Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Trái Tim Vàng - Danielle Steel

Những trái tim vàng - Một bản ballad ngọt ngào và nên thơ dành cho những trái tim cô đơn luôn khao khát kiếm tìm một bến bờ tình yêu thực sự... Những tưởng hạnh phúc tuyệt vời cùng người chồng thành đạt và hai đứa con ngoan sẽ mãi mãi hiện hữu trong tổ ấm của Sarah - một phụ nữ xinh đẹp, nhân hậu và hết lòng vì gia đình. Nhưng, một biến cố lớn xảy ra đã vạch trần bộ mặt thật của Seth - chồng bà - một kẻ lừa đảo! Sụp đổ, đau đớn, thất vọng, hụt hẫng, mất mát là cảm giác của Sarah khi biết được sự thật. Điều này như một cơn địa chấn dữ dội bất ngờ ập xuống cuộc đời vốn yên bình của bà. Thế nhưng, như bàn tay số mệnh sắp đặt, bà đã gặp và kết bạn với xơ Maggie, một nữ chân tu nhân hậu, người đã giúp Sarah vơi đi nỗi đau, đồng thời làm cho bà nhận ra rằng chỉ có tha thứ, lòng bao dung mới mang lại cảm giác bình yên và sự thanh thản đích thực cho tâm hồn. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Sarah Sloane bước vào phòng khiêu vũ của khách sạn Ritz Cariton ở San Francisco, bà hài lòng khi thấy cảnh trưng bày trong phòng quá tuyệt. Các bàn ăn được trải khăn vải màu kem, trên bàn có giá đèn cầy bằng bạc, dao nĩa thìa dùng để ăn thì sáng bóng. Những thứ này được thuê ở nơi chuyên cho thuê để dùng vào các buổi lễ sang trọng, chứ không dùng đồ ở khách sạn. Dĩa ăn được viền vàng. Các quà tặng trong buổi tiệc được bọc giấy bạc để trước mỗi chỗ ngồi. Thực đơn được viết bằng nét chữ đặc biệt rất đẹp, gắn vào các giá bằng bạc. Thiệp ghi tên thực khách có hình Thiên Thần Nhỏ màu vàng, chỗ ngồi của họ được Sarah nghiên cứu rất cẩn thận cho phù hợp với mỗi người. Những bàn danh dự đều có màu vàng được sắp thành ba dãy ở phía trước phòng, và sau đó, các bàn có màu bạc và đồng. Trước mỗi chỗ ngồi, có tờ ghi chi tiết chương trình buổi lễ trên giấy rất đẹp, cùng với danh sách các thứ bán đấu giá và cái chầm có ghi số. Sarah đã tổ chức buổi lễ rất kỹ càng, chi li và chính xác như bà đã từng tổ chức các buổi lễ từ thiện khác ở New York. Bà đã thân hành kiểm tra từng chi tiết nhỏ nhặt nhất, cho nên khi nhìn vào những đóa hồng màu kem được bao quanh bằng những dải vải thắt nơ màu vàng và bạc ở trên các bàn, bà có cảm giác đây là buổi tiệc cưới chứ không phải buổi lễ gây quỹ từ thiện. Hoa do nhà bán hoa nổi tiếng nhất của thành phố cung cấp với giá chỉ bằng một phần ba giá bình thường. Cửa hàng Saks phụ trách việc trình diễn thời trang, còn cửa hàng Tiffany phái những người mẫu đến, họ sẽ đeo nữ trang đi trình diễn khắp các thực khách. Cuộc bán đấu giá sẽ bán những thứ có giá trị rất lớn, gồm đồ nữ trang, vé du lịch nước ngoài, những vật dụng dùng trong thể thao, cơ hội gặp gỡ các nhân vật nổi tiếng, và chiếc Range Rover màu đen đậu ở trước cửa khách sạn có chiếc nơ màu vàng khổng lồ buộc ở trên nóc xe. Người nào mua được, sẽ sung sướng lái xe về nhà sau buổi lễ tối nay. Còn những trẻ sơ sinh mồ côi ở bệnh viện sẽ nhận được khá nhiều tiền từ thiện. Đây là lần thứ hai Sarah tổ chức gây quỹ từ thiện cho các trẻ sơ sinh mồ côi, mang tên Quà Cho Các Thiên Thần Nhỏ. Lần thứ nhất bà quyên góp được hơn hai triệu đô la, gồm tiền vé, tiền bán hàng đấu giá và tiền ủng hộ. Bà hy vọng tối nay số tiền thu được sẽ lên đến ba triệu. Những tiết mục giải trí đặc sắc và hấp dẫn trong buổi lễ sẽ giúp ban tổ chức đạt được mục đích yêu cầu. Ban nhạc sẽ chơi suốt cả buổi lễ. Một thành viên trong ban tổ chức là con gái của một vị có thế lực trong ngành âm nhạc ở Hollywood. Bố cô ta đã mời Melanie Free đến trình diễn, việc này giúp họ tăng giá vé bán ra, nhất là các vé VIP. Melanie đã đoạt giải Grammy mới cách đây vài tháng, cho nên việc nàng đến trình diễn là cơ hội lớn giúp họ hái ra tiền. Nàng đến để ủng hộ việc gây quỹ từ thiện cho Các Thiên Thần Nhỏ. Chi phí trong việc đi lại, ăn ở của các nhân viên phục vụ và ban nhạc chỉ ước chừng ba trăm ngàn đô la, so với số tiền ban tổ chức thu được chẳng nghĩa lý gì. Việc Melanie đến trình diễn có tác động nâng cao rất lớn số khách tới dự hôm nay. Người nào nhận được giấy mời đến xem Melanie trình diễn cũng đều rất phấn khích. Melanie hiện là ca sĩ nổi tiếng nhất nước và có dung nhan rất đáng chiêm ngưỡng. Nàng mới mười chín tuổi, là ca sĩ nổi như cồn trong hai năm qua nhờ những buổi trình diễn thành công liên tục. Vừa rồi nàng nhận được giải Grammy, nhưng đây chỉ là lớp kem bọc ngoài cái bánh, và Sarah mừng khi nàng đến trình diễn mà không lấy cát-xê. Nỗi lo sợ lớn nhất của bà là Melanie hủy show diễn vào phút chót. Vì là chương trình gây quỹ từ thiện, nên có nhiều ca sĩ đã không đến như dự kiến. Nhưng người đại diện cho Melanie đã quả quyết nàng sẽ đến. Buổi tối hứa hẹn nhiều sự phấn khích, nên báo chí đều cử phóng viên đến để viết bài. Ban tổ chức đã cố mời một vài ngôi sao từ L.A, và tất cả những nhân vật tai to mặt lớn tại địa phương đều mua vé đến dự. Việc tổ chức lễ gây quỹ từ thiện như thế này rất thành công và quan trọng ở Francisco trong hai năm qua, mọi người đều thấy việc đến dự buổi lễ là rất vui và thú vị. Sarah có ý tưởng tổ chức lễ gây quỹ từ thiện này là cũng có nguyên do. Chính các bác sĩ sản khoa đã cứu sống con gái bà, Molly, khi bà sinh con sớm ba tháng. Molly là con gái đầu của Sarah. Trong thời gian thai nghén, mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Với tuổi ba mươi hai, Sarah luôn cảm thấy sức khỏe mình rất tốt, bà nghĩ chắc sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra. Thế rồi vào một đêm trời mưa, bà chuyển bụng, bệnh viện không thể ngăn được bà đẻ non. Hôm sau Molly chào đời, cô bé sống trong lồng kính hai tháng trời tại phòng hồi sức của Bệnh viện Nhi đồng, với Sarah và chồng bà là Seth bên cạnh. Sarah ở tại bệnh viện cả ngày lẫn đêm, và họ đã cứu sống Molly. Bây giờ cô bé đã ba tuổi, mạnh khỏe, vui vẻ và chuẩn bị vào trường mẫu giáo đầu mùa thu này. Đứa con thứ hai của Sarah là Olliver - thường gọi Ollie - ra đời vào mùa hè vừa qua mà không gặp rắc rối gì. Cậu bé bây giờ đã được chín tháng, bụ bẫm, dễ thương và cười luôn mồm. Các bé là nguồn vui của Sarah và chồng bà. Sarah ở nhà để chăm sóc con, hoạt động quan trọng duy nhất của bà là hàng năm tổ chức ngày lễ gây quỹ từ thiện này. Công việc tuy có khó khăn và bề bộn, nhưng bà luôn hoàn thành có một cách hoàn hảo. Sarah và Seth gặp nhau tại Trường Kinh doanh Stanford cách đây sáu năm, và sau đó họ từ giã New York. Sau khi tốt nghiệp, họ cưới nhau và ở lại San Francisco. Seth có việc làm ở Silicon Valley, và ngay sau khi Molly ra đời, ông lập quỹ đầu tư đa chiều. Sarah không tham gia công việc này. Bà có thai Molly ngay vào đêm đầu tiên sau ngày cưới, bà muốn ở nhà để nuôi dạy con cái. Trước khi vào học Trường Kinh doanh Stanford, Sarah đã làm nhà phân tích thị trường Wall Street tại New York năm năm. Bà muốn nghỉ làm vài năm để dành trọn thì giờ cho việc làm mẹ. Seth làm tốt công việc quỹ đầu tư đa chiều của ông nên bà không cần phải đi làm. Với tuổi ba mươi bảy, Seth đã tạo nên được một gia tài kếch sù, trở thành ngôi sao sáng chói trên bầu trời tài chính, cả ở San Francisco lẫn New York. Họ mua ngôi nhà rộng lớn đẹp đẽ nhìn ra vịnh ở Pacific Heights, trong nhà trang hoàng đầy những hoạ phẩm đương đại nổi tiếng như của Calder, Ellsworth Kelly, de Kooning, Jackson và nhiều tác giả vô danh khác. Sarah và Seth sống thoải mái ở San Francisco. Họ dễ dàng di chuyển chỗ ở, vì bố mẹ Seth đã mất từ lâu, còn bố mẹ của Sarah đã dọn đến ở tại Bermuda, cho nên không có động cơ nào đủ mạnh để níu chân họ ở lại New York. Một quỹ đầu tư đa chiều cạnh tranh, đã đề nghị Sarah về cộng tác với họ, nhưng bà từ chối chỉ muốn dành thì giờ nuôi dạy Molly và Olliver - và chăm sóc Seth khi ông rãnh rỗi công việc. Ông vừa mua chiếc máy bay G5, để bay đi L.A, Chicago, Boston, và New York. Cuộc sống của họ sung túc đầy đủ và hạnh phúc. Thỉnh thoảng Sarah có hơi lo vì họ xài tiền quá nhiều, họ có một ngôi nhà tuyệt vời tại Tahoe, một ngôi nhà trong thành phố và có máy bay riêng. Nhưng Seth nói không sao. Ông bảo rằng tiền họ làm ra chân chính, cứ tiêu pha thoải mái, khỏi thắc mắc lo âu gì cho mệt. Seth đi chiếc Ferrari, còn Sarah dùng chiếc Mercedes Station Wagon, rất tiện lợi chở hai con theo, nhưng bà vẫn để ý đến chiếc Range Rover sẽ được bán đấu giá vào đêm nay. Bà đã nói với Seth rằng chiếc xe ấy rất tuyệt, nhất là ý định đóng góp tiền cho quỹ từ thiện đã khiến cả hai người quan tâm đến chiếc xe. Dù sao thì các bác sĩ thuộc phòng trẻ sơ sinh đã cứu sống Molly. Nếu con gái họ ở trong một bệnh viện có kỹ thuật kém hơn, ít thuốc men tốt hơn, thì chắc cô bé Molly của họ đã không sống được. Sarah nhớ mãi công đó nên bà tổ chức lễ gây quỹ phúc lợi này. Ban tổ chức sẽ giao cho bệnh viện số tiền thu được sau khi đã trả các chi phí. Seth bằng lòng cúng cho quỹ từ thiện này hai-trăm-ngàn-đô-la với tên của hai vợ chồng. Ông là ngôi sao sáng trong bầu trời của bà. Họ đã lấy nhau bốn năm và sẽ có thêm đứa con nữa. Trong ba tháng qua, bà đã bận rộn công việc tổ chức lễ gây quỹ phúc lợi. Họ đã thuê sẵn chiếc du thuyền ở Hy Lạp trong tháng tám, Sarah nghĩ rằng đây là thời gian rất thuận lợi để bà có thai đứa con thứ ba. ... Mời các bạn đón đọc Những Trái Tim Vàng của tác giả Danielle Steel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Tay Samurai - Amelie Nothomb
Amélie Nothomb là người Bỉ nhưng sinh ra tại thành phố Kobe, Nhật Bản và sống tại đây 5 năm cùng gia đình. Vòng tay Samurai dành hầu hết trang viết cho những trải nghiệm cuộc sống tình cảm ở Nhật Bản, xứ sở vốn được coi là bí ẩn phương Đông. Vòng tay Samurai" kể về mối tình của Amélie Nothomb với Rinri - một chàng trai Nhật Bản - vị hôn phu Tokyo "chính hiệu". Câu chuyện tình lạ thường này bắt đầu từ mối quan hệ: cô - trò. Bằng cái nhìn tinh tế và bút pháp tự truyện duyên dáng nhưng không kém phần hóm hỉnh, Amélie Nothomb đã tái hiện lại một cách sinh động toàn bộ cuộc sống và con người ở xứ sở Mặt trời mọc dưới những lát cắt thú vị nhất.  Đó là cuộc sống sinh hoạt của một gia đình Tokyo "kiểu mẫu", là những phong tục khi giới thiệu bạn gái, những nét đặc sắc trong ẩm thực, âm nhạc và đặc biệt là sự phức tạp trong ngôn ngữ diễn đạt. Từ những nhầm lẫn trong cách diễn đạt này mà vô tình, "cô giáo" Bỉ trở thành "cô bồ" của cậu trai Nhật Bản, rồi cũng lại bởi bất đồng ngôn ngữ mà cô gái một lần nữa "vô tình" đồng ý lời cầu hôn của chàng trai, để rồi bất đắc dĩ phải thực hiện cuộc chạy trốn khỏi đất nước mà cô yêu quý lẫn tôn sùng. Có thể có một chút tiếc nuối, một chút dằn vặt khi câu chuyện tình trong tác phẩm là dang dở nhưng người đọc có quyền thở phào nhẹ nhõm, có quyền hạnh phúc như niềm hạnh phúc của Amélie trong vòng tay Rinri khi anh nói trong ngày cô trở lại: "Anh muốn ôm em bằng vòng tay bạn hữu của Samurai" "Ta có thể tìm thấy tất thảy trong thiên diễm tình giữa Đông - Tây này..." - Marianne Payot, L'Express. *** Amélie Nothomb xuất hiện trên văn đàn năm 1992 với tiểu thuyết đầu tay Hồ sơ kẻ sát nhân (Hygiene de l'assassin). Danh tiếng một tác giả trẻ tài năng càng được khẳng định vững chắc nhờ với những tác phẩm ngay sau đó là Phá ngầm tình tứ (1993) với các giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Vòng tay Samurai (2007) với Giải thưởng Flore dành cho tác giả trẻ triển vọng... Được mệnh danh là “công chúa” của thế giới xuất bản Pháp, là "con cưng" của giới truyền thông, những tác phẩm của Amélie đã được dịch ra 14 thứ tiếng, cuốn nào khi xuất hiện cũng đều đứng vào hàng best-seller. Báo chí Pháp ca ngợi: “Amélie Nothomb là người có phép màu, biết biến thủy ngân thành vàng, biến một câu chuyện nhẹ nhàng lôi cuốn thành một triết lý nho nhỏ. Cô giúp cho người đọc được tiêu khiển, nhưng cũng bắt họ phải suy nghĩ”. *** Tôi thấy có lẽ cách học tiếng Nhật hiệu quả nhất là đi dạy tiếng Pháp. Vậy nên tôi để lại mẩu tin rao vặt tại siêu thị: “Nhận dạy kèm tiếng Pháp, giá cả hấp dẫn”. Ngay tối hôm đó, điện thoại đổ chuông. Cuộc hẹn được ấn định vào ngày hôm sau, tại một quán cà phê trên đại lộ Omote-Sando. Người gọi có nói tên anh ta, nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, anh cũng không hiểu tên tôi. Lúc bỏ điện thoại xuống, tôi mới chợt nhận ra là cả tôi và anh đều không biết sẽ nhận ra nhau bằng cách nào. Đã vậy, tôi lại không nhanh trí hỏi số điện thoại của anh, thật chẳng biết phải làm sao nữa. “Có thể anh ta sẽ gọi lại cho mình vì lý do đó”, tôi nghĩ vậy. Anh chẳng gọi lại cho tôi. Tôi nhớ giọng anh có vẻ còn trẻ. Điều đó không giúp ích gì nhiều. Vào năm 1989, ở Tokyo không hiếm thanh niên. Huống chi là vào tầm ba giờ chiều ngày 26 tháng Giêng tại quán cà phê trên đại lộ Omote-Sando này. Tôi không phải là người nước ngoài duy nhất, còn rất nhiều người khác nữa. Song anh đi thẳng tới chỗ tôi ngồi mà không hề do dự. - Cô là giáo viên dạy tiếng Pháp phải không? - Sao anh biết? Anh nhún vai. Rồi anh ngồi xuống lưng thẳng đơ và chẳng nói năng gì. Tôi hiểu mình là giáo viên nên phải là người quan tâm tới anh. Tôi hỏi anh vài câu và được biết anh hai mươi tuổi, tên là Rinri và đang học tiếng Pháp ở trường đại học. Anh thì biết tôi hai mươi mốt tuổi, tên là Amélie và đang học tiếng Nhật. Anh không hiểu tôi là người nước nào. Tôi quen với điều này rồi. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tay Samurai của tác giả Amelie Nothomb.
Vĩnh Biệt Gunxaru - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
Vĩnh biệt tác giả "Một ngày dài hơn thế kỷ" Nhà văn Kyrgyzia nổi tiếng Chyngyz Torekulovich Aytmatov, tác giả của những tác phẩm làm rung động hàng triệu con tim trên thế giới đã qua đời tại Bệnh viện Nuremberg ở CHLB Đức vào hồi 15 giờ 31 phút ngày 10/6. Hãng DPA của CHLB Đức đưa tin nhà văn Kyrgyzia qua đời vì bệnh phổi.  Chingiz Aitmatov đã lâm bệnh từ mấy tháng trước tại Kazan, nơi ông tham gia quay phim "Một ngày dài hơn thế kỷ". Ông được đưa vào điều trị tại bệnh viện tốt nhất ở Tatarstan (Nga). Ngày 16/5, Aitmatov được đưa sang Đức chữa trị và ông đã vĩnh biệt chúng ta ở tuổi 80. Aitmatov sinh năm 1928 tại làng Sheker, vùng Talass của Kyrgyzia. Tuổi thơ ông rong ruổi trên những cánh đồng và thảo nguyên vùng Trung Á thơ mộng. Lớn lên, Aitmatov đến sinh sống cùng gia đình tại Moskva. Nước Nga với những cánh rừng bạch dương hùng vĩ và những con người nhân hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn Aitmatov, hun đúc nên những tác phẩm bất hủ của ông. Chính vì thế, những tác phẩm của Aitmatov đều thể hiện bằng hai thứ tiếng Kyrgyzia và Nga. Từ năm 1952, những tác phẩm đầu tiên của Chingiz Aitmatov lần lượt ra đời.  Đến nay, những tác phẩm của nhà văn đã được tái bản tới 650 lần trên thế giới và được dịch sang 170 ngôn ngữ khác nhau với số lượng lên đến 60 triệu bản. Tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn "Khi nào núi đổ (nàng dâu vĩnh viễn)" vừa được xuất bản tại Moskva năm 2006. Năm nay ở Kirgizia là "Năm Chingiz Aitmatov".  Mới đây, tại Thổ Nhĩ Kỳ, một ủy ban vận động đề cử Aitmatov làm ứng cử viên giải thưởng Nobel Văn học được thành lập. Sáng kiến đề cử Aitmatov do Hội nghị Bộ trưởng các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Altai, Tatarstan, Tuva... đưa ra. Hội nghị khẳng định Aitmatov là nhà hoạt động văn học xuất sắc của cộng đồng Turkic. "Chingiz Aitmatov được coi như biểu tượng tinh thần và nhân phẩm của tất cả nhân dân Turkic trên toàn thế giới, còn toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của ông có ý nghĩa quốc tế sâu rộng"- Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Abdull Gul tuyên bố.  Chingiz Aitmatov đã từng giữ các chức vụ như Tổng biên tập tạp chí "Văn học nước ngoài", Thư ký Hội Nhà văn Liên Xô. Ông được phong danh hiệu nhà văn nhân dân của Kyrgystan, Anh hùng Lao động XHCN, được nhận giải thưởng Lênin, 3 lần đoạt giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Đại biểu Xôviết tối cao Liên Xô, Ủy viên BCH T.Ư Đảng Cộng sản Kyrgyzia. 16 năm cuối đời, Aitmatov làm đại sứ của Kyrgyzia ở châu Âu. Nước Nga đau đớn nhận tin Aitmatov qua đời. Tổng thống D.Medvedev gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia quyến của nhà văn. Chủ tịch Hội các nhà xuất bản Nga Mikhail Seslavinsky nêu rõ: "Trong những ngày cuối đời, Aitmatov luôn trăn trở rằng phải làm tất cả để giữ mối quan hệ nhân văn bền chặt giữa các nước cộng hòa trong không gian hậu Xôviết. Ông tham gia các cuộc hội thảo và luôn là người bạn thân thiết, gần gũi của đất nước chúng ta. Sự nghiệp sáng tác của ông là một phần không thể thiếu trong không gian văn học của đất nước chúng ta".  Ngoại trưởng Pháp Bernar Kushner vô cùng thương tiếc nhà văn Kyrgyzia, ông cho rằng Aitmatov luôn sống mãi trong lòng những người hâm mộ như một nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Nhà hoạt động văn hóa xã hội Mikhail Veller khẳng định sự ra đi của Aitmatov đã để lại khoảng trống, mất đi một mắt xích quan trọng trong không gian văn hóa hậu Xôviết. Bạn đọc Việt Nam mến yêu Chingiz Aitmatov qua những tác phẩm: "Người thầy đầu tiên", "Núi đồi và thảo nguyên", "Giamilia", "Cây phong non trùm khăn đỏ", "Vĩnh biệt Gunxarư", "Một ngày dài hơn thế kỷ", "Đoạn đầu đài"... Đó là những thiên truyện đã thực sự làm ngây ngất những con tim luôn khát khao với cuộc sống mến yêu, với thiên nhiên thấm đẫm tình người. Chingiz Aitmatov thực sự là cây đại thụ trong nền văn học Xôviết, một nhà văn chói ngời với những tư tưởng nhân văn. "Vĩnh biệt Gunxarư"! Vĩnh biệt Chingiz Aitmatov! Nhà văn của nhân dân Chingiz Aitmatov (Mạnh Hiền) *** Đôi nét về tác giả: Chinghiz Aitmatov sinh ngày 12-12-1928 tại vùng thung lũng Talax, làng Sheker, huyện Kirov, tỉnh Talas (Kyrgyzstan). Sau khi học xong lớp 6, C. Aitmatov làm thư ký cho Xô viết xã ở ngay quê mình. Ông bắt đầu hoạt động văn học khi còn là sinh viên Trường ĐH Nông nghiệp Kirghizia. Năm 1956-1958, ông theo học Trường Viết văn Gorky tại Matxcơva. Năm 1958, hai tập truyện ngắn của Aitmatov (bằng tiếng Nga và tiếng Kirghizia) đã được xuất bản ở Frunze. Ông được giải thưởng văn học Lênin 1963 với chùm truyện đầu tay: Giamilia, Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ và Mắt lạc đà. Sau đó ông tiếp tục viết và đã đoạt Giải thưởng quốc gia Nga năm 1969, Giải thưởng quốc gia Liên Xô năm 1977, Anh hùng Lao động XHCN (1978), Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, Nghệ thuật và Văn học châu Âu, Viện Hàn lâm Khoa học nghệ thuật thế giới... Năm 1990, ông được tổng thống Goorbachev cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bỉ, Hà Lan, Luxemburg. Năm 1994-2008, ông là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Kyrgyzstan tại Bỉ, Hà Lan, Luxemburg, đại diện toàn quyền của Kyrgyzstan tại Liên hiệp châu Âu và UNESCO. Năm 2008, tổng thống nước Cộng hòa Kyrgyzstan quyết định chọn làm Năm Aitmatov. Chiều 10-6-2008, ông qua đời tại Bệnh viện Nuremberg (Đức) vì tuổi già lại mắc bệnh thận và phổi, hưởng thọ 80 tuổi. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Gunxaru của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Phía Đông Mặt Trời - Julia Gregson
Là chuyến hành trình của nàng Rose đến Ấn Độ để chuẩn bị cho kế hoạch kết hôn với một người đàn ông mà cô không hề quen biết. Đi với Rose còn có Victoria, cô phù dâu, đang tìm kiếm một đấng phu quân. Ngoài ra, một phụ nữ khác đi cùng hai cô gái cũng muốn nhân chuyến đi khám phá Ấn Độ để tìm lại tuổi thơ của mình. *** "Ấm áp, quyến rũ, đầy thuyết phục và không thể buông tay một khi quyết định đọc Phía Đông mặt trời." (NHS Magazine) "Một cuốn tiểu thuyết đầy màu sắc với bối cảnh diễn ra tại Ấn Độ trong những năm cuối thập niên 1920 tác động đến tất cả (các tuyến nhân vật), những câu chuyện được kể một cách hoàn hảo, không thể dự đoán." (The Times) *** London, tháng chín năm 1928 Phụ nữ, có trách nhiệm, hai mươi tám tuổi, yêu trẻ em, có kiến thức về Ấn Độ, nhận làm bảo mẫu trong chuyến đi từ Tilbury tới Bombay với thù lao thanh toán bằng một nửa chi phí cho lộ trình. Điều kỳ diệu cuối cùng cũng đã đến với Viva Holloway, sau khi cô phải mất ba đồng sáu xu trả cho mẩu quảng cáo của mình trên ấn bản tháng Chín của tờ Quý cô. Năm ngày sau, Viva có mặt tại một nhà hàng ở Derry & Toms, nội đô thành London, chờ đợi cuộc hẹn với khách hàng đầu tiên của mình, quý bà Jonti Sowerby đến từ Middle Wallop, Hampshire. Thay vì mặc bộ váy bằng lụa may mắn tìm được trong một lần dạo chợ mua bán đồ cũ từ thiện, Viva đến với cuộc hẹn phỏng vấn trong bộ dạng của một người đánh máy thuê, công việc cô đang nhận làm tạm thời dăm bữa nửa tháng, cô ghét cay ghét đắng bộ âu phục được may từ thứ vải len xù xì xám xịt đang khoác trên người. Mái tóc dày đen nhánh thường ngày vẫn rủ từng lọn hoang dại buông hờ xuống bờ vai giờ được Viva buộc túm lên thành búi ẩm ướt thắt chặt trên đầu. Cô bước vào phòng trà được trang hoàng lộng lẫy tràn ngập những tiếng rì rầm cười nói, xen lẫn giữa những tiếng ồn ào là giai điệu rời rạc của người nghệ sĩ đang nhấn nhá từng phím trên chiếc dương cầm đặt trong góc phòng. Một người phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh dẻ, trên đầu đội một chiếc mũ màu xanh khá đặc biệt (nom hệt như một chiếc lồng kín đặc được trang trí bằng những sợi lông chim tua tủa đâm ngược ra sau) nhanh nhẹn đứng dậy vẫy chào Viva. Ngồi sát bên cạnh bà ta là một cô gái khá bụ bẫm, im thin thít từ giây phút đầu tiên, tên cô, Victoria, con gái của Sowerby. Một tách cà phê được mang ra, nhưng khá nhạt, không có bánh ngọt đi kèm. Từ sáng đến giờ Viva vẫn chưa có chút gì bỏ bụng, ánh mắt cô liếc nhanh về phía chiếc bánh ngọt được trang trí bằng những hạt óc chó nom khá ngon miệng nằm im lìm trong tủ kính phía dưới quầy hàng. “Trông cô ta mới kinh khủng làm sao”, bà Sowerby lập tức quay sang than vãn với cô con gái, như thể không hề nhận thấy một Viva bằng xương bằng thịt đang ngồi ngay trước mắt. “Mẹ”, Victoria phản đối, giọng cô gái trẻ khá lạ, và khi bắt gặp ánh mắt cô gái ngước lên nhìn mình, Viva chợt nhận ra Victoria sở hữu một đôi mắt tuyệt đẹp: to tròn, sâu hun hút và xanh thẳm thẳm như những đóa xa cúc lam. Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn những lời bà ấy vừa thốt ra, hai đóa xa cúc lam như muốn nói với Viva như thế. Cuối cùng thì Sowerby cũng chịu đi thẳng vào vấn đề, bằng chất giọng khô khan, hướng về Viva, bà tóm tắt vấn đề của họ, rằng Victoria chuẩn bị sang Ấn Độ để làm phù dâu cho cô bạn gái thân nhất của mình, Rose, con bé, theo như những gì bà Sowerby kể lại bằng chất giọng lè nhè đầy ắp sự khoe khoang, “đang chuẩn bị đính hôn với đại úy Jack Chandler thuộc trung đoàn kỵ binh số 3 tại nhà thờ thánh Thomas ở thành phố Bombay”. Người bảo mẫu họ thuê trước đây, bà Moylett, đã quyết định từ chối không đi cùng vào phút chót - nguyên nhân từ chối, theo như những gì Sowerby kể lại, là bởi bà Moylett đột nhiên được một quý ông già cả thuê mướn làm bảo mẫu cho gia đình ông ta. Viva đặt tách cà phê xuống bàn, trong mắt người đàn bà đứng tuổi trước mặt, cô như một thứ gì đấy được gọi tên bằng hai tiếng tuyệt vọng, gánh trên vai niềm khao khát không thể che đậy về mong muốn những khó khăn của mình sẽ nhanh chóng được bà ta giải quyết. “Tôi khá hiểu Bombay”, cuối cùng Viva cũng lên tiếng, chỉ dựa vào một sự thật duy nhất: tròn mười tám tháng, cô từng nằm ngửa trên cánh tay mẹ mình để cùng bà bước dọc thành phố Bombay; vài năm sau, khi Viva tròn năm tuổi, một lần nữa cô có mặt trên bãi biển, ngon lành mút que kem mát lạnh ngọt lịm dưới nắng trời Bombay, và lần cuối cùng, ấy là khi cô lên mười, bàn chân Viva lại chạm vào Bombay, kể từ đấy, chưa một lần cô quay lại thành phố này. “Chắc chắn Victoria sẽ được trông nom cẩn thận”. Cô gái hướng ánh mắt đầy ắp hy vọng vào Viva. “Chị có thể gọi tôi là Tor nếu thích”, Victoria nhẹ nhàng. “Các bạn đều gọi tôi bằng tên ấy”. Khi người bồi bàn đến bên cạnh, bà Sowerby bắt đầu cao giọng phàn nàn về đồ uống, rồi yêu cầu một chút nước thuốc hãm thay cho thứ “trà Anh tầm thường”. “Một nửa máu trong người tôi thuộc về nước Pháp”, bà giải thích, không quên bĩu môi như để chứng minh cho điều mình vừa nói. “Cô biết gì về những chiếc rương đựng hành lý khổ lớn?”. Bà Sowerby vừa nói vừa kiểm tra một chiếc răng của mình bằng chiếc gương nhỏ xíu gắn trên mặt trong của hộp phấn bỏ túi. “Đấy là một trong những điều bà Moylett đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ chúng tôi”. Đến lúc này thì phép màu thực sự xảy ra với Viva: một tuần trước, khi cô sục sạo nghiền ngẫm đến nát tờ Người tiên phong với hy vọng tìm được một công việc thích hợp, tình cờ cô đã đọc được mẩu quảng cáo của một người thợ may tên Ram về vấn đề bà Sowerby đang quan tâm. Viva bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt bà Sowerby. “Sản phẩm của hãng Viceroy là tốt nhất”, cô nói. “Mặt trong chúng được viền thép trước khi bọc vải bạt bên ngoài. Bà có thể tìm mua tại cửa hàng Quân trang và quân dụng. Tôi không nhớ chính xác giá thành của loại rương này nhưng tôi đoán khoảng hai mươi lăm si-ling một chiếc”. Không gian bên trong nhà hàng đột nhiên xao động. Tiếng leng keng lách tách của dao nĩa thìa ly chạm vào nhau đột nhiên im bặt. Một quý bà xinh đẹp, khá quyến rũ trong bộ váy áo nhạt màu chậm rãi bước vào, miệng khẽ nhoẻn cười khi tiến về phía bàn bà Sowerby. “Xin giới thiệu, đây là bà Wetherby”. Tor tươi cười đứng dậy ôm hôn chào đón người phụ nữ xinh đẹp vừa bước vào. “Cô ngồi xuống đây”, Tor nom hoạt bát hẳn lên, vỗ nhẹ vào chiếc ghế bên cạnh chỗ cô ngồi. “Cháu và mẹ đang nói với nhau về công việc, kinh khủng, những chủ đề tẻ nhạt”. “Phải đấy, Victoria”. Bà Sowerby xen vào, “bé giọng thôi, không cả cái nhà hàng này nghe hết chuyện của chúng ta đấy”. Rồi bà quay sang Viva. “Bà Wetherby đây là mẹ của Rose, con bé sắp đính hôn với ngài đại úy Chandler ở Ấn Độ ấy. Con bé xinh đến nao lòng”. “Tôi không thể chờ đến lúc được gặp bạn ấy”. Tor đột nhiên hào hứng, khuôn mặt cô bừng lên rạng rỡ. “Rose rất vui tính, một người bạn hoàn hảo, bất kể ai tiếp xúc với Rose đều yêu quý bạn ấy - bọn tôi chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, đến trường cùng nhau, cưỡi chung những chú ngựa Pony xinh xắn...”. Viva bỗng thấy cơn đau nhói lên trong lồng ngực, những cảm xúc thân quen chợt ùa về - những kỷ niệm không bao giờ quên về những người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. “Victoria”, bà Sowerby mắng khẽ cô con gái. Những chiếc lông chim xanh thẫm cắm trên mũ rủ xuống im lìm ngang chân mày khiến bà trông giống như một chú chim bé bỏng đang bị kẻ khác làm mếch lòng. “Mẹ không chắc chúng ta phải kể cho cô Holloway đây nghe mọi chuyện. Chúng ta vẫn chưa quyết định, đúng không nào? Hơn nữa, Rose yêu quý của chúng ta đang ở đâu?”. “Tại tư gia của bác sĩ”. Giọng bà Wetherby trở nên lúng túng. “Cháu biết đấy...”. Nhấp một ngụm cà phê, Wetherby trao đổi với bà Sowerby một ánh nhìn thoáng qua, như ra dấu. “Hai mẹ con cô đã có cả một buổi sáng tuyệt vời nhất bên nhau từ trước đến nay trước khi cô để con bé rời khỏi xe”, giọng bà Wetherby nhẹ như thở. Bọn cô cùng đi mua quần áo, vợt tennis, một giờ sau cô gặp lại Rose tại Beauchamp, con bé chuẩn bị sắp xếp đồ đạc đưa về nhà chồng. Cuộc đời tẻ nhạt của con bé cuối cùng cũng hoàn toàn chấm dứt sau đêm nay. Cô không nghĩ mình có thể mua được nhiều áo quần đến thế chỉ trong một ngày. Giờ thì, cô gái xinh xắn này là ai vậy?”. Lập tức Viva được giới thiệu với bà Wetherby như một “bảo mẫu chuyên nghiệp”. Wetherby mỉm cười, điệu đà đặt một tay lên vai Viva, vui vẻ chào hỏi cô bằng tất cả niềm hứng khởi có trong người bà. “Tôi vừa mới phỏng vấn cô ta xong”, bà Sowerby nhanh nhảu nói với Wetherby. “Cô ta hiểu rõ Ấn Độ như lòng bàn tay, không chỉ có thế, cô ta còn biết khá rõ mọi vấn đề liên quan đến rương hòm hàng hóa - cô ta bảo sản phẩm của Viceroy là tốt nhất”. “Các cô gái bao giờ cũng nhạy cảm”, giọng bà Wetherby đột nhiên đượm mùi âu lo. “Chúng chỉ cảm thấy an tâm khi có ai đấy theo cùng và để mắt đến mọi chuyện”. “Nhưng tôi e là chúng tôi chỉ có thể trả cô năm mươi pao cho việc trông nom cả hai con bé”, giọng bà Sowerby chắc nịch, “không thêm không bớt một xu nào nữa”. Viva nhanh chóng lẩm nhẩm vài phép tính trong đầu, giá vé một chiều từ London đi Bombay là tám pao. Cô đã để dành được một trăm hai mươi pao, chắc chắn cô sẽ cần nhiều tiền hơn khi đặt chân đến Bombay. “Nghe có vẻ hợp lý”, Viva thản nhiên trả lời, cố giữ giọng thật nhẹ nhàng như thể những lời mình vừa thốt ra chỉ là những thứ quen thuộc vẫn xảy ra mỗi ngày. Tor thở phào, rối rít. “Ơn Chúa!”. Cô gái không giấu giếm niềm hân hoan. “Tuyệt thật đấy!”. Viva bắt tay chào tạm biệt ba người đàn bà trước mặt, nhanh nhẹn rời khỏi nhà hàng bằng những bước dài hoan hỷ; những điều sắp tới mới thật sự là một miếng bánh ngọt ngào: một con bé nhút nhát với cặp mắt xanh biếc, cùng một bà mẹ nom rõ ngớ ngẩn rõ ràng đang trong cơn tuyệt vọng; bạn gái của con bé, Rose, chuẩn bị kết hôn và không còn lựa chọn nào khác. Cuộc hẹn tiếp theo diễn ra tại khách sạn Hải quân, tại đây Viva sẽ gặp gỡ bà Bannister cho những nhiệm vụ sắp tới: bảo mẫu cho một nam sinh đến gặp bố mẹ cậu bé đang sinh sống ở Assam. Cô quờ tay vào túi xách tìm mẩu giấy ghi cuộc hẹn. Tên cậu bé, Guy Glover. Ít phút sau Viva đã đối mặt với bà Bannister, một quý bà mặt mũi lúc nào cũng cau có, hai hàm răng sin sít, có vẻ là một người khá nóng nảy. Chắc phải ngoài bốn mươi, Viva thầm đoán, mặc dù chưa bao giờ cô được xem là người chính xác trong trò đoán tuổi người đối diện. Bà Bannister gọi hai tách trà ấm, không bánh ngọt, không cả bánh qui đi kèm. Bannister nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề, bởi theo như lời bà ta nói, thì đúng ba giờ rưỡi bà phải bắt chuyến tàu trở về Shrewsbury. Anh trai của bà ta, chủ đồn điền chè xanh ở Assam, và vợ của ông ấy, Gwen, đang rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Con trai của họ, Guy, đứa con duy nhất, đột ngột nhận được yêu cầu rời khỏi trường học. Thằng bé chỉ mới mười sáu tuổi. “Thằng bé khá khó tính, nhưng như tôi đã nói, ẩn sau vẻ khó tính ấy là một đứa trẻ cực kỳ tốt bụng”, bà cô của khách hàng trấn an Viva. “Nó đã theo học tại trường thánh Christopher suốt mười năm nay và chưa một lần quay trở lại Ấn Độ. Vì một số lý do khác nhau, tôi không có thời gian để giải thích với cô tại sao chúng tôi lại không thể tiếp tục chăm sóc thằng bé ở đây mặc dù chúng tôi rất muốn điều đấy. Nhưng sau tất cả, bố mẹ Guy đã quyết định sẽ tốt hơn cho nó khi ở Ấn Độ. Nếu cô chăm nom nó cẩn thận, họ sẽ thanh toán toàn bộ chi phí cho chuyến đi của cô”. Viva có cảm giác khuôn mặt cô lúc này đang đờ đẫn vì vui sướng trước những lời bà Bannister vừa thốt ra. Nếu toàn bộ chi phí chuyến đi lần này được bố mẹ cậu bé thanh toán, cô sẽ giữ được nguyên vẹn năm mươi pao của bà Sowerby, cô có thể dùng nó để trang trải cho một kỳ nghỉ xả hơi ở Ấn Độ, ơn Chúa vì điều đó. Phấn khích với viễn cảnh trước mắt, thậm chí trong đầu của Viva lúc này không mảy may một chút nghi ngờ tại sao một thiếu niên ở tuổi mười sáu lại không thể tự mình thực hiện được một cuộc hành trình không lấy gì làm khó khăn, hay chí ít, cô không hề thắc mắc tại sao bố mẹ của cậu bé, ông bà Glover, lại không thể quay về nước Anh để đón đứa con trai duy nhất của hai người. “Tôi gửi cô bản đồ trường học của Guy và một khoản tiền tạm ứng trước”, Bannister nhanh nhảu. “Cảm ơn cô đã nhận lời”. Bà nhanh chóng kết thúc mọi thủ tục và đứng dậy. Nhìn điệu bộ vội vàng đến hấp tấp của Bannister khi rời khỏi nhà hàng bước đến bên cạnh xe taxi, chiếc áo choàng mưa của bà ta khẽ phập phồng phần phật sau lưng theo chiều gió, Viva chợt bùng lên nỗi áy náy, cô tự hỏi tại sao người ta lại có thể dễ dàng bị lừa dối đến thế, đặc biệt là khi họ đang muốn nghe về điều mình đang nóng lòng chờ đợi. Viva không phải hai mươi tám tuổi như lời cô nói với các khách hàng, cô chỉ mới hai lăm, và Ấn Độ trong cô chỉ là một chấm nhỏ ký ức mơ hồ xa xôi từ những ngày còn thơ ấu, bao nhiêu năm đã trôi qua, ngần ấy lần vật đổi sao dời. Những gì Viva biết về Ấn Độ lúc này có lẽ giống như những gì cô biết về một nơi xa xôi nào đấy nằm trong lòng mặt trăng vẫn treo trên đầu London bao nhiêu năm qua. ... Mời các bạn đón đọc Phía Đông Mặt Trời của tác giả Julia Gregson.
Đo Thế Giới - Daniel Kehlmann
Cây bút trẻ Daniel Kahlmann đã tạo nên một tiểu thuyết thông minh, hài hước, giàu chất trí tuệ Đức nhất từ cuộc đời hai bậc thiên tài trong thời đại ánh sáng: Carl Friedrich Gauss và Alexander von Humboldt. Một người không thích cuộc sống mà thiếu đàn bà nhưng trong đêm tân hôn vẫn nhảy ra khỏi giường để ghi lại một công thức toán. Một người nhập thân vào khoa học và du hành như một kẻ tuẫn đạo: vượt qua đồng cỏ và rừng rậm, băng qua Orinoco, nếm thuốc độc, trèo lên trên đỉnh núi cao nhất mà con người từng biết, thám hiểm mọi hang hốc. Một người được coi như bộ não làm toán vĩ đại nhất sau Newton, chẳng coi nhân quần là gì, thậm chí chẳng cần rời khỏi nhà mình ở Gottingen để chứng minh rằng không gian cong. Một người vĩnh viễn tin vào tiến bộ xã hội, và rồi sẽ được lịch sử biết tới như một Columbus Đệ nhị. Câu chuyện là sự giao thoa thú vị giữa hai nhà bác học nổi tiếng Đức vào thế kỷ XIX, trong cái ý nghĩa tối thượng của các cuộc đời con người đi khám phá những quy luật bí ẩn của Tạo hóa, nhưng chẳng thiếu hài hước và châm biếm bởi những giăng mắc của trí tuệ siêu việt vào đời thường và xã hội. Với Đo thế giới, Daniel Kehlmann đã tỏ ra thoải mái một cách đáng ngưỡng mộ trong trò chơi tinh tế giữa hiện thực và hư cấu, đồng hành cùng những cái tên có trong mọi cuối lịch sử khoa học, chứng tỏ rằng văn chương vĩnh viễn có quyền năng không thể coi nhẹ trong việc tiệm cận những chân lý phổ quát của tự nhiên và con người.  ***  Nhận định   “Tác phầm của Kehlmann tỏa ra sự quyến rũ đây khơi gợi của những bậc thầy như Nobokov hay Proust.” – Stern   “Tiểu thuyết Đức hài hước nhất năm nay - tuyệt diệu!” – Suddeutsche Zeitung   “Kehlmann là một nhà văn kỳ lạ.” – Vrij Nederland   “Daniel Kehlmann là một trong những nhà kể chuyện tuyệt vời, tự tin trong giọng điệu, với sự kiểm soát bậc thầy các tình tiết… Đáng say mê!” – Der Spigel “Một thành công không nhỏ với một người đàn ông ở tuổi 31.” – The New York Times   “Lâu lắm rồi tôi mới được cười dữ dội như thế khi đọc một tiểu thuyết Đức… Nhà tiểu thuyết trẻ này đã bày ra một trò chơi văn xuôi với sự tinh tế lớn lao và óc hài hước sáng láng. Cốt truyện thì vững chắc và lời thoại thì tuyệt vời vui nhộn.” – Frankfurter Rundschau   “Vui tươi, hài hước, lại sâu sắc và thông minh một cách tao nhã.” – Frankfurter Allgemeine Zeitung “Tôi khuyên mọi người hãy đọc Daniel Kehlmann bằng được. Trí thông minh, tài quan sát và lời thoại như từ cõi tiên.” – Marcel Reich-Ranicki (“Giáo hoàng” của văn giới Đức)   “Một tiếu thuyết nổi trội!” – De Telegraaf   “Thông thái quá thể.” – Kirkus Review (starred)   “Chính là Tên của đóa hồng trong năm nay” – The Philadenphia Inquirer   “Một cây bút hài hước tinh tế, một bậc thầy về kỹ xảo kể chuyện cao cấp. Một thú vui chữ nghĩa hiếm gặp.” – Neue Zuicher Zeitung   “Đo thế giới không khác gì một sự kiện văn học.” – The Guardian *** DANIEL KEHLMANN sinh ngày 13.1.1975 ở Munich (Đức), Là con trai của một đạo diễn và một nữ diễn viên, đã theo học đại học ở Vienna (Áo) năm 1981, học Triết học và Văn học tại Vienna. Sau khi tốt nghiệp, Kehlmann viết luận án tiến sĩ về Khái niệm Cao Thượng của Immanuel Kant, nhưng “tôi bỏ cuộc sớm, vì việc viết văn quá trôi chảy”. Sau tác phẩm đầu tay Màn diễn của Beerholm (Beerholms Vorstellung), năm 1997, Kehlmann viết phê bình và tiểu luận văn học cho nhiều tờ báo lớn, từ 2001 dạy Nghệ thuật thi ca ở Đại học Mainz và Đại học Wiesbaden và Đại học Cottingen. Ông đi du lịch rất nhiều, và giành rất nhiều giải thưởng cho các tiểu thuyết và truyện ngắn, gần đây nhất là Cadide Award 2005... Daniel Kehlmann cũng là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Đức. Kehlmann hiện đang sống tại Vienna "Kehlmann là một nhà văn kỳ lạ." "Daniel Kehlmann là một người kể chuyện tuyệt vời, tự tin trong giọng điệu, với sự kiểm soát bậc thầy các tình tiết... Đáng say mê" "Một thành tựu không nhỏ với một người đàn ông ở tuổi 31." ***  TÁC PHẨM: - Màn diễn của Beerholm (Beerholms Vorstellung) tiểu thuyết, 1997 - Trong nắng (Unter der Sonne), tập truyện ngắn, 1998 - Thời đại Mohler (Mahlers Zeit), tiểu thuyết, 1999 - Chốn xa nhất (Der Ternste Ort), truyện dài, 2001 - Tôi và Kaminski (lch und Kaminski), tiểu thuyết,2003 - Đo thế giới (Die Vermessung der Welt), tiểu thuyết, 2005 - Carlos Montúfar đâu ? (Wo ist Carlos Montútar ?), tiểu luận, 2005 - Những chuyện đùa rất nghiêm túc (Diese sehr ernsten Scherze), tập bài giảng về thi ca ở Gottingen, 2007 *** GIẢI THƯỞNG: - 1998 Giải khuyến khích của Hội Văn học thuộc Hiệp hội Công nghiệp Liên bang - 2000 Học bổng của Hội Văn học Berlin - 2003 Giải khuyến khích của Văn phòng Thủ tướng Áo - 2005 Giải Candide của Hội Văn học Minden - 2005 Đề cử chung kết giải Booker Đức cho tiểu thuyết Đo thế giới (Die Vermessung der Welt) - 2006 Giải văn chương của Quỹ Konrad Adenauer; Giải Heimito von Doderer, Giải Heinrich von Kleist. *** 1 tháng Chín năm 1828. Sau nhiều năm, lần đầu tiên nhà toán học vĩ đại nhất nước mới lại rời thành phố quê hương để đi dự Hội nghị các nhà nghiên cứu tự nhiên của Đức ở Berlin. Dĩ nhiên ông không muốn tới đó. Hàng tháng ròng ông nhất quyết cự tuyệt, nhưng Alexander von Humboldt vẫn đeo đẳng cho đến khi ông ưng thuận trong một phút mềm lòng và hy vọng rằng ngày đó sẽ chẳng bao giờ tới. Và bây giờ thì giáo sư Gauss trốn trong chăn. Khi Minna gọi ông dậy vì xe ngựa đã sẵn sàng và quãng đường xa xôi lắm, thì ông quặp chặt lấy gối và cố tống bà vợ biến đi cho khuất mắt bằng cách nhắm tịt mắt lại. Khi mở mắt ra thấy Minna vẫn đứng đó, ông gọi vợ là đồ nhiễu sự, dốt nát và là nỗi bất hạnh trong những năm cuối của đời mình. Thấy nói vậy vẫn vô ích, ông gạt chăn ra rồi đặt chân xuống đất. Mặt mũi cau có, rửa ráy sơ sài, ông đi xuống gác. Eugen, con trai ông, đang đợi ở phòng khách với hành lý đã gói ghém xong. Nhìn thấy cậu, Gauss lên cơn thịnh nộ: ông đập tan cái bình đặt trên bậu cửa sổ, giậm chân bành bạch và vung tay chân loạn xạ, không im miệng trở lại cả khi Eugen và Minna, mỗi người một bên, đặt tay lên vai ông và thề thốt là người ta sẽ chăm sóc ông tử tế và ông sẽ sớm về nhà, mọi việc sẽ chỉ thoáng qua như một cơn ác mộng. Ông chỉ bình tĩnh lại khi bà mẹ già nua bị tiếng ồn ào quấy rầy từ trong phòng mình tiến ra, bẹo má ông và hỏi có chuyện gì với thằng cu can đảm của bà. Không một chút thân thiện, ông chia tay mẹ và Minna, hờ hững xoa đầu con bé gái và thằng út. Rồi ông sai người ta đỡ mình lên xe ngựa. Chuyến đi là một cực hình. Ông mắng Eugen là đồ vô dụng, giật lấy cái ba toong của cậu và đâm thật lực vào bàn chân cậu. Ông nhíu mày nhìn ra cửa sổ một hồi lâu rồi hỏi, bao giờ thì con gái ông mới lấy chồng, tại sao không đứa nào chịu lấy nó, nguyên cớ gì ? Eugen vuốt lại mái tóc dài, mân mê chiếc mũ đỏ bằng cả hai tay và không muốn trả lời. ... Mời các bạn đón đọc Đo Thế Giới của tác giả Daniel Kehlmann.