Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cô Gái Mất Tích

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết giật gân Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch). “Những cô gái mất tích” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nữ nhà văn Megan Miranda. Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ, điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ. Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Vào đêm Corinne mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise Carter- hàng xóm của Nic cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm. Chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà, Annaleise đột ngột mất tích. Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, “Những cô gái mất tích” sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?” Một số nhận định về cuốn sách “Những cô gái mất tích”:  “Cuốn tiểu thuyết kinh dị này tập hợp đủ mọi yếu tố mà các mọt sách tìm kiếm!” – TheSkimm  “Bạn có đang chú ý không đấy? Bạn sẽ tập trung ngay thôi bởi cuốn sách này sẽ làm bạn xoắn não với cấu trúc thời gian đảo ngược, và bạn sẽ không thể ngừng đọc cho tới trang cuối cùng.” – Elle  “Với nhịp độ nhanh và đầy nguy hiểm, Những cô gái mất tích sẽ khiến bạn hiểu vì sao đi vào rừng một mình vào buổi tối là chuyện quá liều lĩnh.” – Refinery29. *** [Review Sách] “Những Cô Gái Mất Tích”: Đóa Hồng Gai… Sắc Lạnh “Sự thật giống như hoa hồng, đều có gai, nhưng bạn sẽ không thoát khỏi ám ảnh khi chưa tìm ra nó.” - đây đích xác sẽ là cái cảm giác mà bạn chắc chắn sẽ phải trải qua xuyên suốt 500 trang sách của cuốn Những cô gái mất tích (nguyên gốc tiếng Anh: All the missing girls) của tác giả Megan Miranda. Và nếu bạn đang tìm kiếm một màu sắc mới mẻ ở thể loại trinh thám vốn dĩ đã tồn tại nhiều điều bất ngờ này thì chắc chắn Những cô gái mất tích sẽ là một sự lựa chọn không tồi dành cho bạn. Được viết bởi nữ nhà văn Megan Miranda, Những cô gái mất tích không đơn thuần chỉ là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng. Cuốn sách là sự pha trộn của các yếu tố tâm lý đan xen với những phút dồn dập vốn có của thể loại hành động, những khoảng lặng sắc lạnh của thể loại kinh dị hay cũng không thiếu những phút giây sâu lắng của tình cảm trên nền u ám và bí hiểm của thể loại trinh thám. Toàn bộ cuốn sách có thể được xem như một thước phim tua ngược đưa độc giả quay trở về quá khứ, nơi giao thoa của những bí mật, dối trá và sự thật đầy ám ảnh dẫn tới kết cục chết chóc. Đôi nét về tác giả Megan Miranda được xếp vào hàng “tác giả bán chạy nhất của The New York Times”. Cô lớn lên ở New Jersey, học ở Học viện Công nghệ Massachusetts, tốt nghiệp MIT và hiện sống ở Bắc Carolina cùng với chồng và hai con. Megan là nhà khoa học và giáo viên trung học cơ sở trước khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Fracture (tạm dịch Rạn nứt). Cuốn tiểu thuyết được viết dựa trên sự say mê những bí ẩn khoa học của cô, đặc biệt là những thứ liên quan đến não bộ. Cô dành nhiều thời gian cho việc trả lời cho câu hỏi “tại sao?” và “làm như thế nào?” với mọi thứ và điều đó giúp Megan được bay bổng trong những giả thuyết “nếu - thì” của mình. Những tác phẩm làm nên tên tuổi của nữ tiểu thuyết gia gồm một số cuốn sách dành cho lứa tuổi mới trưởng thành: Fracture (tạm dịch Rạn nứt), Vengeance (tạm dịch Báo thù) và Hysteria (tạm dịch Ảo Ảnh), Soulprint (tạm dịch Dấu ấn tâm hồn) và The Safest Lies (tạm dịch Lời nói dối an toàn). Những cô gái mất tích (All the missing girls) là cuốn tiểu thuyết dành cho người lớn đầu tiên của Megan. Ngay sau khi phát hành, tác phẩm nhanh chóng nhận được cơn mưa lời khen và đánh giá cao từ giới chuyên môn.  Đóa hồng gai huyền bí - một câu chuyện với những bí ẩn đầy sức hút Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Và cho tới khi bạn tìm ra sự thật, Những cô gái mất tích vẫn sẽ khiến bạn chìm đắm trong nỗi ám ảnh khi chưa tìm ra chúng, như một đóa hồng gai sắc lạnh nhưng vẫn khiến ta tò mò mà chạm vào gai nhọn, và thậm chí, không ngần ngại mà bẻ gãy nó. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ mà điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ.  Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell – tên thường gọi là Nic, rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô – Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Tất cả chỉ được đẩy lên đỉnh điểm khi Annaleise Carter – hàng xóm của Nic cũng đột nhiên mất tích chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà. Vào đêm Annaleise mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm.  Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, Những cô gái mất tích sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?”   … khiến con người ta lạc lối trong mê cung của thời gian “Con người… không thể học cách quên đi mà luôn muốn níu kéo quá khứ: dù anh ta có chạy xa và nhanh như thế nào, xiềng xích đó vẫn đuổi theo anh ta.” _ Friedrich Nietzsche. Đây là câu nói được tác giả Megan Miranda lựa chọn làm lời đề từ mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình. Nhân vật nữ chính của chúng ta cũng bị quá khứ quấn chân. Sau khi người bạn thân nhất của Nicolette Farrell – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào, cô rời khỏi vùng nông thôn quê hương đến một nơi thật xa. Điều thực sự thu hút cô quay về là lời nhắn từ bố với nội dung: “Bố cần nói chuyện với con. Cô gái đó. Bố đã nhìn thấy cô gái đó.” Cô gái đó ám chỉ người bạn thân nhất đã mất tích mà không để lại chút manh mối nào của Nic - điều khiến cô rời khỏi quê hương đến một nơi thật xa. Tôi mở bức thư ra - một trang báo bị xé nham nhở, nét chữ của ông kéo dài qua cả đường kẻ, hơi nghiêng về phía bên trái, cứ như thể ông đang cố rượt đuổi để ghi lại các suy nghĩ của mình trước khi chúng vuột khỏi tầm nắm. … Tờ giấy bị xé, nét chữ nghiêng ngả, tên tôi trên phong bì. Và giờ một thứ gì đó sắc nhọn và hoang dã đã bị thả ra trong đầu tôi. Tên của cô gái đó, xuất hiện xung quanh như một tiếng vọng. Sắc lạnh nhưng không thiếu đi vị ngọt của tình yêu, Megan Miranda đã kể Những cô gái mất tích theo chiều ngược về quá khứ, cuốn độc giả lần theo từng manh mối của vụ án. Vẫn là những con đường quanh co, tăm tối dẫn tới kết cục chết chóc, song nó đã được biến hóa thành một mê cung phức tạp, khó lường và điểm tận cùng của sự thật sẽ làm bạn thực sự sửng sốt.  Lật giở từng trang sách, bạn đọc sẽ như đang lạc vào mê cung nơi những manh mối và đích đến vẫn còn là bí ẩn, nơi mà cả không gian và thời gian chỉ dường như là một thứ gì đó đầy mơ hồ và mờ ảo. Như vẻ ngoài vốn dĩ chỉ như một lớp vỏ bọc, càng đi sâu, cách dẫn dắt của Megan càng khiến cho bầu không khí trở nên căng thẳng và hồi hộp.  Thời gian không cạn kiệt. Nó thậm chí còn không có thật nữa kia. … Nó chỉ là một biện pháp đo lường khoảng cách mà chúng ta tạo nên để hiểu rõ về mọi vật. Giống như một inch. Hoặc một dặm. … Chiếc đồng hồ kia. Nó không đo thời gian. Nó tạo ra thời gian. Khi những cô gái… mất tích Corinne, mãi mãi tuổi 18 trong ký ức của thị trấn Cooley Ridge, một cô gái tính cách có phần “điên dại” mà có lẽ bị ảnh hưởng một phần bởi sự bạo lực trong gia đình mà cô sinh trưởng. Việc mất tích của cô sớm bị chìm vào quên lãng và “đóng băng” suốt 10 năm mà không một ai mảy may quan tâm và suy nghĩ, tất cả những gì còn sót lại là những lời đồn, một câu chuyện mà người ta cho rằng sự việc là thế, tất cả manh mối chỉ gói gọn trong chiếc hộp, mà có lẽ, đã phủ bụi nhiều năm ở một góc nào đó trong sở cảnh sát.  Và vào tối muộn sau đó, khoảng thời gian không rõ giữa lúc hội chợ đóng cửa và 6 giờ sáng, Corinne đã BIẾN MẤT. Những tuần tiếp sau đó, khả năng cái chết đã xảy ra trở nên rõ ràng. Nó hiển hiện mọi nơi xung quanh chúng ta, không mang hình hài nhưng lại khiến chúng tôi nghẹt thở, hiện hữu ở mọi biến thể tình huống khác nhau của sự kiện đã xảy ra. Kết quả của cô ấy luôn là cái chết, bằng một ngàn cách khác nhau. Có lẽ cô ấy đã rời đi bởi người cha bạo hành cô. Cũng có thể đó là lý do vì sao mẹ cô đã ly dị ông ta và rời khỏi thị trấn một năm sau đó. Hoặc có lẽ người bạn trai của cô, Jackson, bởi vì thường là do người bạn trai, và họ đã cãi nhau. Hay người đàn ông mà cô đã tán tỉnh ở hội chợ, người mà không ai trong chúng tôi không quen biết - người đứng ở quầy bán bánh mì kẹp xúc xích. Người mà Bailey đã thề cứ theo dõi chúng tôi. Hoặc cũng có thể cô ấy đã chìa ngón tay cái ra để xin đi nhờ về nhà, trong chiếc váy quá ngắn và chiếc áo dài tay, mỏng manh của cô, và có lẽ một người lạ mặt đi ngang qua thị trấn đã thấy cô, lạm dụng và bỏ lại cô. Có thể cô ấy chỉ đơn giản là rời đi. Đó là điều mà cảnh sát đã quyết định cuối cùng. Cô mười tám tuổi - là một người lớn, theo luật - và cô đã chịu đựng quá đủ với nơi này... Corinne không hoàn toàn hiện hữu trong cuốn sách, bởi lẽ cô là người bị mất tích cơ mà, nhưng hình ảnh của cô gái này dần dần hiện rõ qua từng lời kể, từng hồi ức và từng bí mật dần được lộ diện. Đọc Những cô gái mất tích, có lẽ bạn sẽ phải bối rối khi không biết nên nhìn Corinne là một con người như thế nào, bởi cô gái này đáng thương có, nhưng đáng trách cũng có. Tính cách của cô có thể xem như một bảng màu loang lổ với đầy sự hỗn loạn của các nét tính cách khác nhau.  Thế nhưng khi tiếp tục có một cô gái khác mất tích thì chuyện này không còn đơn giản như vậy nữa. Và tương tự, có một điều trùng hợp đến ngẫu nhiên rằng ngay khi Nic quay trở lại quê hương sau cả một thập kỷ, lại có thêm một cô gái nữa mất tích, bỗng dưng “hóa thinh không” như một màn deja vu lặp lại sau 10 năm dài đằng đẵng. Annaleise, người con gái thứ 2 bị mất tích, nhà của cô là hàng xóm gần nhất xét về mặt khoảng cách địa lý đối với ngôi nhà của Nic, một cô gái mà mà mới ngày hôm trước vẫn còn loáng thoáng xuất hiện trong tiềm thức của Nic bên khung cửa sổ thì ngày hôm sau đã biến mất một cách kỳ bí. Như khu rừng vốn dĩ âm u và huyền ảo, ở cô gái này hội tụ những điều luôn luôn bí ẩn. Trong mắt người khác, cô là một kẻ lập dị bị bạn bè khinh ghét, hành động kỳ cục và lủi thủi chìm đắm trong thế giới riêng của bản thân, thế giới của nghệ thuật với nhiếp ảnh và hội họa. Phòng của cô có vô vàn những bức tranh về các cô gái, trong đó có Corinne, mà ở họ đều mang vẻ gì đó buồn bã. Cho đến cuối cùng thì điều thực sự ẩn giấu sau những bức tranh ấy, có thể, vẫn còn là ẩn số.  Những đôi mắt mở to, những đôi mắt nhắm chặt, bằng một cách nào đó, tất cả đều cô độc.   … và những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật Ở phần đầu câu chuyện, độc giả có thể trở nên mơ hồ khi các mảnh ghép lần lượt chồng chéo lên nhau và những manh mối thậm chí còn chẳng đủ để kết luận điều gì. Nhưng có lẽ điều khiến các bạn bất ngờ hơn cả đó là quá khứ thậm chí còn không bí ẩn bằng những gì hiện hữu và vốn có, và những người bí ẩn hơn cả lại chính là người đóng vai “thám tử” trong câu chuyện này, những con người không biến mất mà vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều, mỗi người đều có những bí mật bị che giấu. Bởi lẽ, như sợi dây nối mạch truyện lại với nhau, giữa những con người này cũng có những điều bí mật mà một khi đã được phơi bày, tất cả sẽ lần lượt kéo nhau phơi bày ra ánh sáng.  Càng lật giở những trang sách về sau, bầu không khí càng trở nên dồn dập và bí bách. Cái hay ở đây là khi Megan Miranda có thể khiến cho độc giả vừa trải qua cảm giác hồi hộp và sợ hãi, nhưng cũng có thể khiến người ta phát sinh cái cảm giác khó chịu do mất kiên nhẫn khi sự thật mãi vẫn chưa được tiết lộ, để rồi cuối cùng, nếu muốn giải quyết được hết tất cả mớ tơ vò ấy, chúng ta bắt buộc phải đọc cho đến những trang sách cuối cùng.  Những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật, bí mật dường như nằm gói gọn tất thảy trong chiếc hộp nơi sở cảnh sát. Nhưng không, tất cả mới chỉ là vẻ bề ngoài. Thứ thực sự bí ẩn là thị trấn Cooley Ridge, nơi những con người và khu rừng bản địa cũng mang trong mình những bí mật tiềm tàng. Một câu chuyện với nhiều góc nhìn khác nhau và ai cũng có mặt tối của riêng mình. Nhưng thực sự thì cô ấy không biến mất ở đó. Còn nhiều điều khác nữa. Một mẩu thông tin mà chúng tôi đã giấu đi. Đối với Daniel, cô ấy đã biến mất bên ngoài hội chợ, đằng sau quầy bán vé. Đối với Jackson, là từ bãi đỗ xe. Còn đối với tôi, cô ấy dần tan biến sau khúc quanh của con đường trở về Cooley Ridge. Chúng tôi là một thị trấn đầy sợ hãi, tìm kiếm câu trả lời. Nhưng chúng tôi cũng là một thị trấn đầy sự giả dối.    Liệu bạn có dám “theo chiều ngược” để tìm ra ánh sáng? Hẳn là không phải ngẫu nhiên khi Những cô gái mất tích lại nhận được những đánh giá tích cực và khen ngợi từ công chúng, và lối kể chuyện “ngược” của Megan Miranda chính là minh chứng cho điều đó. Với các cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám, thông thường sẽ có một “ai đó” đóng vai trò thám tử đi đào sâu và bóc tách vấn đề để từ đó bằng chứng ngày một nhiều lên, nhân chứng ngày càng lộ diện thì Những cô gái mất tích lại không như thế. Với cuốn sách này, sự thật vẫn ở đó, vẫn luôn tồn tại trước mắt, và khi thời gian qua đi thì có nghĩa là để đào sâu chân tướng, chúng ta phải lật ngược quá khứ.  Cách kể chuyện của tác giả có thể coi là khá “lạ” và cũng là một phương thức tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Ban đầu, độc giả có thể cảm thấy bố cục lỏng lẻo và sự thiếu liên kết giữa các chương, ứng với các ngày trong chuỗi từ ngày 15 trở về ngày 1. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được. Tuy nhiên, khi chúng ta đã quen với dòng thời gian này thì rất dễ dàng để nhận ra sức hút từ câu chuyện. Bởi lẽ chương sau sẽ là “ngày hôm qua”, cho nên cuối chương sau sẽ liên kết với chương trước để hình thành nên sợi dây với các mắt nối để giữ mạch truyện được trở nên thống nhất. Một cuốn sách tưởng đứt đoạn mà lại liền mạch không tưởng, một câu chuyện tưởng rời rạc với các chi tiết và hành động tưởng như chẳng liên quan, hóa ra lại can hệ đến nhau một cách “cố ý”.  Câu hỏi đặt ra là: sẽ ra sao nếu chúng ta đọc ngược lại câu chuyện để mọi thứ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn? Dĩ nhiên, chẳng sao cả, vì bạn mới chính là người đọc cuốn sách này. Nhưng hẳn là Megan Miranda có dụng ý khi viết ra một câu chuyện như thế, nên lời khuyên cho bạn là vẫn nên “xuôi chiều ngược” để cảm nhận được cái lạ của Những cô gái bị mất tích.  “Triết học đã nói một điều khá đúng, rằng cuộc sống cần phải được thấu hiểu theo chiều ngược lại.” _ Soren Kiergaard.    Thay lời kết Dịu ngọt mà cũng không kém phần sắc lạnh, Những cô gái mất tích được bao trùm lên bởi một màu sắc u ám và tang thương, như những gì độc giả có thể thấy ngay từ phần bìa sách vậy. Hỗn độn nhưng lại liền mạch một cách ngẫu nhiên, cuốn sách như một bảng màu loang lổ mà sau cùng dần dần được pha trộn và sắp xếp lại các khối màu. Vẫn là cái nền huyền bí với các khối màu lạnh phác họa nên các đường nét huyền bí nhưng cái bầu không khí trong Những cô gái mất tích, bằng một cách nào đó, có thể khiến độc giả bị ám ảnh. Bạn sẽ được đắm chìm trong thế giới mờ ảo xen lẫn những điều bí ẩn do Megan Miranda tạo ra, và khi ấy, chính bạn sẽ là người giải mã mê cung.  Nếu bạn đang kiếm tìm một sắc màu mới trong những gam màu u buồn vốn có của dòng trinh thám hay kinh dị, ắt hẳn Những cô gái mất tích sẽ là một cuốn sách đáng thử. Một cuốn sách đi theo chiều ngược, ngược về phía bóng tối và sợ hãi, thách thức đặt ra cho bạn là, liệu bạn có dám quay đầu lại và xuôi theo chiều ngược ấy?   Tác giả: Annie - Bookademy *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Những cô gái mất tích” của Megan Miranda xoay quanh hai vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ trong một thị trấn nhỏ. Vụ việc đầu tiên xảy ra cách đây 10 năm, nạn nhân là Corinne, người bạn thân nhất của Nicolette Farrell. Vụ việc thứ hai xảy ra ngay sau khi Nic trở về quê hương để chăm sóc người cha ốm yếu, nạn nhân là Annaleise Carter, hàng xóm của Nic. Nic quyết tâm làm sáng tỏ cả hai vụ án, và từ đây, những sự thật kinh hoàng về những người cô yêu thương dần được tiết lộ. Review “Những cô gái mất tích” là một cuốn tiểu thuyết trinh thám giật gân với lối kể chuyện độc đáo. Tác giả Megan Miranda đã sử dụng cấu trúc thời gian đảo ngược, bắt đầu từ ngày 15 của tuần cuối cùng trong cuộc đời của Annaleise và ngược trở về ngày 1, thời điểm cô gái này biến mất. Cách kể chuyện này khiến người đọc bị cuốn hút và tò mò muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra. Cuốn sách cũng được đánh giá cao về cách xây dựng nhân vật. Nic là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường. Cô sẵn sàng làm mọi thứ để tìm ra sự thật, ngay cả khi điều đó có nghĩa là cô phải đối mặt với những bí mật đen tối về những người thân yêu của mình. “Những cô gái mất tích” là một cuốn sách hấp dẫn và đáng đọc. Cuốn sách sẽ khiến bạn phải suy nghĩ lại về những người bạn bè và gia đình của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Lối kể chuyện độc đáo, đảo ngược thời gian Nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường Cốt truyện hấp dẫn, đầy bất ngờ Khiến người đọc phải suy ngẫm về những mối quan hệ thân thiết Mời các bạn mượn đọc sách Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Bí Mật Một Gia Tài - Eugenie Marlitt
E. Marlitt là bút hiệu của Eugenie John (1825 - 1887), một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức. Eugenie John sinh tại Arnstadt. Cha bà là một hoạ sĩ vẽ chân dung. Sự bảo trợ của bà là công chúa của Schwarzburg Sondershausen, người đã nhận nuôi bà vào năm 1841 và gửi bà đến Vienna để học nhạc trong ba năm nhờ vào giọng nói tốt của bà. Eugenie John trở nên điếc, và trở lại Sondershausen, sống 11 năm tại tòa án với tư cách là thư kí viên. Các đồng nghiệp của bà đã bị hấp dẫn bởi phong viết văn của bà, và khuyến khích Eugenie John sáng tác tiểu thuyết. Vì mục đích này, bà trở lại Arnstadt vào năm 1863, và bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách một nhà văn. • Tác phẩm Die zwölf Apostel (1865): Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Eugenie John, nó xuất hiện ở Leipzig Gartenlaube. Goldelse (1866): Cuốn tiểu thuyết này đánh dấu sự nổi tiếng của Eugenie John, độc giả của nó bị thu hút bởi những miêu tả về hình ảnh và thơ mộng về cuộc đời Đức. Blaubart (1866); Das Geheimnis der alten Mamsell (1868 - Bí Mật Một Gia Tài); Thüringer Erzählungen (1869), Reichsgräfin Gisela (1870); Heideprinzeßchen (1872); Die zweite Frau (1874) *** Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X. đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết - người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu và gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. — Thưa bà, - Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, - vợ người làm ảo thật đến. — Chị ta muốn gì? - một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. — Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. — Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri. Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra… Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng hai êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đông, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxki sẽ xuất hiện trong vai Vankiri[1]. Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X. đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng… Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử tọa bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để tiếng động ấy làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân; chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc tuôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh, nàng đứng đấy như một pho tượng đá. Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt… thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Một Gia Tài của tác giả Eugenie Marlitt.
Axya
Truyện dài của Turgenev, kể về một mối tình thoảng qua giữa một cô gái Nga mới lớn sôi nổi, chưa biết yêu là gì và một anh chàng Nga tại Đức. Mối tình trong vài ngày kết thúc bằng việc cô gái tỏ tình, chàng trai không chắc chắn nên từ chối, khiến anh em cô gái bỏ đi. Chàng trai hối hận tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp lại cô gái. *** Ngày ấy tôi mới hăm nhăm, - ông N.N mở đầu câu chuyện như vậy hẳn các bạn cũng thấy, chuyện xảy ra cách đây đã lâu. Thu xếp xong công việc, tôi bỏ ra nước ngoài ngay, nhưng không phải để “du học” như người ta thường nói thời bấy giờ, mà chỉ vì tôi muốn chu du trong thiên hạ, quan sát thế gian của các thánh thần. Tôi còn trẻ, sức lực dồi dào, và trong lòng lúc nào tôi cũng thấy vui: sản nghiệp còn nguyên vẹn và trong đầu chưa kịp gợn một chút lo âu, tóm lại là tôi đã sống những ngày hoàn toàn tự do thoải mái, muốn làm gì thì làm, những tháng năm xuân sắc nhất của con người. Thuở ấy nào tôi có nghĩ được rằng con người ta đâu có phải là thảo mộc, và tuổi xuân không thể nào cứ xanh tươi mãi. Tuổi thanh xuân cứ tiêu đi những chiếc bánh dát vàng nhưng lại tưởng đó chẳng qua cũng chỉ là thứ bánh ăn thường ngày, đã mấy ai nghĩ được rằng sẽ có lúc một mẩu bánh cũng phải ngửa tay xin. Nhưng thôi lý giải làm gì chuyện ấy. Tôi đi ngao du không hề có chương trình và cũng chẳng nhằm một mục đích gì hết. Thích đâu thì dừng lại đấy để rồi lại bỏ đi ngay, vì tôi luôn luôn cảm thấy một niềm khao khát được thấy những gương mặt mới lạ chính là diện mạo con người. Tôi chỉ lưu tâm quan sát con người, tôi căm ghét những di tích bất hủ đầy vẻ hiếu kỳ, những bộ sưu tập hiếm hoi quý giá, chỉ riêng bộ dạng của người dẫn đường[1] cũng đã gây cho tôi cảm giác buồn bực. Tôi suýt phát điên lên ở “Nhà bảo tàng xanh”[2] tại thành phố Đresđen. Thiên nhiên gây cho tôi những cảm xúc cực kỳ mạnh, nhưng tôi không yêu cái gọi là vẻ đẹp của nó, không yêu những ngọn núi hùng vĩ, những thác ghềnh. Tôi không yêu để nó khỏi ràng buộc, quấy rầy tôi. Thế nhưng con người, những con người sống động: từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu cho đến tiếng cười, đó mới chính là cái tôi không thể nào bỏ qua. Ở giữa đám đông bao giờ tôi cũng cảm thấy thanh thản và vô cùng thích thú, tôi vui vẻ đi theo thiên hạ, hò hét theo người ta, nhưng trong lúc đó tôi lại khoái trá đứng xem đám người kia la hét. Tôi rất thích quan sát con người… cũng không phải quan sát mà là nghiên cứu con người với cặp mắt tò mò đầy vẻ háo hức và không biết chán. Nhưng tôi lại nói lạc đề rồi. Như vậy là cách đây hai mươi năm tôi đã sống trong một thị trấn nhỏ ở Đức, thị trấn Z nằm ở tả ngạn sông Ranh. Tôi đã cố náu mình ở một nơi hẻo lánh và hiu quạnh, một quả phụ vừa gieo cho tôi một vết thương lòng, tôi quen biết bà ta ở nhà nghỉ có suối nước khoáng. Đó là một thiếu phụ rất duyên dáng và thông minh, bà ta tỏ ra kiêu sa với tất cả mọi người nhưng với tôi một con người lầm lẫn thì lúc đầu bà ta thậm chí còn khích lệ tôi, nhưng sau đó lại hắt hủi tôi một cách tàn nhẫn, khi đã thí tôi vì một viên trung úy người Baviê. Thực ra vết thương ấy của tôi cũng không lấy gì làm ghê gớm lắm, nhưng tôi thấy cũng nên có một thời náu mình trong cô đơn và buồn rầu - cái mà tuổi trẻ không say mê! - và thế là tôi đã trú ngụ tại thị trấn Z. Tôi thích thị trấn này vì cái địa thế của nó ở chân hai quả đồi cao, vì trong thị trấn có những bức tường cũ nát và nhiều ngọn tháp, có những cây bồ đề cổ thụ, có chiếc cầu dốc bắc qua dòng suối chảy ra sông Ranh, nhưng cái chính là ở đây có thứ rượu vang ngon tuyệt trần. Chiều chiều, khi trời vừa tắt nắng (đó là vào khoảng tháng sáu) những cô gái Đức tóc vàng hoe nom thật xinh xắn đi dạo trên các đường phố nhỏ hẹp, mỗi khi gặp người nước ngoài các cô cất tiếng chào: “Guten Abend?”[3] với cái giọng nghe thật dễ thương, - và cho đến lúc vầng trăng đã ló ra sau những mái nhà nóc nhọn trên những căn nhà kiểu cổ, và những viên đá nhỏ trên mặt đường lát đá đã hiện lên rõ mồn một dưới ánh trăng im lìm, vậy mà một số cô vẫn chưa muốn về. Vào những lúc ấy tôi thích đi lang thang trong thành phố. Từ trên khoảng trời trong, vầng trăng dường như đang chăm chú ngó nhìn xuống thành phố: và hình như phố xá cũng cảm thấy rõ cái nhìn ấy nên đã tỏ ra ân cần và nhũn nhặn tắm mình trong ánh trăng - cái ánh sáng mịn màng tĩnh mịch nhưng đồng thời cũng khơi gợi lên trong lòng người một nỗi xốn xang êm dịu. Con gà trống trên cái tháp chuông cao vút kiểu gô-tích sáng óng ánh trong ánh trăng vàng nhàn nhạt, cả những gợn sóng lăn tăn trên mặt con suối đen bóng cũng lấp lánh trôi đi trong ánh trăng vàng, những ngọn nến nhỏ xíu (người Đức vốn tằn tiện!) sáng lờ mờ với cái vẻ khiêm nhường trong các ô cửa sổ hẹp dưới những mái nhà lợp ngói grifen. Những cây nho mọc sau hàng tường dậu xây bằng đá hộc chìa ra những sợi tay leo cong queo nom thật bí ẩn. Bên cái giếng nước cổ xưa, một vật gì lao đi trong bóng tối qua bãi đất hình tam giác, đột nhiên vang lên một hồi còi uể oải của người gác đêm, con chó hiền lành gầm gừ mấy tiếng nửa vời, và khí trời mát dịu cứ mơn man trên da mát, bồ đề tỏa hương thơm ngào ngạt đến nỗi lồng ngực ta bất giác cứ thở hít mãi mỗi lúc một sâu hơn, và tiếng: “Gretkhen”[4] - nửa như ca thán, nửa như nghi vấn cứ thế buột ra khỏi miệng ta. Thị trấn Z nằm cách sông Ranh hai véctơ. Tôi thường ra ngắm dòng sông hùng vĩ, và ngồi hàng mấy giờ liền trên chiếc ghế đá dưới gốc cây tần bì to lớn đứng trơ trọi trên bờ sông, lòng dạ bồi hồi mơ tưởng tới người quả phụ nham hiểm kia. Dưới tán lá cây tần bì, bức tượng Đức mẹ nhỏ nhắn rầu rĩ nhìn ra với nét mặt nom giống như mặt trẻ con và trái tim đỏ tươi trên lồng ngực bị nhiều nhát gươm đâm thủng. Bờ bên kia là thị trấn L, không to hơn thị trấn tôi đang ở là bao. Một chiều tôi đang ngồi trên chiếc ghế đá yêu thích của tôi và ngắm cảnh: hết nhìn ra lòng sông, lại ngước nhìn lên bầu trời hoặc ngắm những vườn nho. Trước mặt tôi mấy em bé tóc ngắn đang leo trèo trên mạn một con thuyền đã bị kéo lên cạn và nằm phơi cái bụng quét hắc ín lên trời. Những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi theo những cánh buồm không đầy gió, những làn sóng xanh lướt qua, hơi cồn lên và chạy lao xao bên mạn thuyền. Bỗng nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng lại, tôi chăm chú lắng nghe. Bên thành phố L người ta đang chơi một điệu nhạc vanxơ: tiếng côntrơ-baxơ ậm ừ trầm mặc, tiếng viôlông réo rắt mơ hồ, tiếng flutơ nghe lềnh lảng thướt tha. - Người ta làm gì mà cử nhạc thế, hả cụ? - tôi hỏi ông già mặc áo gi-lê nhung, mang tất xanh và đi đôi giày có khóa sắt, lúc ấy vừa mới đến gần chỗ tôi. - Đó là cánh sinh viên từ B về dự hội Commerxơ - ông già thong thả chuyển cái tẩu thuốc từ mép này sang mép kia rồi mới trả lời tôi. “Hay là mình sang ngó thử xem cái hội Commerxơ ấy là cái gì - tôi nhủ thầm, - hơn nữa mình cũng chưa đặt chân lên thị trấn L lần nào”. Tôi tìm người lái đò và sang sông. ... Mời các bạn đón đọc Axya của tác giả Ivan Turgenev.
Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.
Trăng Lặn - John Steinbeck
John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Tin tức được lan truyền mau chóng trong thị trấn, qua những lời thầm thì trước cửa, bằng cái liếc nhanh đầy ngụ ý― “Thị trưởng bị giam giữ”. Khắp cả thị trấn lan ra một sự rộn ràng thầm lặng, một sự rộn ràng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt; người ta tụm lại thầm thì trò chuyện với nhau rồi tản đi; người đi mua thực phẩm nghiêng đầu sát vào người bán hàng và trong khoảnh khắc họ trao nhau lời nói. Dân chúng đi vào đồng ruộng, vào những khu rừng, tìm kiếm chất nổ. Và những đứa trẻ chơi đùa trong tuyết cũng tìm thấy chất nổ, đến lúc này cả những đứa trẻ cũng biết đến những lời chỉ dẫn. Chúng mở gói hàng, ăn phần sô-cô-la, và sau đó chúng chôn những thanh chất nổ trong tuyết rồi nói lại cho cha mẹ chúng vị trí chôn dấu. Ở tận ngoài đồng xa một người nhặt được ống chất nổ, hắn đọc lời chỉ dẫn và tự nói với mình, “Không hiểu nó có nổ được không.” Hắn cắm ống chất nổ vào trong tuyết và châm mồi, rồi vừa chạy lui ra xa vừa đếm. Nhưng hắn đếm hơi nhanh, nó nổ khi hắn đếm được đến 68. Hắn nói, “Ðược đấy,” rồi hắn vội bỏ đi, tìm những ống chất nổ khác. Gần như là có một hiệu lệnh, dân chúng đi vào trong nhà và đóng cửa lại, đường phố lặng ngắt. Ở hầm mỏ, quân lính cẩn thận lục soát từng người thợ đi vào trong hầm, lục soát rồi lại lục soát, và quân lính trở nên cáu kỉnh, cộc cằn, họ nói với những người thợ mỏ bằng những lời lẽ thô bạo. Những người thợ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh căm, và đằng sau ánh mắt ấy có chút ít sôi sục rộn ràng. Trong phòng khách của dinh Thị trưởng chiếc bàn đã được dọn dẹp sạch sẽ, một người lính đứng gác ở ngay trước cửa phòng ngủ của Thị trưởng. Annie đang quì trước vỉ lò sưởi, gắp từng mẩu than bỏ vào lò. Bà ngước lên nhìn người lính gác đang đứng trước cửa phòng Thị trưởng Orden và bà nói với hắn bằng giọng gay gắt, “Này, mi làm cái gì với ông ấy đây?” Người línhh không trả lời. Cánh cửa ngoài mở ra một người lính khác bước vào, hắn nắm cánh tay của Bác sĩ Winter. Hắn đưa Bác sĩ Winter vào, đóng cánh cửa lại, đứng bên trong phòng chắn ngay trước cánh cửa. Bác sĩ Winter nói, “Chào Annie, Ðức ông khoẻ chứ?” Và Annie chỉ vào phòng ngủ nói, “Ông ấy ở trong đấy.” “Ông ấy không bệnh chứ?” Bác sĩ Winter nói. “Không, ông ấy chẳng có vẻ gì bệnh cả,” Annie nói. “Ðể tôi coi thử, có thể nói ông ấy biết là Bác sĩ ở đây.” Bà bước đến người lính gác và nói như ra lệnh. “Nói với Ðức ông là Bác sĩ Winter ở đây, mi có nghe không?” Người lính gác không trả lời và không cử động, nhưng từ phía sau, cách cửa mở và Thị trưởng Orden đứng ở ngưỡng cửa. Ông đi lướt qua, không để ý đến người lính, bước vào trong phòng. Trong thoáng chốc người lính như có ý kéo ông trở lại, nhưng rồi hắn qua lại vị trí cũ bên cạnh cửa. Orden nói, “Cám ơn, Annie. Ðừng đi xa đấy? Tôi có thể cần đến bà.” Annie nói, “Không đâu, thưa ngài. Phu nhân khoẻ chứ?” “Bà ấy đang làm tóc. Bà có muốn gặp bà ấy không, Annie?” “Vâng, thưa ngài,” Annie nói, và bà lại đi lách qua người lính gác, vào trong phòng ngủ, đóng cửa lại. Orden nói, “Ông có cần gì không Bác sĩ?” Winter nhếch môi cười mỉa mai và chỉ ra về người lính đứng phía sau lưng. “Vậy đấy, tôi đoán là tôi đã bị bắt. Ông bạn này dẫn tôi đến.” Orden nói, “ Tôi nghĩ rồi cũng đến nước này thôi. Tôi tự hỏi họ sẽ làm gì đây?” Hai người nhìn nhau một lúc lâu và người này chợt hiểu người kia đang nghĩ gì. Rồi Orden nói tiếp như ông chưa từng ngừng lời. “Ông biết không, tôi không thể ngăn được chuyện đó cho dù tôi có muốn đi nữa.” “Tôi biết,” Winter nói, “nhưng bọn họ thì không.” Ông nói tiếp điều ông đang suy nghĩ. “Một dân tộc coi trọng giờ giấc,” ông nói, “và giờ giấc đã gần điểm. Họ nghĩ rằng chỉ vì họ chỉ có một lãnh tụ và một cái đầu nên họ cho tất cả chúng ta cũng như vậy. Họ biết nếu mười cái đầu bị chặt đi họ sẽ bị tiêu diệt, nhưng chúng ta là những người tự do, chúng ta có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cái đầu, và đến lúc cần những lãnh tụ sẽ mọc lên trong chúng ta như nấm.” Orden đặt tay lên vai của Winter và ông nói, “Cám ơn. Tôi biết điều đó, nhưng nghe ông nói thật hay. Dân chúng thấp bé kia sẽ không bị khuất phục, đúng không?” Ông bồn chồn nhìn khuôn mặt của Winter dò hỏi. Bác sĩ Winter khẳng định với ông, “Sao, không, không đâu. Sự thực là họ sẽ trở nên lớn mạnh hơn với sự giúp đỡ từ bên ngoài.” Căn phòng im lặng một lát. Người lính gác hơi chuyển thế đứng, cây súng va vào một hạt nút nghe lanh canh. Orden nói, “Tôi có dịp nói chuyện với ông, Bác sĩ, và có lẽ tôi sẽ không thể nói chuyện với ông lần nữa. Trong đầu tôi đã nghĩ đến những điều hơi hổ thẹn.” Ông ho và liếc nhìn người lính đang đứng nghiêm, nhưng người lính không có vẻ nghe thấy gì hết. “Tôi đã nghĩ đến cái chết của tôi. Nếu họ cứ theo trình tự thông tường, họ phải giết tôi, và họ sẽ phải giết ông.” Và khi thấy Winter im lặng, ông nói, “Ðúng không?” “Ðúng, tôi đoán vậy.” Winter bước đến bên một chiếc ghế bịt vàng, vừa lúc sắp ngồi xuống, để ý thấy thảm bọc ghế bị rách, ông dùng ngón tay vuốt chỗ đệm ngồi như thể làm vậy sẽ vá nó lại được. Ông se sẽ ngồi xuống vì chiếc ghế đã rách. Orden nói tiếp, “Ông cũng biết, tôi sợ, tôi đã từng nghĩ những phương cách để trốn thoát, phủi tay. Tôi đã từng nghĩ đến việc bỏ chạy. Tôi đã từng nghĩ đến việc van xin tha mạng, và chuyện ấy làm tôi hổ thẹn.” Mời các bạn đón đọc Trăng Lặn của tác giả John Steinbeck.