y nghĩ. Như thể doanh trại của hai bên ém mình trong đêm chờ đợi trận chiến của ban ngày nổ ra. Và trong tất cả những đường ngang ngõ tắt này, trong tất cả những ngôi nhà của kẻ quyền thế kia, xa hơn nữa, trên các cánh đồng, sẽ không người nào nghe nói đến tên y, không ai tin được câu chuyện mà y sắp kể. Nhưng y vẫn phải kể. Y đã vượt qua cả thế gian để làm điều đó, và y sẽ làm. Y sải những bước dài và cuốn theo nhiều ánh mắt tò mò, vì mái tóc vàng cũng như chiều cao, mái tóc vàng và phải thừa nhận là bẩn thỉu của y xõa quanh khuôn mặt giống như mặt nước bằng vàng trên hồ. Con đường mòn thoai thoải đi qua tòa tháp ngà voi, dẫn đến cổng đá bên trên có phù điêu hai con voi quay mặt vào nhau. Qua cái cổng để ngỏ vọng đến tiếng người đang vui chơi, ăn uống, tiệc tùng. Có những người lính đứng gác ở cổng Hatyapul, nhưng tư thế của họ thoải mái. Những rào cản thực còn ở phía trước. Đây là nơi công cộng, một chốn dành cho việc họp hành, mua bán và giải trí. Người ta vội vã đi qua trước mặt khách lữ hành, bị thôi thúc bởi cái đói và cơn khát. Ở cả hai bên con đường lát đá giữa cổng bên ngoài và bên trong là những nhà trọ, quán rượu, tiệm ăn, cả người bán hàng rong đủ loại. Công việc mua bán muôn đời chính là đây. Quần áo, đồ bếp núc, đồ trang sức rẻ tiền, vũ khí, rượu rum. Chợ chính nằm ở phía dưới cổng thành nhỏ hơn về phía Nam. Cư dân trong thành thường mua bán ở đó mà tránh nơi này, vốn chỉ dành cho những người mới đến ngờ nghệch không biết giá thật của các thứ. Đây là chợ của những kẻ bịp bợm, chợ của kẻ cắp, những kẻ giọng khàn, nói thách và bần tiện. Song những khách lữ hành mệt mỏi, không rành địa bàn thành phố, bao giờ cũng ngại, không muốn đi bộ vòng quanh bức tường thành bên ngoài để đến khu chợ lớn giá cả phải chăng hơn, nên họ không còn cách nào ngoài giao dịch ngay với các thương gia ở cổng voi. Nhu cầu của họ thường khẩn và đơn giản. Lũ gà sống, kêu ầm ĩ vì hoảng sợ, bị treo ngược đầu, đập cánh loạn xạ, hai chân bị trói vào nhau, chờ nồi nước sôi. Đối với người ăn chay thì có thứ khác, những cái nồi yên ả hơn; rau cỏ không kêu gào. Và có phải người khách nghe thấy trong gió tiếng những người đàn bà đang kêu réo, đùa bỡn, chào mời, cười cợt những người đàn ông vô hình? Có phải đó là những người đàn bà mà y ngửi thấy mùi trong gió chiều? Dù sao thì cũng đã quá muộn, không thể đi tìm hoàng đế đêm nay được. Khách có tiền trong túi và đã trải qua một hành trình dài, vòng vo. Con đường y đi như thế này: tiến đến đích một cách gián tiếp, với nhiều lần tạt ngang, thơ thẩn. Kể từ đặt chân đến Surat, y đã đi qua Burhanpur, Handia, Sironj, Narwar, Gwalior và Dholpur cho đến Agra, rồi từ Agra đến đây, kinh đô mới này. Bây giờ y muốn có một cái giường thật tiện nghi, và một người đàn bà, tốt nhất là không có ria, và cuối cùng là một lượng lãng quên, trốn chạy khỏi chính mình nhất định, thứ không bao giờ tìm thấy được trong vòng tay đàn bà mà chỉ có trong cơn say đến độ. Sau đó, khi những khát khao được thỏa mãn, y lăn ra ngủ trong một nhà chứa nồng nặc, ngáy ầm ĩ bên một gái điếm bị mắc chứng mất ngủ, và mơ. Y có thể mơ bằng bảy thứ tiếng: Ý, Tây Ban Nha, Ả Rập, Ba Tư, Nga, Anh, Bồ Đào Nha. Y nhặt được các thứ tiếng này dọc đường đi theo cách giống như hầu hết cánh thủy thủ nhiễm bệnh vào người; ngôn ngữ là bệnh lậu của y, bệnh giang mai của y, bệnh xcobuýt của y, bệnh truyền nhiễm của y. Ngay khi y thiếp đi, một nửa thế giới bắt đầu thì thào trong óc y, kể những câu chuyện của những lữ khách phi thường. Trong thế giới mới được khám phá nửa vời này, mỗi ngày đều mang đến tin tức về những phép màu mới. Bài thơ-giấc mộng thấu thị và khai ngộ của cái hằng ngày hãy còn chưa bị nghiền nát bởi thực tế buồn tẻ, bị che đậy. Bản thân y, một người kể chuyện, bị những câu chuyện kỳ thú đưa chân ra khỏi nhà, một trong số đó có thể đem lại cho y một gia tài hoặc khiến y phải trả giá bằng sinh mạng. Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Phù Thủy Thành Florence của tác giả Salman Rushdie & Nguyễn Thị Hiền Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vẻ Đẹp Nguy Hiểm - Melissa Marr
Vẻ đẹp nguy hiểm trải ra trước mắt người đọc thế giới của chính họ, nhưng là một thế giới kỳ bí, đa màu sắc và nhiều tầng hơn. Thông qua một chiếc kính vạn hoa đặc biệt có tên gọi Khả năng Thấu thị, Melissa Marr giúp người đọc nhìn sâu vào khoảng không quanh mình. Giơ ống kính đó lên, chúng ta sẽ thấy thành phố hiện đại của thế kỷ XXI không chỉ có cao ốc, đường phố trải nhựa hay công viên xanh ngát, mà còn có vương triều mùa hè, vương triều mùa đông, vương triều bóng tối, còn nhung nhúc những người-vỏ-cây, người-xương-cốt, người-sói, người-sư-tử... và các sinh thể tương tự. Chúng có vảy, có cánh, có dây leo khắp mình, và đặc biệt nhất là chúng đầy sức mạnh, biết tàng hình hoặc khoác vỏ bọc phàm nhân để hiện thân. Chúng đi loanh quanh bên con người, xô đẩy, cấu véo, sờ soạng, hăm dọa, gầm gừ với họ, nhưng không ai trông thấy và do đó không cảm nhận được... nhưng Aislinn Foy thì khác. 17 tuổi, xinh đẹp, Aislinn sở hữu Khả năng Thấu thị đặc biệt giúp cô nắm bắt mọi động tĩnh của bọn yêu tinh. Tuy vậy nó khiến cô khốn khổ thay vì thích thú. Bởi sở hữu khả năng đặc biệt này đồng nghĩa với việc mấp mé mối nguy hiểm thường trực. Lũ yêu tinh mạnh mẽ kia coi tàng hình là một trong các ưu đãi của giống loài mình, chúng sẽ trừng phạt dã man những kẻ bất hạnh nhìn thấy chúng, có thể là móc mắt, cắt lưỡi hoặc giết chết. Vì vậy Aislinn đã phải giấu kín bí mật này bằng cách tuân theo các nguyên tắc bất di bất dịch của gia đình: Nguyên tắc 3: không nhìn vào những con tinh vô hình Nguyên tắc 2: không nói chuyện với những con tinh vô hình Nguyên tắc 1: không thu hút sự chú ý của chúng. 3 nguyên tắc này đã giúp Aislinn gắng gượng yên ổn sống suốt 17 năm. Mặc dù lúc nào cô cũng thấp thỏm trước cảnh những con tinh quấy phá người thường và cả chính bản thân cô, nhưng nhờ luyện tập kiềm chế thái độ và hành xử, mọi việc có vẻ miễn cưỡng êm xuôi. Cho đến một ngày, một nam tinh đẹp đẽ và đầy quyền lực ra mặt săn đuổi Aislinn. Anh ta hiện hình thành người thường và tìm mọi cách quyến rũ cô. Cao trào của câu chuyện bắt đầu.  Bộ sách Vẻ đẹp nguy hiểm gồm có:  - Vẻ đẹp nguy hiểm ( Wicked Lovely);  - Hình xăm định mệnh (Ink Exchange); - Vĩnh Hằng Mong Manh (Fragile Eternity); - Bóng Tối Nguy Hiểm (Radiant Shadows). *** Melissa Marr ( sinh ngày 25 tháng 7 năm 1972) là một nhà văn Mỹ chuyên sáng tác cho lứa độc giả trẻ tuổi, hiện đang sinh sống tại Washington D.C. Ngoài công việc sáng tác, Melissa là một giảng viên đại học về văn học dân gian. Một thời gian trước đó cô còn làm bartender. Melissa nói cô rất yêu công việc giảng dạy cũng như pha chế ở quầy bar vì nhờ chúng, cô được tiếp xúc và trò chuyện với rất nhiều người thú vị. Đôi khi rảnh rỗi, Melissa thích thăm thú các bảo tàng hoặc gặp gỡ các bạn cùng sở thích xăm mình. Các trải nghiệm này cũng xuất hiện trong Vẻ đẹp nguy hiểm.  Tác giả mà Melissa Marr yêu thích là William Faulkner, cô nói rằng “ông ấy có tất cả những tố chất tôi mong muốn có, nhưng không bao giờ có được”.  *** CÁC NHÀ TIÊN TRI, hay những người có LINH CẢM...đã có những cuộc chạm trán rất đáng sợ với [những con tinh, họ gọi là Sleagh Maith, hay Những Người Tốt Đẹp]. -Trích từ The Secret Commonwealth, của Robert Kirk và Andrew Langm (1893) "Bóng bốn, lỗ mười". Aislinn thúc cây cơ về phía trước bằng một cú chọc nhanh gọn; trái bóng rơi vào lỗ với một tiếng "cạch" hài lòng. Người bạn chơi cùng cô, Denny làm một cú đánh mạnh hơn, một cú cân băng. Cô đảo mắt " Gì thế? Cậu vội à?". Cậu ta dùng cây cơ để chỉ. "Đúng". Tập trung và kiểm soát, đó là tất cả những gì cần làm. Cô đánh bóng số 2 vào lỗ. Cậu ta gật đầu, gần nnhư một lời khen ngợi. Aislinn đi vòng qua bàn, dừng một chút, bôi lơ vào gậy. Xung quanh cô, tiếng lạch cạch của những trái bóng chạm nhau, những tiếng chạm khẽ và cả dòng chảy vô tận của những bản nhạc đồng quê và nhạc blue đang giúp cô đứng vững trong thế giới thực: thế giới của con người, thế giới an toàn. Đây không phải là thế giới duy nhất, dù Aislinn có muốn thế đến mức nào đi nữa. Nhưng dù sao, nó cũng che khuất được một thế giới khác- thế giới đáng sợ- trong một vài khoảnh khắc ngắn ngủi. "Bóng ba, lỗ góc". Cô ngắm theo cây cơ. Một cú đánh rất tốt. Tập trung. Kiểm soát. Rồi cô bỗng cảm thấy điều đó: luồng hơi nóng trên da. Một con tinh, hơi thở nóng rực của hắn tràn trên cổ cô, hít mạnh vào mái tóc cô. Cái cằm nhọn của hắn ấn vào da cô. Tất cả sự tập trung trên thế giới này cũng không làm cho cái cách "quan tâm" của Mặt Nhọn dễ chịu hơn chút nào. Cô đánh sượt: trái bóng duy nhất rơi vàp lỗ là bóng cái. Denny nhặt trái bóng lên. " Sao thế?" "Trình kém?" Cô cố mỉm cười, nhìn Denny, nhìn xuống bàn, nhìn bất kỳ đâu trừ một đàn những con tinh đang bước vào cửa. Ngay cả khi cô quay đi thì cô vẫn nghe thấy chúng: tiếng cười cợt và la hét, tiếng nghiến răng và đập cánh, một mớ tạp âm mà cô không thể lẩn trốn. Chúng đang ùa ra, có vẻ tự do thoải mái hơn khi bóng tối buông xuống, tỏa khắp không gian của cô, chấm dứt bất cứ cơ hội bình yên nào mà cô đang tìm kiếm. Denny không săm soi cô, không hỏi những câu hỏi khó. Cậu ta chỉ ra hiệu cho cô bước ra khỏi bàn bi-a và gọi to, " Grace, chơi bài gì cho Ash đi". Ở chỗ cái máy hát, Grace bấm một trong số vài bài không-phải-nhạc-đồng-quê-hay-blue: "Break Stuff" của Limp Bizkit. Khi lời ca dịu dàng một cách kì quặc đó được cất lên bởi giọng hát khàn khàn, tạo ra một cảm xúc mãnh liệt như làm quặn lòng, Aislinn chợt mỉm cười. Nếu mình có thể bất chấp như thế, hãy để cho những năm tháng thù hận đổ vào những con tinh... Cô lướt tay lên cây cơ gỗ trơn mịn, quan sát Mặt Nhọn đang xoay tròn bên Grace. Mình sẽ bắt đầu với chính hắn. Ngay ở đây, ngay bây giờ. Cô cắn môi. Tất nhiên, tất cả mọi người sẽ nghĩ cô cực kì điên nếu cô bắt đầu khua cây cơ vào những kẻ vô hình. Tất cả mọi người, trừ con tinh. Trước khi bài hát kết thúc, Denny đã dọn xong bàn. "Tốt". Aislinn bước ra chỗ cái giá trên tường và thả cây cơ vào một chỗ trống. Đằng sau cô, MẶt nhọn cười rúc rích- giọng cao the thé- và giật mạnh vài lọn tóc của cô. "Làm ván nữa không?" Nhưng giọng Denny đã thể hiện điều mà cậu ta không nói thành lời: rằng cậu biết câu trả lời từ trước khi hỏi. Câu không biết tại sao, nhưng câu có thể nhìn thấy những dấu hiệu như thế. Mặt Nhọn thả những lọn tóc của cô lướt qua mặt hắn. Aislinn hắng giọng. "Dịp khác nhé?". "Được". Denny bắt đầu tháo cây cơ của cậu ta. Những người quen thân không bao giờ bình luận gì về những tâm trạng thay đổi kỳ cục và những thói quen không thể giải thích nổi của cô. ... Mời các bạn đón đọc Vẻ Đẹp Nguy Hiểm của tác giả Melissa Marr.
Tản Mạn Xứ Kim Chi - Seung Hyeon
Dung Trai Tùng Thoại là cuốn sách ghi chép nhiều câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của tác giả Seung Hyeon (Thành Hiện) vào giữa thời đại Joseon (Triều Tiên). Tác giả đã ghi chép lại từ những câu chuyện liên quan tới vương gia, các sĩ đại phu, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến những câu chuyện về phong tục, địa lý, chế độ, âm nhạc, văn hóa, chuyện cười từ thời Koryo (Cao Li) đến đời vua Seung Jong (Thành Tông) thời đại Triều Tiên. Dung Trai Tùng Thoại lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1525 (năm thứ 20 đời vua Jung Jong (Trung Tông). Khi lần đầu tiên được xuất bản,Dung Trai Tùng Thoại được xem là cuốn sách quý hiếm nên đã có nhiều bản sao chép viết tay được lưu truyền. Dung Trai Tùng Thoại gồm 324 câu chuyện, trong đó có 196 chuyện kí thực, 27 chuyện hài hước, 16 chuyện kì dị, 85 chuyện tạp luận. Trong số này, nhiều nhất là chuyện kí thực. *** Truyện kể của Dung Trai (Dung Trai tùng thoại) mà ấn bản tiếng Việt chúng tôi đặt tựa là “Tản mạn xứ Kim Chi” , nhằm giúp bạn đọc dễ dàng liên tưởng đây là tác phẩm nhiều màu sắc và hương vị của văn học Hàn, được viết vào đầu thế kỷ mười sáu, tác giả là Seung Hyeon (Thành Hiện, 1439-1540) nhà văn đa tài đầu thời Triều Tiên. Ngoài các tác phẩm văn chương, ông còn tỏ ra tinh thông âm nhạc với bộ “ Nhạc học quý phạm” và nhuận sắc các bài trường ca dân gian như Lý Sương Khúc, Song Hoa Điếm... “Tản mạn xứ Kim Chi” đến nay đã lan rộng ảnh hưởng đến nhiều ngành nghiên cứu nhân văn ở Hàn Quốc nhưng trước hết nó thuộc về văn học với 324 truyện kể thuộc nhiều thể loại khác nhau như ký thực, hài hước, truyện nhân vật, thơ ca, truyện háo sắc... Đấy là những truyện không ghi trong chính sử nhưng lại trình bày một bức tranh toàn cảnh của xã hội thời kỳ đầu của kỷ nguyên (chủ yếu là thế kỷ 15) Triều Tiên. Chính vì thế mà những truyện kể trong cuốn sách này rất đời thường, thú vị và hấp dẫn tuy nhiều khi không tránh khỏi sa vào những ghi chép vụn vặt. Đôi khi tác giả làm ta bất ngờ vì những nhận xét quá thẳng thắn và táo bạo về chính dân tộc mình, bày ra một bức biếm họa về người Triều Tiên đáng cười: “Người Triều Tiên ăn nhiều, uống cũng nhiều. Nếu phải nhịn một bữa là người Triều Tiên cảm thấy đói bụng không chịu nổi. Người nghèo đến nhà giàu vay mượn để ăn mà còn lãng phí, không biết tiết kiệm, nên dễ lâm vào cảnh khốn cùng. Còn người giàu sang phú quý thì bày biện nhiều thức ăn mà không biết chán. Nếu có binh lính xuất chinh thì hết một nửa số binh lính phải vận chuyển lương thực. Người chuẩn bị lên đường đi đâu đó chỉ chừng vài dặm mà hành lý chất trên ngựa của anh ta lấp kín cả lối đi...” Ở đây ta không thấy một chủ nghĩa dân tộc nào mà là một tinh thần tự phê phán rất mạnh, đáng nể phục. Trong những truyện kỳ dị thì Dung Trai có lối kể ma rất độc đáo, như “Chuyện ma của bà Trịnh” . Tác giả bắt đầu: “Bà Trịnh là bà ngoại của tôi... Nhà bà có một con ma tới ở...”. Đó là một con ma hiền lành, có giọng nói như sơn ca hót, ở trên xà ngang vào ban đêm, biết hết mọi bí mật trong xóm. Nó cố gắng đem lại nhiều điều tốt lành cho gia đình bà. Nhưng cuối cùng cũng có người đuổi nó đi. Con ma khóc lóc thảm thiết mà ra đi! Con ma đó chỉ muốn ở với người. Truyện ngắn gọn mà đáng yêu. Nhiều truyện rất ngắn, tương đương với thể loại truyện rất ngắn hiện đại, như truyện “Sự ngờ nghệch của anh chàng mù háo sắc” . Có một anh chàng mù lén vợ nhờ người tìm cho một cô gái đẹp. Đến điểm hẹn, anh ta làm lễ động phòng với cô. Ân ái với cô, anh ca ngợi cô hết lời và chê bai vợ chính cũng hết lời. Nhưng thật ra cô gái đẹp ấy không ai khác hơn là... Anh đã bị lừa. “Tản mạn xứ Kim Chi” còn cung cấp bao nhiêu tri thức thuộc về thiên nhiên (suối nước nóng, ao hồ, sản vật...), con người (mọi tầng lớp), ngôn ngữ (sáng chế chữ Hangul), thơ ca... thông qua những câu chuyện thường ngắn gọn, nhiều khi lạ lùng, nhiều khi hài hước, có giọng đạo lý ngay ngắn nhưng cũng có giọng phóng khoáng tự do... Đây là giọng kể đa thanh điệu. Một “con ma” biết hết mọi điều về một thời để sống và để chết, để đam mê và để hiểu biết. Một “con ma” muốn sống với người. Một cuốn sách phong phú hơi thở. Nhật Chiêu *** “ Dung Trai tùng thoại ( 慵齋叢話 )” là cuốn sách ghi chép nhiều câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của tác giả Seung Hyeon ( 成俔 : Thành Hiện) vào giữa thời đại Jo Seon (Triều Tiên). Tác giả đã ghi chép lại từ những câu chuyện liên quan tới vương gia, các sĩ đại phu, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến những câu chuyện về phong tục, địa lý, chế độ, âm nhạc, văn hóa, chuyện cười từ thời Koryo (Cao Li) đến đời vua Seung Jong (Thành Tông) thời đại Triều Tiên. Tuy tác phẩm không rõ năm sáng tác nhưng nội dung sách có ghi chép những chuyện đã xảy ra đến năm 1499 (năm thứ 5 đời vua Yeon San [ 燕山 : Yến Sơn]), và tác giả Seung Hyeon qua đời vào năm 1504. Như vậy, có thể nói “ Dung Trai tùng thoại ” được viết trong khoảng thời gian từ năm 1499 - 1504. Seung Hyeon đã trực tiếp ghi chép “ Dung Trai tùng thoại ” để nói lên mối quan tâm của tác giả về những câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của các nhà văn thuộc tầng lớp quan lại vào đời vua Seung Jong. Đặc biệt, Seung Hyeon đã ảnh hưởng rất nhiều từ hai người anh trai là Seung Im ( 成任 : Thành Nhâm) và Seung Kan ( 成侃 : Thành Khản). Seung Im và Seung Kan có cái nhìn về văn học khác với các học giả kinh điển. Seung Im đã để lại các tác phẩm như “ Thái bình quản kí tường tiết ( 太平廣記詳節 )”, “ Thái bình thông tái ( 太平通載 )”. Cùng thời còn có các học giả Seo Keo Jung ( 徐居正 : Từ Cư Chính) với những tác phẩm như “ Bút uyển tạp kí ( 筆苑雜記 )”, “ Thái bình nhàn thoại hoạt kê truyện ( 太平閑話滑稽傳 )”, Kang Hee Maeng ( 姜希孟 : Khương Hi Mạnh) với tác phẩm “ Thôn đàm giải di ( 村談解 頤 )”, Lee Ryuk ( 李陸 : Lí Lục) với tác phẩm “ Thanh pha kịch đàm ( 靑坡劇談 )”. Lee Ryuk vừa là người bạn thân thiết vừa là anh em cột chèo với Seung Hyeon. Trong hoàn cảnh như vậy, việc Seung Hyeon ghi chép “ Dung Trai t ùng thoại ” đã diễn ra một cách tự nhiên. Xuất bản tác phẩm “ Dung Trai tùng thoại ” “ Dung Trai tùng thoại ” lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1525 (năm thứ 20 đời vua Trung Tông [ 中宗 : Jung Jong]). Con trai của Thành Hiện (Seung Hyeon) là Thế Xương ( 世昌 : Sei Jang) đã cố gắng xuất bản cuốn sách này ở phủ Khánh Châu ( 慶州 : Gyeong-ju). Có thể xác minh sự thật đó qua nội dung: “Sau tiết Trọng Dương [1] mùa thu năm Ất Dậu mấy ngày, Phủ doãn phủ Khánh Châu là Hoàng Bút (Hwang Pil) đã viết lời bạt cho cuốn sách”. Năm 1544 (năm thứ 9 đời vua Minh Tông [ 明宗 : Myeong Jong]), “ Dung Trai tùng thoại ” còn được ghi vào “Danh mục sách đã xuất bản trên toàn quốc” của cuốn “ Khảo sự toát yếu ( 攷事撮要 )” của tác giả Ngư Thúc Quyền ( 魚叔權 : Eo Sook Kwon). Còn những sự thật về sau không được xác minh. Khi lần đầu tiên được xuất bản, “ Dung Trai tùng thoại ” được xem là cuốn sách quý hiếm nên đã có nhiều bản sao chép viết tay được lưu truyền. Về những tài liệu được xác nhận tác giả, ở thư viện Khuê Chương Các (Kyu-jang-gak) hiện có 3 bộ và 3 quyển sách có tên tác giả, 2 tài liệu được làm bằng đá, và quyển “ Đại đông dã thừa ( 大東野乘 )”; ở trường đại học Yonsei hiện có 5 bộ và 5 quyển sách được làm bằng gỗ; ở trường đại học Koryo có bộ sách không đầy đủ. Trong cuốn “ Danh mục tổng hợp sách cổ Hàn Quốc ” của nhà sử học Fujita Ryôsaku có giới thiệu một quyển sách được làm bằng gỗ nhưng hiện chưa được xác minh. Bộ sách không đầy đủ ở trường đại học Yonsei gồm năm quyển từ quyển 1 đến quyển 5. Bộ sách này giống trong quyển “ Đại đông dã thừa ” . Kết quả đối chiếu những tài liệu ở thư viện Khuê Chương Các với quyển “ Đại đông dã thừa ” cho thấy, nội dung và số câu chuyện thì giống nhau nhưng hình thức thì có sự khác biệt. Hai nguồn tài liệu này đều không có lời mở đầu mà chỉ có lời bạt. Ở phần cuối của quyển 2 trong bộ sách ở thư viện Khuê Chương Các có lời bạt của Hoàng Bút nhưng có một số lỗi về hình thức, còn trong cuốn “ Đại đông dã thừa ” thì nội dung được viết một cách đầy đủ. Về sau, đến năm 1909, “ Dung Trai tùng thoại ” trong cuốn “ Đại đông dã thừa ” được Hiệp hội xuất bản sách cổ Triều Tiên xuất bản và phổ biến rộng rãi. Năm 1934, “ Dung Trai tùng thoại ” được ghi bằng chữ quốc ngữ trong quyển 1 của bộ sách “ Triều Tiên dã sử toàn tập ( 朝鮮野史全集 )” do Nhà xuất bản Quý Dậu (Kye-yu) ấn hành. Năm 1957, dịch giả Hong Ki Moon đã dịch “ Dung Trai tùng thoại ” từ “ Tuyển tập Đại đông dã thừa ” sang chữ quốc ngữ và được nhà xuất bản quốc gia thành phố Bình Nhưỡng xuất bản. Năm 1964, Viện nghiên cứu văn hóa dân tộc của trường đại học Koryo đã xuất bản cuốn sách tổng hợp “ Quốc ngữ phá nhàn tập - Dung Trai tùng thoại ”. Năm 1969, nhà xuất bản Hyon-am (Huyền Nham) đã xuất bản cuốn “ Dung Trai tùng thoại ” bằng chữ quốc ngữ trong danh mục những cuốn sách nổi tiếng của Hàn Quốc. Năm 1971, Ủy ban xúc tiến văn hóa dân tộc đã xuất bản cuốn “ Quốc ngữ Đại đông dã thừa”. Năm 2000, trường đại học Gyeong-san đã chụp ảnh và xuất bản tác phẩm “ Dung Trai tùng thoại ” để kỉ niệm 20 năm ngày thành lập trường. Đối chiếu với những tài liệu bằng gỗ được bảo quản ở thư viện trường đại học Koryo, trường đại học Yonsei, trường đại học Sungkyunkwan và tài liệu viết tay ở thư viện quốc gia và thư viện Khuê Chương Các, cuốn sách ảnh này đã chỉnh sửa lỗi chính tả và những kí sự trùng lắp. Sau khi được xuất bản, cuốn sách ảnh này đã trở thành tài liệu gốc hoàn hảo cho việc nghiên cứu “ Dung Trai tùng thoại”.   Mục đích biên soạn “ Dung Trai tùng thoại ” Seung Hyeon có ghi lời kiến giải của ông về thể loại tạp kí trong cuốn “ Thôn trung bỉ ngữ tự ( 村中鄙語序 )” như sau: “Anh bạn Jae Soo ( 蔡壽 : Thái Thọ) của tôi sau khi cáo quan trở về cuộc sống thường dân, lúc nhàn rỗi anh đã ghi lại những câu chuyện thường nhật và những câu chuyện đàm tiếu với bạn bè, dù đó chỉ là những mẩu chuyện vụn vặt. Nếu anh không chăm chỉ, nỗ lực và không am tường về văn học thì sao anh có thể viết được. Khả dĩ văn chương của anh là những điều răn dạy cho thế hệ sau, là niềm vui của tuổi già, và là việc làm lúc anh nhàn rỗi.” Lời kiến giải như trên thường thấy trong thể loại tạp kí của các nhà văn thuộc tầng lớp quan lại triều đình thời vua Seung Jong thời đại Triều Tiên. “ Dung Trai tùng thoại ” chính là tác phẩm thực tiễn cho lời kiến giải đó. Trong phần “ Lời bạt của Dung Trai tùng thoại ”, Hoàng Bút cũng có ghi nội dung như sau: “Nhìn chung, văn chương của đất nước chúng ta ghi chép tất cả những điều liên quan đến cao thấp theo thời đại, phong tục hay dở nơi đô thành, những vui - buồn - yêu - ghét liên quan tới triều đình, dân chúng và nghệ thuật, từ âm nhạc, bói toán cho đến thư họa đều là những câu chuyện đàm tiếu làm vui lòng người không thể tìm thấy trong sử sách Hàn Quốc.” Hoàng Bút cũng nhấn mạnh rằng, tuy “ Dung Trai tùng thoại ” chỉ là những mẩu chuyện giải trí lúc nhàn rỗi nhưng những nội dung phong phú được ghi chép trong đó thì không thể tìm thấy trong sử sách Hàn Quốc. Thực tế, khi viết cuốn sách này, trong số những câu chuyện về lời răn dạy, những câu chuyện thường nhật trong cuộc sống, hay những câu chuyện lúc nhàn rỗi, Seung Hyeon coi trọng những câu chuyện thường nhật trong cuộc sống hơn cả. ... Mời các bạn đón đọc Tản Mạn Xứ Kim Chi của tác giả Seung Hyeon.
One Piece: Khởi Đầu Mới - Team Đang Bí Ý Tưởng
Một bộ đồng nhân do tác giả Việt Nam viết 100% . Câu Chuyện kể về Phong , một thanh niên có cuộc sống không mấy tốt đẹp do cơ duyên xảo hợp bất ngờ xuyên đến thế giới OnePiece .Cùng đọc để khám phá xem Phong sẽ làm gì để đứng trên đỉnh cao thế giới nhé . *** Vũ Phong 20 tuổi công việc hằng ngày lặp đi lặp lại ,Chơi game + lên mạng + ăn + ngủ, nhiều khi hắn cũng thấy mình giống con heo thật nhưng thói quen rồi hắn cũng lười sửa. Sống trong 1 căn nhà 2 tầng 30 m2 được ông bà nội cho , hàng tháng nhận tiền trợ cấp từ bố mẹ , Phong cũng không biết hắn đã bao lâu không gặp bố mẹ rồi. 5 năm trước Phong 15 tuổi không phải học sinh giỏi nhưng ít ra cũng thuộc dạng ngoan, cuộc sống có bố có mẹ quan tâm chăm sóc , dù 2 người họ hay cãi nhau nhưng Phong vẫn thấy những lúc đó tuyệt vời và ấm áp làm sao , hàng đêm trằn trọc hắn vẫn chỉ luôn ước quay về những năm tháng ý . Bố mẹ Phong ly hôn 5 năm trước , mỗi người có mái nhà riêng tổ ấm riêng còn có cả những đứa bé dễ thương của riêng họ nữa , những thứ họ nhớ đến Phong chỉ là gửi tiền trợ cấp hàng tháng nhưng Phong đâu cần , Phong cần tình cảm của họ chứ đâu cần những đồng tiền đó. Nhiều đêm Phong vẫn gặp ác mộng cái ngày mà cả 2 người đều từ chối nuôi mình với lý do một nửa kia của họ k đồng ý và thêm 1 câu Phong lớn rồi 15 tuổi rồi tự lo được rồi. Cô đơn , sự hoảng loạn tràn ngập tâm trí cậu. Phong sống khép kín, sợ đám đông sợ người lạ , sợ mọi thứ xung quanh chỉ biết núp dưới cái màn hình máy tính nhìn thế giới từ xa xa . Ở trên mạng chẳng ai biết Phong là ai, cậu có thể mạnh mẽ có thể tự tin , Phong chơi khá giỏi Dota và luôn lấy làm tự hào với bạn bè trên mạng của cậu . Phong cũng luôn ước mơ có thể làm ông Hoàng thế giới ngầm , những kẻ ban ngày có thể chỉ là viên chức quèn nhưng dưới cái vỏ bọc ý là quyền lực mà không ai theo đuổi được , quyền coi thường tất cả , quyền làm mọi người khúm núm sợ hãi nhưng sâu trong cái ước mơ đó Phong sợ cô đơn , cậu sợ cô đơn hơn tất cả, muốn thoát ra khỏi sự cô đơn mà không thể. Ngày hôm nay tủ lạnh hết thức ăn và Phong phải làm cái việc mà cậu chẳng thích chút nào : đi chợ. Giữa cái thời tiết se se lạnh của mùa đông Hà Nội ra ngoài đường là lựa chọn tồi nhưng biết làm sao được . Mặc chiếc áo khoác, buộc dây giày và ra ngoài. Chạy hết tốc độ ra chợ mong sẽ giảm được cái lạnh thời tiết này , bất chợt cậu thấy 1 cô nhóc chạy khỏi tay mẹ lao ra đường nhặt quả bóng bé làm rơi cùng lúc đó 1 chiếc taxi cũng đang phóng hết tốc độ về phía cô bé, không biết sức mạnh ở đâu Phong lao ra đẩy cô bé , thế rồi chiếc taxi đâm rầm vào cậu , tên tài xế vẫn phóng như điên . Phong không thấy đau đớn không cảm nhận thấy gì có chăng là sự giải thoát , cậu cũng chán sự cô đơn của 4 bức tường hàng đêm quá rồi . 1 chàng trai 20 tuổi đã ra đi thanh thản như vậy đấy !!. Nhưng có lẽ kết thúc cũng là bắt đầu ..... Phong mở mắt k đau đớn , k cảm xúc , cậu ngỡ ngàng nhìn xung quan , cậu chỉ là 1 đoàn linh hồn , sự vô lực đầy lên trong lòng cậu. Bất ngờ 1 cánh cửa ánh sáng mở ra, 1 người thanh niên bước ra tóc vàng, ánh mắt tà dị , khuôn mặt có nét lai giữa cả á và âu cùng hình xăm kéo dài nữa khuôn mặt . Phong chưa kịp nói gì , hắn tiến đến vỗ vai cậu tỏ ra thân thiện và nói Chào nhóc chết xong vui không , chúc mừng nhóc không phải ai cũng may như nhóc đâu , cười cái tạo tình cảm nào .Phong chỉ muốn nổi khùng cậu đưa nắm đấm lên muốn tấn công hắn nhưng thật bất ngờ nắm tay cậu xuyên qua hắn trong khi hắn có thể vỗ vai cậu , sự khó hiểu tràn ngập tâm trí Phong . Trước ánh mắt ngỡ ngàng của Phong hắn nói :” nhóc có thể gọi ta là Thiên , đừng cố tấn công ta , việc đó chỉ tốn thời gian thôi “ . “ Tao không quan tâm mày tên gì đâu , sao tao lại ở đây , thả tao về nhà ngay “ Phong như gào lên với Thiên . Thiên cười ha hả : “ Ta đã sống và bảo vệ trái đất từ khi chưa có con người cơ nên nhóc nên tỏ ra ngoan ngoãn đi . Còn việc trở về là điều không thể với nhóc còn với ta thì cũng dễ lắm'.”Thế ông làm ơn cho tôi về nhà “ . Thiên phá lên cười :” trở về với 4 bức tường ý vui lắm à ?” Phong trầm mặc . Khuôn mặt Thiên lúc này lại bất chợt nghiêm túc :” không nói đùa với nhóc nữa , nói thật ta cai quản thế giới có chút chán rồi , nên cứ 300 năm ta lại bốc thăm cho 1 người có quyền xuyên việt coi như trò tiêu khiển và nhóc xin chúc mừng là người may mắn nhất trong 300 năm nay “. Mặt Phong nghệt ra , k diễn tả nổi bằng lời nữa rồi. Thiên bật cười :” ha ha ta đợi nhìn vẻ mặt này 300 năm rồi nhìn mấy lần rồi mà không chán , nhóc phải biết cảm giác nắm giữ tuyệt đỉnh sức mạnh rồi trêu đùa nhân sinh vui thế nào chứ , mà nhóc muốn biết thì khi xuyên việt nhớ sống cho tốt nhé” Bàn tay Thiên lóe một cái Linh hồn của Phong lịm dần , Phong có vô số câu hỏi mà k thể thứ duy nhất cậu nghe được là câu nói cuối cùng của Thiên:” Tuyệt đỉnh sức mạnh trêu đùa nhân sinh”. ... Mời các bạn đón đọc One Piece: Khởi Đầu Mới của tác giả Team Đang Bí Ý Tưởng.
Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Khỉ - Jeff Stone
Khi ngôi chùa Ẩn Chân của Trung Quốc bị hủy diệt, chỉ có năm vị dũng sư trẻ tuổi sống sót. Mỗi người được đặt tên theo tên một con vật: Hổ, Khỉ, Rắn, Hạc, Rồng, mỗi người là một vị dũng sư trẻ tuổi nhất của môn võ mô phỏng theo bộ thế của con vật đó. Năm người du hành theo năm ngả và bắt đầu thu nhận môn đệ để truyền dạy, không chỉ những kỹ thuật chiến đấu trác tuyệt, mà cả triết lý khoan hòa về đời sống. Tục truyền rằng các môn phái võ thuật ngày nay là do năm nhà sư trẻ này truyền lại, theo truyền thuyết thì họ là...NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Năm vị dũng sư thoát chết trong cuộc hủy diệt chùa Ẩn Chân. Mỗi người là một cao thủ của một môn võ khác nhau, và được đặt cho một cái tên tương ứng. Thoát được vào rừng, năm người quyết tâm thực hành lời răn dạy của Ðại Sư của họ: truy tìm những bí mật trong quá khứ. Nhưng một năm trước đó, một thằng bé lớn hơn họ đã bị đuổi khỏi chùa Ẩn Chân. Cũng là một tay cao thủ như năm người kia, hắn tin rằng mình không được đặt cho một cái tên phù hợp. Chính thằng bé này là kẻ đã thực hiện cuộc thảm sát và thề báo thù những anh em đồng môn cũ của hắn. Hắn nguyện sẽ theo đuổi đến cùng tới khi nào giết được những kẻ mang sứ mệnh trở thành... NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Năm Vị Tổ Sư gồm có: Năm Vị Tổ Sư Tập 1: Hổ Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Khỉ Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Hạc Năm Vị Tổ Sư Tập 5: Rồng *** Lần đầu tiên trong một ngàn năm, có một tiếng sét vang lên trong ngôi chùa. Núp trong cái chum bằng đất nung nặng đặt ở sau một võ sảnh, thằng nhóc Hầu mười-một-tuổi hoảng kinh với từng tiếng BÙM, tiếng RẮC! Tiếng sấm bên trong ngôi chùa chỉ đến từ một nguồn thôi. Một con rồng. Một con rồng đang trong cơn thịnh nộ. Hầu rùng mình run rẩy. Theo truyền thuyết, rồng chế ngự gió mưa và sấm sét. Nhờ ơn rồng, mùa màng của con người sẽ nhận được đủ mưa cho một mùa gặt phong nhiêu; làm cho rồng giận, thì mùa màng sẽ bị cuốn trôi sạch - cả chính bạn, ngựa của bạn và cả gia đình bạn nữa. Làm cho rồng giận, thì nó sẽ tạo nên một cơn bão kinh dị, đập nát mọi thứ bằng cái đuôi hung bạo của nó, thiêu rụi mọi thứ còn lại bằng hơi thở rừng rực lửa của nó. Con rồng hẳn là nguyên do mà Đại Sư đã bắt Hầu và bốn người anh “trong chùa” của nó: Hổ, Xà, Hạc và Long nằm co ro trong chum. Đại Sư bảo rằng ngôi chùa đang bị quân lính tấn công, nhưng Hầu biết rằng nếu quân lính chỉ là những người bình thường thì họ không thể nào đánh bại được các dũng sư của chùa Ẩn Chân. Những kẻ tấn công hẳn đã liên minh với một con rồng. Những tiếng sấm động đó là gì chứ nếu không phải là tiếng động do con rồng quật cái đuôi khổng lồ của nó? Một con rồng quật đuôi làm cho Hầu nhớ đến người anh tên Ưng và chiếc roi xích của hắn. Ưng đã giận dữ rời bỏ chùa Ẩn Chân năm ngoái. Hắn giận vì đã được huấn luyện suốt đời như một con chim ưng, trong khi hắn luôn muốn là một con rồng mạnh mẽ. Ưng đã vung ngọn roi xích để có một chiếc đuôi rồng cho riêng mình. Hầu lại rùng mình. Ưng đã thề sẽ trở lại chùa Ẩn Chân để trừng phạt Đại Sư vì huấn luyện hắn như một con chim ưng, nhưng Ưng không ngu xuẩn chút nào. Hắn không bao giờ tấn công chùa Ẩn Chân và một trăm dũng sư của nó trừ phi hắn nắm chắc phần thắng. Và để cho việc đó xảy ra, thì hắn hẳn đã đạt được sức mạnh vượt xa những con người bình thường... Hầu nghĩ, “Ồ, không! Có lẽ Ưng đã tìm được cách biến mình thành một con rồng thật rồi! Có lẽ hắn mọc vảy và một cái đuôi và ...” CẮC-BÙM! ... Mời các bạn đón đọc Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn của tác giả Jeff Stone.