Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đóa Mạn Đà La Của Cô Dâu Xứ Lâu Lan

Thể loại: ngôn tình, tiểu thuyết  Đóa Mạn đà la của cô dâu xứ Lâu Lan Truyện có đan xen yếu tố kinh dị, Phật giáo,hoàn hồn mượn xác,tình yêu qua vài kiếp,…  Giới thiệu về bối cảnh và các địa điểm trong câu chuyện Bối cảnh của câu chuyện xảy ra ở vùng Đôn Hoàng và Tân Cương. Vì vậy, trước khi vào truyện, Phạm sẽ giới thiệu sơ qua về hai vùng đất này.  1. Đôn Hoàng Là một thị xã thuộc đại cấp thị Cửu Tuyền, tỉnh Cam Túc, nằm trong một ốc đảo sa mạc. Đôn Hoàng nổi tiếng với các tượng Phật được khắc trong hang đá (trong truyện gọi là bích hoạ). Còn trong thực tế, Đôn Hoàng còn mang trong mình nhiều di sản văn hóa cổ đại rất quý giá. Nói đến Đôn Hoàng, không thể không nhắc tới núi Minh Sa nằm ở phía Nam ngoại ô cách thành phố Đôn Hoàng khoảng 5km, rặng núi này được hình thành bởi những hạt cát vàng to bằng hạt tấm chạy dài 40 km dọc “Con đường tơ lụa”. Giữa những cồn cát núi Minh Sa là một nguồn nước trong vắt có tên là Nguyệt Nha Tuyền dài 218 mét. Một điều rất lạ, Nguyệt Nha Tuyền bốn bề là những dải cát mênh mông mà chẳng bao giờ bị phủ lấp. Cạnh bên, một thành lầu có tên là Ngọc Môn Quan đứng sừng sững trên mỏm đồi sỏi đá (cách thành phố Đôn Hoàng chừng 90 km về phía Tây Bắc). Từ nơi đây có thể phóng tầm mắt về phía những cồn cát, lăng tẩm cổ còn sót lại cùng những thiên nhiên kì thú tiềm ẩn vẻ hoang sơ ở Đôn Hoàng. Đây cũng là một địa điểm được nói đến trong câu chuyện. Lịch sử lâu đời đã ươm ủ nên nền văn hóa cổ rực rỡ cho Đôn Hoàng, nơi đây hiện vẫn còn lưu giữ một khối lượng lớn các văn hiến ghi chép cùng hành lang tranh họa Mạc Cao dài tới 25 km. Hang Mạc Cao là trung tâm văn hóa và nghệ thuật của xứ Đôn Hoàng, đây là cụm hang đá lớn nhất Trung Quốc. Khi khai quật hang động, vô số thợ thuộc các triều đại của các thế hệ đã điêu khắc trên vách rất nhiều tượng Phật, vẽ rất nhiều bích họa. Mặt khác, do hang Mạc Cao Đôn Hoàng nằm trên nút “con đường tơ lụa”, nên nó cũng là nơi gặp gỡ của tôn giáo, văn hóa, kiến thức giữa phương đông và phương tây. Những bức bích hoạ này và vị trí đặc biệt của hang Mạc Cao và vùng đất Đôn Hoàng trở thành cảm hứng cho tác giả viết “Đoá mạn đà la của cô dâu xứ Lâu Lan”. 2. Vùng Tân Cương Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh. Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam (nơi xảy ra câu chuyện giữa hai nhân vật chính). Vùng trung lưu vực sông Tarim thuộc nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của con đường tơ lụa. Tân Cương vào thế kỉ thứ năm bị chia ra làm hai Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết. Nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi làm loạn, thậm chí còn đem quân đánh lại Trung Nguyên. Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kì dã man. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên con đường to lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây. Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Trong đó có Lâu Lan, Vu Quốc, Quy Tư… Thế là trước hết nhà Đường đem quân tiểu trừ lực lượng Tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658 CN, nhà Đường đặt An tây Đô hộ phủ tại Quy Tư, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây. Và câu chuyện của chúng ta nói về chuyện một thái tử của Vu Quốc sang nhà Đường làm con tin trong thời điểm này. 3. Quốc gia Lâu Lan Lâu Lan là một quốc gia cổ, tồn tại vào thế kỉ thứ II Trước Công nguyên nằm ở vùng Đông Bắc sa mạc La Bố ở vùng Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan được biết đến với cái tên tiếng Nga là Krorayina. Lâu Lan quốc nằm trên con đường tơ lụa và lãnh thổ phần lớn bao quanh bởi sa mạc. Để khơi thông con đường tơ lụa, vào năm 108 Trước Công nguyên, nhà Hán ở Trung Quốc đã tiêu diệt quốc gia này và biết nơi đây thành một chư hầu của Đại Hán và biến vương triều Lâu Lan trở thành bù nhìn của nhà Hán. Ngày nay, di chỉ còn lại của vương quốc Lâu Lan chỉ còn là các tòa thành bị vùi lấp ở sa mạc Tân Cương. 4. Lịch sử Của “CON ĐƯỜNG TƠ LỤA” Trung Quốc - Về địa lí: Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng còn đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 7 nghìn cây số. - Về lịch sử: Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỉ 3 TCN. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó. Thế kỉ 2 TCN, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa. -Về giao lưu văn hóa: Con đường tơ lụa là một con đường huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á kì bí, nó gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà”, Con đường tơ lụa còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn. ( Đó là một vài thông tin cơ bản trước khi chúng ta bước vào câu chuyện. *** Nguyện lòng kiếp sau, luôn vì thê quân, tốt xấu không phân li. Nay ta yếu nhược, không thể như trước, thỉnh gửi hai bông hoa, lấy dâng cho Phật. (Ứng lời thái tử Thụy theo lời kinh Phật). Phần một: Dấu chu sa Phật ấn Dù ở trong lịch sử của thời kì mông muội - mù mờ - dã man, tàn khốc và đầy rẫy vu thuật, bói toán, tô-tem[1] cũng không thể chống đỡ nổi với quyền thế. Có những nhà sử học so sánh nó với ác ma, ngón tay thô cứng, đốt ngón tay chỉ hơi dùng sức gấp lại sẽ nứt ra một khe hở và có âm thanh truyền ra. Rất nhiều sinh mệnh vô vọng bị nó thao túng đã phải tuẫn táng cùng với nó. Sau mấy ngàn năm tăm tối, văn minh bị xé rách thành từng mảnh, nhưng văn minh đã học được cách bao dung, dệt thành một tấm lưới, lại vô tri giác thay đổi, đồng hóa dã man… [1] Tô-tem: đồ đằng - vật tổ - vật thể tự nhiên, hay gặp nhất là động vật, được người Anh-Điêng ở Bắc Mỹ coi như biểu tượng của một bộ tộc hoặc gia đình. Nguyệt Ấn Thần nhớ ra đoạn văn trên này khi đang ngồi trên xe lửa đến cột mốc biên giới tỉnh Cam Túc, nhìn qua cửa sổ xe, có thể thấy những hàng bạch dương hồng nhạt héo rũ phất phơ bay theo từng cơn lốc cát vàng. Chúng khiến không khí hoang vu kéo dài đến tận nền văn minh nhân loại ở ngay bên cạnh, nếu người cũng vì hoàn cảnh mà từng bước dã man như tằm ăn rỗi, vậy văn minh sẽ lấy tư thế gì để đồng hóa nó? Cô hơi chau mày rồi mở mắt, giữa ấn đường[2] có một vết thương nho nhỏ màu đỏ sậm, phảng phất như dấu chu sa của mĩ nhân. [2] Ấn đường: điểm giữa hai hàng lông mày. Khi ghi danh thi vào nghiên cứu sinh, các giảng viên đều nói đùa với cô: Không nên học hội họa, lẽ ra nên vào khoa khảo cổ - diện mạo cô cực kì giống một cô gái thời cổ đại: cằm nhỏ lại nhọn, hai gò má trắng nõn và nốt chu sa giữa hai hàng lông mày. Dù ai nhìn vào cũng cho rằng cô sinh ở thời cổ đại! Cô luôn mỉm cười thản nhiên, như một cô gái trong bức hoạ thời Tống bước ra, vạt váy nhẹ nhàng phất phơ. Tranh đời Tống chú trọng ở nét bút trau chuốt và thuân mặc[3], thoạt nhìn vết tích trên mặt giấy Tuyên Thành, trong lòng cô cũng choáng váng khi nhìn từng thước tấc gương mặt, hoặc sâu hoặc nông, vì sắc thái trên đó với gương mặt cô như một. Cho nên, bản thân Nguyệt Ấn Thần cũng nghĩ cô giống bức tranh Tống Triều, theo thời gian chậm rãi mai một, nhàn nhạt vui giận, nhàn nhạt sầu thương, phảng phất như Đức Phật phổ độ chúng sinh, khóe miệng hơi nhếch vẻ thận trọng, khiến người khác nhìn vào không thể đoán ra là hờn hay giận, là buồn hay vui. [3] Thuân mặc: một lối vẽ của Trung Quốc, đặt nghiêng ngọn bút lông quệt mực khô nhạt để thể hiện vân đá và mặt nam mặt bắc của núi, sau khi phác ra đường nét chung. Những cô gái ít khi, hoặc không bộc lộ tâm tư ra ngoài như thế rất khó đàm luận chuyện tình yêu, cô nghĩ. Trên tay cô là một chiếc vòng tay anh trai tặng, màu xanh lục đậm, được khắc thành hình bảy đoá hoa sen, chính giữa là năm bông sen, hai hoa còn lại ở hai sườn, không biết dùng loại vật liệu gì màu xanh đen kết lại, mộc mạc, cổ xưa lại xinh đẹp. Chiếc vòng này nằm ở bưu điện hơn một tháng, khi Giang Hòa lấy về giúp cô, anh nói đùa, “Anh trai em thật là kì quái, thứ đồ thế này mà cũng chuyển cho em.” Chưa ai thấy Nguyệt Ấn Thần tức giận như ngày hôm đó, cô lập tức chia tay với anh, cũng là người yêu duy nhất ở đại học. Sau này, cô cũng không thể lí giải tại sao lúc ấy cô lại nổi giận, có lẽ là mơ hồ cảm thấy Giang Hòa không nên châm chọc tấm lòng của người anh trai đang ở xa cô. Có lẽ ở trong lòng Ấn Thần, Trục Lỗi là một vị thần linh luôn luôn khiến cho người khác phải tôn kính và ngưỡng mộ, thậm chí khi Trục Lỗi lỡ tay làm cô bị thương, cuối cùng lưu lại một vết sẹo nhỏ giữa trán, cô cũng cảm thấy anh như là một vị thần vì vất vả giải thoát cho cô mà lưu lại một dấu vết, hoà với máu, biến thành ấn kí đỏ sậm kì ảo trên cơ thể cô. Cũng vì vậy, Giang Hòa nói cô không bình thường. Người học nghệ thuật rất không bình thường, có lẽ. Nhớ tới Giang Hòa, cô luôn sẽ nhếch khóe miệng, cười nụ. Anh là một người cởi mở, thích mang sự cởi mở của anh bao phủ những người xung quanh. Nếu không phải anh kiên quyết nói chiếc vòng tay Trục Lỗi tặng thành một bộ xương khô, Ấn Thần có lẽ sẽ không chia tay với anh. Xương khô? Giang Hòa thật biết nghĩ ra cách làm khó! Ấn Thần tinh nghịch gẩy móng tay vào giữa vòng tay, nheo mắt nhìn. Chiếc vòng khá nặng, chủ yếu là bởi vì bảy bông sen kia. Cô không biết loại gỗ nào có thể sinh ra sức nặng lớn như vậy với một vật nhỏ như thế này. Còn vương một loại hương khí nhàn nhạt của cây hoắc diệp[4]. Nghe anh trai nói loại hương hoắc diệp quý báu này chỉ có ở Tây Vực thời cổ đại, dùng làm cống phẩm cho hoàng đế. [4] Hoắc diệp: một loại cây có lá rất thơm, dùng làm thuốc. Vậy cô có thể gọi là nửa quý tộc? Một cô bé con 7, 8 tuổi ngồi đối diện cô nhìn chằm chằm tay cô, “Oa” một tiếng khóc ré lên, bổ nhào vào lòng một thiếu phụ, rấm rứt: “Mẹ, con sợ...” Mẹ cô bé âm thầm nén giận, liếc mắt nhìn Ấn Thần một cái, rồi mới quay sang an ủi con gái. Ấn Thần ngơ ngác ngồi tại chỗ, vẻ mặt xấu hổ. Sao chứ, cô có làm gì dọa con bé ấy sao? Xe lửa chậm rãi chạy vào trạm dừng Đôn Hoàng. Ấn Thần cười cười tỏ vẻ có lỗi với hai mẹ con, xách hành lí chuẩn bị xuống.p> Hai mắt cô bé đẫm lệ nhìn nàng, hỏi mẹ: “Mẹ, đó là quỷ sao?” Mẹ cô lau nước mắt cho cô, ôm cô vào lòng, lẩm bẩm: “Không phải, không phải, làm sao có thể?” Ấn Thần sửng sốt, nhìn về phía vòng tay, vẫn là màu xanh đen, hoa sen như cũ, bảy đóa. Đôn Hoàng là một thành phố cổ xưa và thần bí. Vào thế kỷ thứ 4 sau công nguyên, giới tăng lữ dùng bùn đất ở đây, nặn ra cánh tay Quan Âm tròn và nhẵn mịn đầu tiên, bắt đầu từ khi đó, cái tên Đôn Hoàng đã không còn gắn liền với những bánh xe lịch sử của trần gian.p> Khi Ấn Thần đi ra sân ga, toà thành cổ bị phủ trong ánh tịch dương của bầu trời chiều hôm, hiện lên dưới ánh sáng vàng rực, bóng loáng, cát vàng ở phía sau làm tăng thêm lịch sử phong trần, khiến Đôn Hoàng thoạt nhìn như một vị mĩ nhân tuổi xế chiều, sa mỏng hư vô mịt mờ che khuất mặt nàng, những đường nét như có như không làm cho thâm tâm người khác sinh ra ý niệm muốn trộm ngó toàn cảnh. Sự huyền bí làm con người khắc khoải. Mời các bạn đón đọc Đóa Mạn Đà La Của Cô Dâu Xứ Lâu Lan của tác giả Đồng Hoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Không Muốn Làm Hoàng Hậu
Phụ mẫu Vân Kiều mất sớm, một mình nàng tự buôn bán nhỏ, còn nhặt được một thư sinh nghèo mi thanh mục tú về làm phu quân, mỗi ngày trôi qua cũng có chút thú vị. Sau này, khi phu quân nàng vào kinh đi thi, hắn bỗng nhiên trở thành Thái tử tôn quý. Ai ai cũng đều nói Vân Kiều nàng có phúc, ấy vậy mà lại được gả cho hoàng tử lưu lạc ở dân gian. Song, Vân Kiều lại cảm thấy vô cùng hụt hẫng. Nàng không quen với cuộc sống cẩm y ngọc thực, cũng không am hiểu cầm kỳ thi hoạ, phong hoa tuyết nguyệt, thậm chí chữ viết cũng rất xấu. Hoa phục của Trung cung mặc lên người nàng không hề giống một Hoàng Hậu. Vân Kiều cẩn tuân lời dạy bảo của Thái hậu, học quy củ, tuân thủ lễ nghi, không sân si, không đố kị, mãi đến khi Bùi Thừa Tư tìm được bạch nguyệt quang trong lòng hắn. Cuối cùng, nàng mới hiểu, hoá ra Bùi Thừa Tư cũng có thể yêu một người đến vậy. Ngày Bùi Thừa Tư sửa tên đổi họ cho bạch nguyệt quang đã mất phu quân kia, cho nàng ta tiến cung phong phi, Vân Kiều uống chén thuốc ph* thai làm mất đi hài tử mà chính nàng đã mong đợi. Đối mặt với cơn giận lôi đình của Bùi Thừa Tư, nàng không màng đến vị trí Hoàng hậu, nàng muốn về lại trấn Quế Hoa. Nàng ghét phải nhìn bầu trời nhỏ hẹp trong cung cấm, nàng muốn trở về thị trấn nhỏ, thiên hạ rộng lớn, hương thơm tỏa khắp đất trời vào cuối thu. Nàng cũng ghét nhìn thấy Bùi Thừa Tư. Từ đầu tới cuối, nàng chỉ yêu chàng thư sinh áo xanh phóng khoáng nọ, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy yêu thích vô cùng. Tiếc là, từ lúc hắn rời trấn vào kinh, hắn đã chết rồi. Vai chính: Vân Kiều ┃ vai phụ: Những người còn lại. Lập ý: Nếu ngươi vô tình vậy thì ta sẽ hưu. *** Mưa vào mùa hè thường kéo đến rất nhanh, rõ ràng vừa rồi trời quang mây tạnh, vậy mà chớp mắt, mây đen giăng kín, mưa rơi nặng hạt. Trên mạn thuyền, nước mưa như những hạt châu nhảy múa, làm ướt tà váy màu thiên thanh. Vân Kiều nhìn về bến tàu gần đó, đến khi Nguyên Anh giục, nàng mới nhấc váy vào thuyền tránh mưa. “Ta thấy mưa này nhanh đến nhanh đi, đến chiều sẽ tạnh thôi!” Nguyên Anh bình thản rót trà rồi đẩy đến trước mặt nàng, giọng điệu trêu chọc: “Ta biết ngươi muốn được gặp phu quân sớm, nhưng cũng không nên gấp gáp như vậy!” Vân Kiều dở khóc dở cười, nàng về chỗ ngồi, rồi lại nhìn ra ngoài qua nửa cánh cửa sổ. Dù trời mưa to, song, dòng người vẫn tấp nập qua lại trên bến tàu. Hàng hoá của lái buôn ở đó vẫn còn dang dở, mọi người vội vàng lấy vải che lại. Những tòa lâu san sát nhau và con đường rộng lớn ở đằng xa mờ ảo. Càng ra xa, tầm nhìn càng không được rõ. “Ta còn chưa hỏi..” Nguyên Anh nhẹ vỗ lên bàn, hỏi nàng: “Ngươi tìm Yến lang của ngươi bằng cách nào?” Nhắc đến chuyện này, mặt Vân Kiều lộ ra vài phần bất lực, nàng nâng chén trà lên rồi nói: “Vào kinh rồi tìm hiểu sau. Hắn đã thi đậu rồi thì trên nha môn sẽ lưu lại tên hắn, bỏ chút công tìm kiếm thì cũng sẽ ra!” Nói xong, nàng nghiến răng: “Đến lúc đó ta sẽ tính sổ với hắn!” Phụ mẫu của Vân Kiều mất sớm, những năm gần đây nàng làm ăn nhỏ, lại còn có một phu quân như Yến Đình, mỗi ngày trôi qua khiến nàng vô cùng hài lòng. Nàng không có khát vọng gì to lớn, cũng không buộc phu quân phải vươn cao, cứ an nhàn sống ở trấn Quế Hoa này đã là tốt lắm rồi. Hồi đầu năm, trước khi Yến Đình lên kinh đi thi, hai người đã nói rõ với nhau. Nếu hắn đậu cao trung, dù ở kinh thành hay đến nơi khác nhậm chức cũng được, nàng đều đi theo hắn. Nếu chẳng may thi rớt cũng không sao, hắn về nhà muốn làm cái gì nàng cũng chiều ý. Nhưng thực tế, sau khi Yến Đình được đề tên lên bảng vàng, hắn sai người gửi một phong thư về nhà. Trên thư hắn nói hắn đã thi đậu, nhưng không nói hạng thứ mấy, cũng không đề cập đến dự định sau này, hắn chỉ dặn Vân Kiều an tâm ở nhà đợi một thời gian, đợi đến khi xong chuyện hắn sẽ quay về đón nàng. Cái này không giống phong thái của Yến Đình, trước giờ hắn làm việc đều chu đáo, ổn thoả, hiếm khi nào nói kiểu mập mờ thế này. Vân Kiều đọc đi đọc lại tin tức trong tay, rõ ràng giọng điệu cùng nét chữ vô cùng quen thuộc nhưng từng câu từng chữ đều kỳ quái, thậm chí còn khiến nàng suy đoán lung tung. Nàng tin vào nhân phẩm của Yến Đình cũng như đôi mắt của mình, cho nên nàng không nghi ngờ hắn sẽ giống như những nam nhân trong sách, sau khi đậu cao trung sẽ bạc tình bạc nghĩa phụ bỏ tào khang. Nhưng làm phu thê với nhau hai năm, trực giác nói cho nàng biết trong chuyện này, Yến Đình tám phần là đang giấu nàng chuyện gì đó. Vừa lúc Nguyên Anh từ Dương Châu về Trường An, nhân tiện chở theo hàng hoá hương liệu của nàng. Ban đầu, Vân Kiều hơi do dự, sau còn thêm một nguyên nhân khác, cho nên nàng quyết định theo Nguyên Anh đến Trường An. Buổi trưa, cơn mưa dần ngớt, nhưng vẫn không có ý định tạnh hẳn. “Việc ở đây không phải lo!” Nguyên Anh phủi phủi ống tay áo, thương lượng với Vân Kiều: “Để người của Ngô bá lên thuyền trông coi, đợi mưa tạnh sẽ có người dỡ hàng, trước mắt chúng ta đưa muội muội của ngươi xuống thuyền, dạo chơi xung quanh một chút!” “Được!” Vân Kiều đồng ý, nàng đi vào bên trong gọi Thiên Thiên. Thiên Thiên mang họ Từ, nàng ấy là nữ nhi độc nhất của di (dì) Vân Kiều. Từ gia không phải là con người, không biết bọn họ làm cách nào để giao thiệp được với tri phủ, bọn họ muốn gả Thiên Thiên cho tri phủ đại nhân, cái người đáng bằng tuổi cha nàng ấy. Mẫu thân nàng ấy đã mất sớm, người đầu têu cho việc này là kế mẫu. Từ Thiên Thiên không còn nơi nào để cầu cứu, cuối cùng nhân lúc mấy bà tử uống rượu đánh bạc, vào đếm tối, nàng chạy trốn đến trấn của Vân Kiều cầu cứu. Nàng là một nữ tử yếu đuối chưa từng bước chân ra khỏi khuê phòng, chạy một mạch đến đây, bộ dạng chật vật vô cùng, bàn chân bị mài mòn loang lổ vết máu, càng làm bộ dạng nàng đáng thương đến cực điểm. Sau khi Vân Kiều biết được chân tướng, nàng đã vô cùng tức giận. Nàng rất rõ tác phong làm việc của Từ gia, dù có chướng mắt di phụ (dượng) nhưng suy cho cùng Thiên Thiên cũng mang họ Từ, nàng là biểu tỷ khác họ muốn nhúng tay vào e là không thể. Chờ đến khi Từ gia tìm đến cửa đòi người, chưa chắc nàng có thể bảo vệ được nàng ấy. Đúng lúc Nguyên Anh đến, sau khi cân nhắc vài lần, nàng quyết định chống đối lại Từ gia, đưa Thiên Thiên rời khỏi Bình thành. Thân thể Thiên Thiên suy nhược, sau khi lên thuyền đã bị say sóng nặng, phần lớn thời gian đều ở trong phòng nghỉ ngơi, buồn bã yểu xìu. Đến khi theo Vân Kiều xuống thuyền, bàn chân giẫm lên được mặt đất cứng rắn, nàng mới khá lên được một chút. Từ Thiên Thiên nấp dưới ô của Vân Kiều nhìn bến tàu náo nhiệt rồi đến con phố rộng lớn bằng phẳng: “Vân tỷ, đây là Trường An sao?” Dưới màn mưa bụi bao phủ, hiện ra nơi phồn hoa lộng lẫy. Vân Kiều quan sát xung quanh, dù nàng đã sớm nghe người ta nhắc đến sự hưng thịnh và phong thái của kinh thành nhưng khi được nhìn tận mắt mới cảm nhận được cái gì gọi là “Hoàng thành”. Nguyên Anh sinh ra ở Trường An, đối với mọi thứ nơi đây nàng đã quen. Nàng chậm rãi đi phía trước dẫn đường, rồi kể cho các nàng nghe về cảnh sắc ở kinh thành. Sau cơn mưa, có thể nhìn rõ được những đám mây bay trên đỉnh núi cao chập chùng. Trên đó có Tướng Quốc Tự vang danh thiên hạ, hai tòa lầu cao ở bên trên gọi là Minh Nguyệt Đài. Hàng năm, vào dịp tết Nguyên Tiêu, Đế Hậu sẽ bước lên Minh Nguyệt Đài để vui cùng con dân. Đằng trước kia là cửa hiệu bán đồ trang sức tên Cẩm Tú Các, của hồi môn của nữ quyến cao môn đều mua ở đây, bao gồm tất thảy trang sức, son phấn, bột nước… “Cái này ta đã từng nghe qua!” Vân Kiều thích thú đánh giá cửa hiệu Cẩm Tú Các “Cũng coi như có chút giao thiệp!” Nguyên Anh biết được trong đó có gì, nàng cười cười ngầm hiểu ý, sau đó đưa Vân Kiều đến một con phố khác: “Nơi này là khách điếm Như Ý, còn gọi là “Trạng Nguyên Cập Đệ Lâu”!” “Bởi vì khách ở nơi này từng đậu 3 vị Trạng Nguyên, 10 vị Bảng Nhãn, Thám Hoa, cho nên sĩ tử vào kinh đi thi sẽ cố gắng dùng nhiều bạc chút để được ở đây, để mượn chút may mắn!” Nguyên Anh giương cằm lên nói với Vân Kiều: “Chúng ta dùng cơm trưa ở đây, thừa dịp hỏi thăm về phu quân ngươi luôn!” Vân Kiều đến mái hiên, gấp ô giấy dầu lại, nói cảm ơn. Nàng rất rõ, Yến Đình sẽ không tin những chuyện này. Từ trước giờ hắn là người thích yên tĩnh không thích náo nhiệt, không những hắn không đến Trạng Nguyên Cập Đệ Lâu này, mà còn tránh xa nữa là. Nhưng trên thư Yến Đình không nhắc đến bản thân hắn ở nơi nào của Kinh Thành, trường An lớn như vậy cũng không biết bắt đầu tìm từ đâu, chỉ đành đến đâu hay đến đấy. Sau khi vào quán, Nguyên Anh gọi những món ăn quen thuộc, còn Vân Kiều thì cho Tiểu nhị một ít tiền rồi hỏi han một chút. Tiểu nhị của khách điếm Như Ý này rất thật thà, khi nghe hỏi đến người đậu khoa cử ở đầu xuân năm nay, hắn liền cười phấn khởi: “Kim khoa Bảng Nhãn là người trọ ở chỗ chúng tôi, ngày đó tin vui truyền đến cực kỳ náo nhiệt…” Vân Kiều nhẫn nại nghe hắn khoe một hồi, chốc chốc lại phụ hoạ vài câu, sau đó mới nói về mục đích của mình đến đây. “Ngài cứ hỏi,” tiểu nhị niềm nở nói: “Chỉ cần người đã từng ở trọ chỗ chúng ta, người nào có tên trên bảng vàng, ta đều biết cả!” Vân Kiều nói tên của Yến Đình, tuy nàng biết không có mấy khả năng, nhưng nhìn ánh mắt của tiểu nhị trong lòng nàng có chút hy vọng. Trời sinh tướng mạo nàng mỹ miều, có thể gọi là mỹ nhân. Da trắng, tóc đen, môi đỏ nhưng đẹp nhất vẫn là đôi mắt kia, phía đuôi mắt hơi vểnh lên toát ra dáng vẻ hào hoa, ánh mắt long lanh khiến cho người khác gặp rồi khó quên. Tiểu nhị bắt gặp ánh mắt trông chờ của nàng có chút giật mình, ngập ngừng nói: “Vị Yến công tử này không ở chỗ khách điếm chúng ta!” Mí mắt Vân Kiều khẽ run, nàng sớm đã đoán được, nên lúc này cũng không thất vọng lắm, chỉ vô thức thở dài. Tiểu nhị gãi gãi đầu, rồi nói: “Cũng có thể là vì trí nhớ của ta không tốt, ngài cứ dùng cơm đi, ta sẽ đi hỏi giúp ngài!” Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Không Muốn Làm Hoàng Hậu của tác giả Thâm Bích Sắc.
Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương
Bạn đang đọc truyện Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương của tác giả Diệp Lạc Vô Tâm. Cũng là lần đầu tiên hắn nhìn kĩ một nữ nhân, nước mắt kia như trận bão vô cùng, cuốn qua toàn thân, khiến hắn ướt đẫm, thiên địa cũng không còn sắc màu nào khác... Nàng lần đầu tiên nhìn thấy hắn, là lúc hắn đang cười, ánh hoàng hôn rực rỡ kia trước nụ cười của hắn càng ảm đạm, tiếng lả tả xung quanh cũng dường như lặng yên. Cũng là lần đầu tiên nàng nhìn kĩ một nam nhân, hắn như là mây là khói trên đỉnh Hoa Sơn cao vời, gió thu se lạnh cũng vì nụ cười hắn mà trở nên ấm áp… Tình là thứ động lòng người nhất, nàng tên là Mạc Tình nhưng cả đời lại khổ vì tình. Nếu là fan của Diệp Lạc Vô Tâm, bạn có thể đọc thêm Hồ Ly Biết Yêu hay Sợi Khói Mỏng Lạc Giữa Trần Ai. *** Tình là thứ động lòng người nhất, nàng tên là Mạc Tình nhưng cả đời lại khổ vì tình. Chàng tên là Tần Phong - Gió là thứ vô tình nhất nhưng lại vì tình mà dừng bước, cuối cùng tan biến trong không khí... Người trong nhân thế đều biết tình ái nơi cõi trần là điều đau khổ nhưng có bao nhiêu người thật sự hiểu thấu được nó? Nếu đã bước vào hồng trần, chi bằng hãy dốc hết lòng mà yêu. Bất luận là tình sâu hay duyên mỏng, chỉ mong đời này không hối hận. ~~~~~ Không chỉ khoác lên mình tấm áo mới mà tác phẩm “Nửa kiếp hồng trần, một khúc du ca” còn có tên mới là “Gió ngừng thổi, tình còn vương”. *** Có người nói: hễ nơi nào có người thì sẽ có giang hồ.  Bạch Hiểu Sinh- người thông hiểu mọi chuyện trên giang hồ lại nói: nơi nào có tình yêu thì sẽ có hồng trần, nơi nào có dục vọng thì sẽ có giết chóc, nơi nào có những chuyện truyền kỳ thì mới là giang hồ thật sự...  Giang hồ thật sự không thể nhìn thấy bằng mắt nhưng nó tồn tại mà không có ranh giới. Người ta sẽ không biết được khi nào thì mình bước vào, cũng không biết được khi nào mới có thể thoát ra. Nó thoạt nhìn rối ren, hỗn loạn nhưng thật ra lại có một trật tự nhất định. Giữa chính và tà dường như có một ranh giới không thể vượt qua nhưng không ai biết được điểm khác nhau thật sự của chính và tà là đâu.  Trong chốn giang hồ bấp bênh vô chừng ấy cũng có rất nhiều kiếm khách đứng ngoài sự tranh đấu giữa các môn phái. Thỉnh thoảng họ lại vung kiếm bước vào giang hồ, thỉnh thoảng lại tắm mình trong gió tanh mưa máu vì cái mà mình cho là chính nghĩa nhưng cũng nhanh chóng tách mình ra khỏi đó. Người trong giang hồ đặt cho kiểu người này một danh xưng rất đặc biệt: lãng tử.  Tuy trong mắt rất nhiều kẻ tự xưng là danh môn chính phái, những người này không đáng được nhắc tới nhưng họ chính là nhân tố khiến cho giang hồ trở nên muôn màu muôn vẻ, và họ đã được viết thành truyền kỳ.  ____________________  1-1-2022  Hoa bỉ ngạn có hoa không có lá  trái tim nàng sắt đá chẳng có ta... Mời các bạn mượn đọc sách Gió Ngừng Thổi, Tình Còn Vương của tác giả Diệp Lạc Vô Tâm.
Hóa Ra Bản Vương Mới Là Thế Thân
Hóa ra bản vương mới là thế thân Tác Giả: Tả Ly Thanh Số chương: 122 chương + 9 phiên ngoại Thể Loại: ngôn tình, ngược tâm, cung đình hầu tước, cường cường, HE Editor: Ji Ji Beta-er: Yui Design bìa: Tôm Nướng – Châu Về Hợp Phố Nguồn convert: Wiki Dịch *Copy nhớ ghi nguồn giúp mình* LƯU Ý: CÁC BẠN ĐỌC NỘI QUY NHÀ TRƯỚC KHI ĐỌC TRUYỆN GIÚP MÌNH NHA — Ba năm trước đây, Tề Vương Hoàn Huyên giận dữ chạy ra nơi biên quan xa xôi chỉ vì người con gái thanh mai trúc mã của mình gả cho Thái tử. Ba năm sau, hắn quay về cùng một cô bé mồ côi của thợ săn, diện mạo tương tự với người trong lòng đến sáu – bảy phần. Đêm mà người trong lòng thành hôn, hắn nhận nàng làm ngoại thất. Nàng yêu hắn đến thảm thương, thậm chí vì hắn mà lấy thân mình chắn tên. Cuối cùng cũng có một ngày, hắn mới nhớ rõ tên của nàng là Tùy Tùy nhưng nàng bỗng nhiên mất hút, chỉ để lại một bộ trang phục nhuộm đầy máu. Cho đến lúc này, Hoàn Huyên mới phát hiện trái tim mình như bị khoét mất một khoảng lớn. Hắn tựa như tên điên đi tìm nàng khắp nơi trong vô vọng. … Hai năm sau, Tiết độ sứ mới nhậm chức ở Tam Trấn Hà Sóc vào Kinh Thành nhận phong hào, hắn đến cổng thành đón tiếp. Nàng là chiến thần Đại Ung thống lĩnh hơn hai mươi vạn tinh binh. Cũng là vị hôn thê của trưởng huynh đã mất sớm của mình. Hóa ra hắn mới là kẻ thế thân chân chính. *** Văn án | Edit bởi Châu Về Hợp Phố: Khắp thành Trường An đều biết trong lòng Tề vương Hoàn Huyên ôm ấp một hình bóng, chính là Thái tử phi đương triều. Hắn vì nàng mà mãi chưa chịu cưới vợ. Lại còn mang một người con gái có dung mạo tương tự nàng từ biên quan về. Ai cũng tưởng đó chẳng qua chỉ là một thế thân không hề quan trọng. Ngay chính Hoàn Huyên cũng nghĩ thế. Mãi đến một ngày. Người con gái nọ bỗng dưng mất tích. Chỉ để lại một biển lửa và một xác cháy. Tất thảy mọi người đều nghĩ nàng đã chết. Duy có Hoàn Huyên không tin. Tim hắn như bị khoét đi một miếng. Hắn nguyện đổi hết những gì mình có, chỉ cần có thể tìm lại đôi mắt dịu dàng như nước hồ thu, sáng lấp lánh như sao trời kia. Tìm lại Tùy Tùy của hắn. Hắn tìm nàng đến phát điên. Nhưng mãi vẫn không thấy bóng nàng. Mãi đến hai năm sau, khi Tam trấn Tiết độ sứ vào kinh nhận sắc phong, rốt cuộc hắn cũng gặp lại nàng. Nàng ngồi trên lưng ngựa, thản nhiên nhìn hắn như nhìn kẻ xa lạ: “Mơ luôn phải tỉnh.” Nàng là chiến thần Đại Ung, thống lĩnh hai mươi vạn quân tinh nhuệ. Cũng là thê tử đã cưới hỏi đàng hoàng của người anh ra đi khi tóc còn xanh của hắn. Hóa ra hắn mới là kẻ thế thân. Hóa ra trong đôi mắt kia, hắn chưa bao giờ là chính mình. Tay hắn cầm lưỡi dao nàng, kề sát mặt mình, để mặc máu chảy đầm đìa: “Bây giờ không giống nữa rồi.” Giới thiệu trong một câu: Nam nữ chính đều xem nhau là thế thân của người khác, dỗ vợ thừa sống thiếu chết. Ý chính: Tình yêu đòi hỏi sự công bằng. *** Cuối thu, cây lá xào xạc. Thành bắc của Trường An, bụi đất cuồn cuộn trên đường lớn, một nhóm người lẫn ngựa xuất hiện từ phía xa. Hàng chục binh lính tinh nhuệ mặc áo giáp đen, cưỡi ngựa tiên phong dọn đường, tựa như cưỡi mây từ trên trời xuống. Người đi đường cùng xe ngựa xung quanh lần lượt tránh sang một bên, khẽ bàn luận: "Thấy đoàn hắc kị binh cùng hắc mã đó không? Đó chính là Thần Dực Quân của Tề Vương đấy." "Đúng thật là uy phong lẫm liệt!" "Chẳng phải Tề Vương mấy năm nay đều trấn thủ ở biên quan sao? Vì sao đột nhiên hồi kinh vậy?" "Đại hôn của Thái tử, huynh đệ ruột thịt dù sao cũng phải có mặt chứ." "Không phải nói Tề Vương và vị Thái tử phi kia...!Khụ khụ...!Gặp lại chẳng phải quá xấu hổ..." "Suỵt...!coi chừng rơi đầu!" "Có cái gì, trong thành ai mà không bàn tán..." Chuyện huynh đệ Thái tử và Tề Vương tranh giành một nữ nhân, mọi người trong kkinh thành đều biết. Mà đối tượng bọn họ tranh đoạt, chính là tam tiểu thư Nguyễn Nguyệt Vi của phu nhân Ninh Viễn Hầu phủ. Nguyễn Nguyệt Vi là cháu gái ruột nhà mẹ đẻ của Thái Hậu, từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong cung Thái Hậu, là thanh mai trúc mã với Tề Vương Hoàn Huyên. Nàng sinh ra đã hà tư nguyệt vận với danh xưng đệ nhất mỹ nhân kinh thành, lại có tình cảm cùng lớn lên, Tề Vương đối với nàng đương nhiên nảy sinh tình cảm sâu đậm. (Ji: Hà tư nguyệt vận - phong thái thanh lịch, đẹp đẽ của giới quý tộc) Nhưng lúc bàn đến chuyện hôn thú, đột nhiên trong cung có chuyện lớn, đích trưởng Thái tử bỗng nhiên bệnh nặng hoăng thệ, Nhị hoàng tử trở thành chủ Đông Cung, chuyện thứ nhất sau khi hắn vào Đông Cung chính là hướng Ninh Viễn Hầu cầu thú Nguyễn Nguyệt Vi. Ninh Viễn Hầu quyết định rất nhanh, Nguyễn tam nương liền định hôn với Thái tử. Người trong lòng bỗng trở thành tẩu tẩu, Tề Vương giận dữ chạy đến Tây Cương. Chớp mắt đã ba năm, đại hôn của Thái tử sắp tới, Hoàng Đế hạ chỉ triệu Tam Hoàng tử hồi kinh để bịt miệng dân chúng - vì một nữ nhân mà náo loạn, ngay cả đại hôn của huynh trưởng cũng không lộ diện, chẳng phải khiến thiên hạ chế giễu hay sao. Kháng chỉ không tuân coi như mưu phản, dù cho Hoàn Huyên không tình nguyện cũng chỉ đành hồi kinh tham dự đại hôn. Xe ngựa tấp nập qua lại, không ai để ý trong đó có một chiếc xe ngựa nhỏ rèm xanh lướt qua. Trong xe ngựa, tỳ nữ Xuân Điều xoa đôi chân đang tê rần, thỉnh thoảng dùng khóe mắt liếc sang nữ tử trẻ tuổi bên cạnh. Nữ tử khoảng hơn hai mươi, mặc chiếc váy màu xanh bình thường, không tô son điểm phấn cũng không đeo trang sức vàng ngọc, mái tóc dài chỉ dùng cốt trâm búi gọn trên cao. Nàng là chủ nhân nhưng quần áo cùng cách trang điểm còn giống nô tỳ hơn cả nô tỳ. (Yu: cốt trâm là trâm được làm từ xương động vật, thường là xương bò) Nàng nghiêng người dựa vào thành xe, lồng ngực theo hô hấp phập phồng nhẹ nhàng, hiển nhiên là ngủ rồi. Xuân Điều cũng có chút bội phục nàng, tiếng vó ngựa cùng tiếng bánh xe ầm ầm như thế mà có thể ngủ được, tâm này cũng quá lớn đi. Đúng lúc này, xe ngựa bỗng lắc mạnh. Nữ tử hơi cau mày, hàng mi dài run run, chậm rãi mở mắt, ánh hoàng hôn xuyên qua khe hở của rèm chiếu trên mặt nàng, đôi mắt màu hổ phách lấp lánh ánh vàng, xinh đẹp đến dị thường. Nàng ngáp một tiếng, lười nhác vươn vai, vốn là một động tác lỗ mãng nhưng khi nàng làm lại có dáng vẻ tuyệt đẹp như vậy, tựa như con báo lười biếng đang vươn mình. Xuân Điều thầm nghĩ, ở cạnh nàng ấy hơn nửa năm nhưng đôi lúc không cẩn thận vẫn bị lóa mắt trước nhan sắc này. Làm sao một cô gái xinh đẹp tựa châu ngọc lại không thể làm vui lòng Tề Vương điện hạ chứ? "Chưa tới trạm dịch à?" Giọng nói của nữ tử không chuẩn lắm, pha lẫn khẩu âm nồng đậm vùng biên quan, hơn nữa thanh âm còn trầm thấp hơn những tiểu cô nương khác, có chút khàn khàn, làm người nhớ đến làn gió đầu xuân thổi qua cánh đồng bát ngát. "Cô nương, sắp tới rồi." Xuân Điều đáp, "Người muốn uống trà không?" Nữ tử vừa mới tỉnh giấc vẫn còn mơ màng, nàng lắc đầu, mí mắt lại cụp xuống: "Ta đây tiếp tục..." Không đợi nàng nhắm mắt, một chiếc túi da đựng đầy nước đã đưa đến bên miệng nàng. "Cô nương uống một ngụm trà cho tỉnh đi." Xuân Điều nói, "Nếu ban ngày ngủ nhiều, ban đêm sẽ khó vào giấc." Nữ tử nhận lấy túi nước uống một ngụm, nước trà pha lâu nên có vị đắng chát, nàng cau mày: "Đắng quá." "Đắng mới tỉnh được." "Đổi cho ta một bình rượu." Xuân Điều nhíu chặt mày: "Hết rượu rồi." "Nhanh hết vậy sao?" "Bình rượu đã cạn lâu rồi." Xuân Điều hơi lộ ra bất mãn. Tiểu cô nương nhà người ta uống rượu đều là chỉ rót một ly uống làm dáng, chưa từng thấy ai như nàng, mỗi lần uống đều là một ngụm một chén. Nàng không nhịn được, bèn khuyên nhủ: "Khuê tú trong kinh thành đều uống trà, hiện giờ cô nương vào kinh, phải học nhập gia tùy tục mới tốt." "Học thế nào chứ, cũng không thể biến đắng thành ngọt được." Nữ tử ngoài miệng thì ghét bỏ, nhưng vẫn nhịn không được miệng lưỡi khô khốc, nàng ngửa cổ uống vài ngụm rồi trả lại túi nước, còn vô tâm vô phế nói: "Lại nói ta cũng đâu phải khuê tú, học mấy thứ vô ích này làm gì." Xuân Điều nhất thời á khẩu không trả lời được. Đúng là nàng không có chút liên quan nào đến khuê tú. Nàng họ Lộc, tên là Tùy Tùy, là con gái nhà thợ săn. Nửa năm trước, Tề Vương dẫn binh đến Tần Châu dẹp loạn, vào núi truy đuổi phản quân thì tình cờ cứu được nàng. Cả gia đình Tùy Tùy đều chết dưới lưỡi đao của phản quân, bản thân nàng cũng bị trọng thương, khó khăn lắm mới nhặt được mạng về. Mời các bạn mượn đọc sách Hóa Ra Bản Vương Mới Là Thế Thân của tác giả Tả Ly Thanh.
Nghe Quân Về
Bạn đang đọc truyện Nghe Quân Về của tác giả Mễ Hoa. Sau này Thái tử mưu phản, hắn quyết tâm muốn lôi ta cùng chết.   Ta ôm eo hắn khóc rất to: "Thái tôn! Em không muốn chết! Người lấy oán trả ơn!"   Biển lửa hừng hực ánh vào vẻ mặt của hắn, trông lộng lẫy mà tàn khốc đến cực điểm: "Em là nữ nhân duy nhất của cô, cô ở đâu, đương nhiên em phải ở đó."   Nếu yêu thích truyện ngôn tình, bạn có thể đọc thêm Nàng Tựa Mật Đào hay Ngọn Sóng Không Tên. *** Lần đầu tiên gặp hoàng thái tôn ta chỉ mới mười tuổi, khi ấy ta là một tiểu cung tỳ được lão ma ma trong lãnh cung nuôi lớn. Lãnh cung ở lối giữa của Tây Lục Viện, là một nơi hoang vu tràn đầy âm u và trầm lặng. Năm ấy ta vẫn đang múc nước giặt quần áo trong Nghi Môn Viện như thường lệ, chợt thấy trong hành lang mọc đầy cỏ dại kia có một vị tiểu công tử đang từ xa đi tới. Tuổi tác của tiểu công tử không lớn, người mặc áo gấm, thân như trúc xanh. Mà ở đằng sau hắn, có một con chó ngao to khổng lồ đang hung dữ đuổi theo. Khoảnh khắc nhìn thấy hắn, nửa xô nước ta vất vả lắm mới kéo lên được lại đột nhiên rơi cái bịch vào đáy giếng theo chuyển động của chiếc trục cán bánh xe cũ kĩ. Sau đó ta quát to một tiếng, cầm chiếc gậy gỗ trong chậu ra rồi chạy qua đánh chó. Hôm đó là tết Thượng Tị. Dân gian có tục chơi xuân và tắm rửa trừ tà bên bờ sông, vị Trương quý phi trong cung kia còn cử hành thêm cả yến tiệc tế thần. Thái tôn bị chó cắn một phát, ta cũng xui xẻo bị nó cắn cho một miếng, sau đó nó đã bị thủ lĩnh của đội thị vệ tuần sát trong cung chạy đến bắn chết. Đó là một con chó ngao, nghe nói nó được tộc phiên ở phía bắc mang đến cống nạp, xưa nay vẫn luôn được nuôi dưỡng ở Khu Vạn Sinh. Con có ngao có bộ lông dài đen nhánh, ngoại hình dũng mãnh, hung ác hơn mấy con chó được nuôi trong kinh kỳ nhiều. Càng quan trọng hơn là răng nanh của nó có độc. Hoàng thái tôn không bị sao cả, bởi vì hắn mặc áo giáp phòng thân ở bên trong. Ta thì không được như thế, suýt chút nữa đã đi tong một cái mạng. Lúc sau mãi mới nhặt được một cái mạng về, ta vừa tĩnh dưỡng được hơn một tháng thì đã bị gọi đến Điện Trọng Hoa ở Đông Cung. Năm đó hoàng thái tôn mười hai tuổi, hắn ngồi ngay ngắn trên cao đường, mặt mày bén nhọn, khí thế khiếp người. Ta dựa theo lời ma ma đã dặn trước đó, hai tay xếp lại trên mặt đất, quỳ xuống dập đầu không dám nhìn hắn. Cung điện cao lớn, nguy nga túc mục, chỉ nghe thấy thiếu niên lạnh lùng đầy uy nghiêm kia trầm giọng hỏi ta: "Tại sao lại muốn cứu cô?" Ta vốn định dựa theo lời ma ma đã dặn, trả lời hắn một câu [Thái tôn điện hạ là chủ tử, nô tỳ hộ chủ là việc nên làm.] Nhưng hết lần này tới lần khác do lo lắng quá nên ta lỡ quên béng hết lời bà ấy dặn. Thái tôn thấy ta không đáp lời, giọng nói không khỏi lại nghiêm khắc vài phần: "Ngẩng đầu lên, cô đang tra hỏi ngươi đấy!" Ta vội vàng ngẩng đầu, bất chợt bắt gặp đôi mắt đen nhánh kia của hắn, cả người bỗng nhiên sửng sốt cực kỳ. Hoàng thái tôn là hậu duệ quý tộc, khí phách trên người sinh ra đã có. Trông hắn còn tuấn tú đẹp trai như thế, làn da trắng như tuyết, ngũ quan đoan chính, mặt mày sắc bén, sống mũi cao thắng, màu môi hơi nhạt. Ta nhìn hắn, đầu óc đột nhiên quay cuồng, chợt buột miệng nói: "Điện hạ trông xinh đẹp." "Cái gì cơ?" "Điện hạ trông xinh đẹp." Ta lặp lại một lần nữa, vô cùng nghiêm túc: "A Ôn cũng xinh đẹp, hồi còn bé mỗi lần tổ chức tế thần vào ngày lễ Thượng Tị, mẹ ta đều sẽ mặc cho ta bộ quần áo nhìn hệt như long nữ để đi hội chùa. Chính là long nữ và đồng tử ở dưới tòa của Bồ Tát đó, được rất nhiều người khiêng lên đi trên phố, mẹ ta nói chỉ có người nào xinh đẹp thì mới được ngồi ở trên đó thôi." Trong lời nói không dấu được vẻ đắc ý. Thái tôn nghe vậy thì lại mím môi, hồi lâu sau mới lên tiếng hỏi ta: "Ngươi là con gái út nhà quận trưởng của huyện Tiêu ở Dự Châu sao?" "Đúng vậy, cha ta tên là Văn Túc, ta tên là Văn Sênh, nhưng sau khi vào cung bọn họ nói ta không thể lại dùng tên cũ nữa, cho nên bây giờ ta tên là A Ôn." Ta thành thật trả lời. Văn Sênh vào cung năm sáu tuổi, trước đó cũng là tiểu thư cành vàng lá ngọc được nuông chiều của nhà quan lại nơi quê quán. Năm Cảnh Thọ thứ năm, Hoàng đế đi tuần ở phía nam, lúc đi ngang qua huyện Tiêu ngắm đèn thì bị ám sát dẫn đến việc Hiếu Văn hoàng hậu tạ thế. Hiếu Văn hoàng hậu là vợ cả của Cảnh đế, hai người tình cảm thâm hậu, khi ấy hoàng đế cực kỳ bi ai, huyện Tiêu máu chảy thành sông. Thích sử của Dự Châu và các quan viên địa phương đều bởi vì không kịp thời hộ chủ nên cả nhà đều bị lưu đày, duy chỉ có mấy cô bé còn nhỏ thì bị bắt vào cung làm nô. Ta từng tên là Văn Sênh, ngay từ ngày thơ bé đã không giống với người khác, đến ba tuổi rưỡi rồi mà còn không thể mở miệng nói chuyện. Cha ta thường gọi ta là bé ngốc. Ông ấy thờ phụng đạo Năm đấu gạo (*), từng mời một đạo sư tới đoán mệnh cho ta. (*) Thiên sư Đạo, còn gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo Năm đấu gạo), Chính Nhất Đạo, Chính Nhất Minh Uy Chi Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng sáng lập. Ban đầu, tôn giáo này không có tên gọi chính thức, thường được gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo do khi các tín đồ nhập giáo đều phải nộp 5 đấu gạo, do đó mà thành tên. Đạo sư nói mệnh của ta là đồng nữ mạng quý, tuy rằng tâm trí trẻ con nhưng lại cao quý hơn người thường. Cái miệng lưỡi dẻo quẹo của ông ta dỗ dành đến nỗi cha ta lại giao thêm vài chục đấu gạo nữa. Tội nô thì có mạng quý gì chứ. Trên đường bị áp giải về kinh ta lại ngã bệnh một hồi, sau đó bọn họ phát hiện ra rằng ta chỉ là một kẻ ngốc nên vừa vào cung thì vú già quản sự đã lập tức ném ta cho mấy lão ma ma trong lối giữa của lãnh cung. Chỉ để lại một câu ---- "Có sống được hay không thì phải xem mệnh của nó, nếu chết thì thông báo cho Lưu Xuân một tiếng, cuốn vào cái chiếu rồi ném ra bên ngoài chôn đi." Các ma ma đều đã lớn tuổi, thiện tâm. Ta còn nhỏ tuổi, mạng cứng. Cứ như vậy, ta sống trong lãnh cung đến năm mười tuổi. Hoàng thái tôn hỏi ta có bằng lòng ở lại Cung Trọng Hoa không. Ta trả lời không hề do dự: "Bằng lòng." Ta nghĩ sở dĩ hắn lên tiếng để cho ta ở lại Cung Trọng Hoa thế này, một là bởi vì ta cầm gậy đánh chó, còn hai nhất định là bởi vì gương mặt ta trông giống đứa bé ở trên bức tranh tết bằng gỗ trong đào hoa ổ ở dân gian. Các ma ma luôn nói như vậy, họ còn nói do hoàng thái tôn thấy ta ngoan ngoãn, lại còn trông xinh đẹp đáng yêu nên mới cố gắng giữ ta lại. Quế Hoa ma ma nói: "Nếu thái tôn bằng lòng giữ con lại thì con phải đồng ý ngay." "Sao phải thế ạ?" "Tiểu A Ôn, con nhìn khu vực lối giữa này mà xem, trừ mấy bà lão như chúng ta thì chỉ toàn là những phi tần bị phế kia, người bị điên, kẻ bị bệnh, chết thì cũng chết cả rồi. Còn có cả cái loại dơ bẩn như Lưu Xuân ở đây, chúng ta có thể che chở con mấy năm nữa đâu, bị nhốt ở nơi này thì vĩnh viễn sẽ không có đường ra. Nếu có thể đến chỗ của thái tôn thì đó chính là mệnh của con." Mời các bạn mượn đọc sách Nghe Quân Về của tác giả Mễ Hoa.