Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Tư Mao Trạch Đông (Lý Chí Thỏa)

Không có một nhà độc tài nào trong lịch sử nhân loại có uy quyền lớn như vậy đối với quần chúng như Mao Trạch Đông. Không ai trong số những người cai trị trong quá khứ đã mang đến cho dân tộc mình nhiều sự đau khổ bần hàn cho nước Trung Quốc chia rẽ. Sự khát vọng uy quyền và mơ ước nắm giữ ngai vàng với bất kỳ giá nào đã buộc Mao phải cai trị đất nước trong sự thối nát cùng cực. Những ý tưởng điên rồ và hàng loạt mưu đồ đã đưa Trung Quốc tới vực thẳm. Hàng chục triệu người đã chết vì đói trong những năm chính sách đại nhảy vọt, và vì sự trả thù hàng loạt và hỗn loạn diễn ra trong thời kỳ Cách mạng văn hoá - đấy là kết quả của một thí nghiệm bệnh hoạn do một ông vua mới xuất hiện trên một đất nước vĩ đại có hàng nghìn năm lịch sử.

Sự thú nhận thẳng thắn của một con người từng sống bên cạnh Mao trong thời gian suốt hai mươi năm và nghiên cứu tận gốc rễ không những tổ chức mà còn thế giới bên trong người cầm lái vĩ đại, là độc nhất trong việc mô tả sinh hoạt của một trong số những bạo chúa của thế kỷ XX.

Những chi tiết trong cuốn Về cuộc sống của các Xê-da đã mô tả những ảnh hưởng thối nát của uy quyền tuyệt đối với khuyết tật, sự tham lam, khát máu và giết người man rợ. Tuy nhiên, khi tả lại cuộc sống của các tù trưởng bộ lạc, người Tây Tạng và bạo chúa Neron, tác giả chưa phải là một con người gần gũi với họ như bác sĩ Lý Chí Thỏa với bệnh nhân Mao Trạch Đông. Về tiểu sử Hit-le ông Speer biết chưa đày đủ về đế chế của mình, nhưng trong tiểu sử của lãnh tụ Nazi, chỉ giới hạn đến mặt chính trị và quân sự của Hitle. Con gái Stalin viết nhiều về bố mình, dù cô ta cũng gặp bố không nhiều. Nhật ký của bác sĩ riêng Napoleon và Hit-le chỉ thuần tuý là quan sát về y học. Hồi ký của Moran về Sớc sin, của Herndon về Lincon chỉ là về những sự kiện lịch sử mà ảnh hưởng của cá nhân đến quá trình lịch sử là không đáng kể. Cái gì liên quan tới triều đại Trung Hoa, thì theo truyền thống trong đó chỉ mô tả chuyện ma chay, chôn cất, bói toán, chiến tranh và các sự kiện đáng ghi nhớ của việc lên ngôi của hoàng đế. Trong tiểu thuyết cổ Trung Quốc Tam quốc diễn nghĩa mô tả sự chia rẽ Trung Hoa thành ba quốc gia thù địch Ngụy, Thục, Hán và về sự thống đất nước dưới sự che chở của triều đại Tần năm 280, người ta chỉ kể lại các cuộc chém giết, sát phạt và các thủ đoạn trong thời kỳ này.

Dưới sự soi sáng của các sự việc nguyên bản và sự mổ xẻ tâm lý Mao một cách sâu sắc đã làm cuốn sách của Lý Chí Thỏa là hiện tượng hiếm trong văn học.

Thật là khó hiểu rằng trong những năm 90 thậm chí người ta vẫn mô tả Mao Trạch Đông là một con người nhân hậu thông minh, và bất cứ sự chỉ trích nào nhắm vào ông ta lại gây sự phẫn nộ trong người Trung Quốc. Tất cả những ai có vinh dự gặp lãnh tụ không có thể quên được cuộc gặp đầu tiên khi đó Mao là lịch sự, khiêm tốn và nhân từ với người đối thoại và điều này tạo cho ông ta là người ngay thẳng. Tuy nhiên càng về sau Mao không giữ được đức tính như thế nữa, ông thường xuyên giận dữ, dọa dẫm và cai trị thuộc hạn trong sự sợ hãi triền miên. Mao chẳng khó khăn gì lôi kéo đám cận thần và tất cả nhân dân Trung Quốc. Và không còn nghi ngờ gì nữa trong trường hợp này, giúp ông ta chính học thuyết Khổng tử, học thuyết đó trong suốt nhiều thế kỷ đã ăn sâu trong tâm khảm dân thường Trung Quốc. Một trong năm điều răn dạy của Khổng giáo là lòng tin của thần dân vào kẻ thống trị dựa trên sự tín, nghĩa, trung quân, không chống lại vua. Vây quanh ông ta là những người dễ bảo, Mao dần dần bày ra trò tự phê bình để mà nghe từ họ bao lời ca tụng và thờ phụng ông ta. Mao bắt chước Tần Thuỷ Hoàng và khéo léo điều khiển đám người quanh ông. Tìm mua: Đời Tư Mao Trạch Đông TiKi Lazada Shopee

Bác sĩ Lý Chí Thỏa xuất thân từ một gia đình dòng dõi, thời trai trẻ đã được đào tạo trong một trường đại học ở Quý Châu, sau khi tốt nghiệp ngẫu nhiên tham gia tổ chức thanh niên chống cộng của Quốc dân đảng. Điều đó cho phép Mao bằng thủ đoạn hăm doạ lành nghề buộc Lý trở thành người đầy tớ tin cẩn của mình.

Dưới thời Mao, sự thối nát thịnh hành và ông ta cũng biết rõ điều này. Cái đó tạo cho Mao cai quản đám người của mình trong vòng cương tỏa. Ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại rằng cá không thể sống thiếu nước, và ông rất thích bơi lội trong các hồ nước bẩn hoặc là ban đêm đi đến các nơi tối tăm của cánh đồng lúa. Tất cả những người quanh Mao đều bị cơ quan mật vụ theo dõi. Trong nhiều năm trời, nhiều người trong số chiến hữu của Mao đã bị nằm trong các trại cải tạo hoặc bị xử tử.

Trong những năm chiến tranh và cách mạng, Mao đã mất con, anh em và một người vợ, nhưng ông lại hoàn toàn thờ ơ trước những đau đớn của những người khác. Trong chính trị cũng như trong đời tư, ông không hề ngần ngại tiêu diệt những người mà ông coi là không có lợi đối với ông, và khi cần thiết thì ông lại nhẫn tâm kéo họ về phục vụ cho ông, nếu lúc ấy họ vẫn còn sống.

Bác sĩ Lý thường đặt Mao trong sử sách Trung Quốc. Vị lãnh tụ rất thích các tiểu sử đầy mưu mẹo ranh ma và xảo quyệt của các kẻ thống trị đời trước. Họ đã dạy Mao Chủ tịch cả về chiến thuật lẫn chiến lược đấu đá với kẻ thù của mình. Mao đã nổi bật về mưu mô xảo quyệt và một kịch sĩ. Thậm chí chiến hữu thân cận cũng không thể hiểu nổi Mao đồng ý với họ hay chuẩn bị giáng cho họ đòn bất ngờ.

Hình mẫu cuộc sống của Mao là sự kết hợp chủ nghĩa khổ hạnh và xa hoa, sự lười biếng đến lạ lùng và khả năng làm việc đặc biệt. Phần lớn thời gian Mao nằm trên giường hoặc trên trường kỷ trong bể bơi. Ông ta có thể cả ngày đi lại trần truồng, thích thức ăn béo ngậy, thay cho việc đánh răng, ông xúc miệng bằng nước chè và bồng bế lên giường những cô gái thôn dã chanh cốm.

Năm 1958, trong thời gian thăm tỉnh Hồ Nam, đi theo xe Mao là một chiếc xe tải chở đầy dưa hấu mà Mao ưa thích. Chủ tịch rất thích đi những đôi giày vải, và nếu phải xuất hiện trước một cuộc tiếp xúc ngoại giao thì ông chọn giày da, trước đó những cận vệ tin cậy buộc hoặc cởi giầy cho ông. Mao chẳng bao giờ thích tắm. Thay vì đó, các vệ sĩ lau mình ông ta bằng khăn mặt ướt, điều này - theo lời bác sĩ Lý - dễ tăng sự nguy hiểm lây lan chứng bệnh giang mai trong số nhiều tỳ thiếp của lãnh tụ. Mao chỉ ngủ trên chiếc giường gỗ lớn, không bao giờ được rời ông. Ông mang theo nó trong các chuyến đi riêng của mình, mang nó theo ra dinh thự ngoại ô. Chiếc giường thậm chí còn đi theo ông trên máy bay trong chuyến đi tới Moskva.

Chủ tịch là thời gian quyền lực và là một cuốn lịch. Toàn bộ dinh thự làm việc và sống trong một nhịp điệu của chủ nhân, hoạt động chính của nó bắt đầu theo thường lệ vào lúc nửa đêm. Mao có thể gọi người phục vụ vào lúc hai, ba giờ đêm. Ông rất thích chu du đất nước, vì thế các cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo cao cấp và cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc có thể diễn ra ở hang cùng ngõ hẻm của Trung Quốc. Trong số Luận văn đạo Lão cổ ông biết rõ là con đường dẫn tới tới sự bất tử nằm ở quan hệ tình dục và say sưa đắm mình trong trác táng tình dục hoan lạc với vô số các cô gái trẻ đẹp.

Trong những ngày lễ chính thức ông chỉ công nhận kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày thành lập cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng chỉ mời khách nước ngoài cao cấp. Trong những ngày này ông ăn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn

Các phụ nữ chỉ được phục vụ ông một trong số các món ăn kiểm tra cẩn thận. Cuộc sống tình dục của ông phải chăng không rõ có phải trên cơ sở chăm sóc kiểu vua chúa hay không. Bên cạnh phòng rộng lớn cho hội nghị hiệp thương toàn quốc là một phòng đặc biệt dành riêng cho lãnh tụ để trong thời gian hội thảo mệt nhọc ông được xả hơi bằng tình dục. Các quan chức quân đội và đảng, những người luôn giữ nghiêm ngặt đạo đức xã hội đã kiếm cho Mao các cô trinh nữ duyên dáng xuất thân từ thành phần vô sản và nông dân.

Mao rất thích khiêu vũ, và thường tổ chức vũ hội, để sau đó các bạn nhảy của ông được vinh dự vui vầy với lãnh tụ trên giường. Những cô gái thạo ngón có quyền dẫn em gái trẻ của mình tới phòng Mao.

Mỗi bí thư đảng ở các địa phương đều xây cho Mao một vi-la tráng lệ. Mao không thích ngồi một chỗ và thường xuyên du ngoại trên đoàn tàu riêng. Mọi đoàn tầu trên đường đi của lãnh tụ đều bị ngừng lại, tại các ga mà tàu đi qua, công an canh chừng hành khách và dân buôn thúng bán mẹt.

Trong những năm đại nhảy vọt người ta bắt nông dân trồng lúa dọc theo đường tầu để lãnh tụ từ trong toa nhìn ra tận mắt có thể nhìn thấy vụ mùa bội thu, mặc dù nó chính nó rất tồi.

Mao rất thích ra ngoài dạo chơi ở vi-la của mình xây ở đảo nằm trên sông Châu Giang gần Quảng Châu. Thức ăn của lãnh tụ được trồng ở những trại đặc biệt cách Bắc Kinh không xa và được kiểm tra bằng những chuyên gia lành nghề. Trong những ngày nóng nực, căn hộ của Mao được làm lạnh bằng những chậu nước đá.

Quyền lực tuyệt đối đã ảnh hưởng tới thể lực và tinh thần của nhà độc tài và cướp đi sở thích đơn giản của ông là giao tiếp. Có lúc hàng tháng ông không rời khỏi giường, mặt tỏ ra lo âu mơ hồ. Tuy nhiên khi xảy ra biến cố chính trị nghiêm trọng thì ông tỏ ra hoạt bát lên, lấy đi sự thanh thản và thậm chí không ngủ nữa. Trong thời kỳ ấy cho lãnh tụ dùng lượng lớn thuốc ngủ barbiturat.

Căng thẳng chính trường thời gian ấy đã không làm yếu khả năng tình dục của Mao và đôi khi ngược lại còn tăng lên. Khi mà trong những năm đại nhảy vọt hàng chục triệu người chết đói, Chủ tịch để chuộc lỗi trước đảng, tạm thời ngừng ăn thịt, nhưng đàn bà thì ông không bỏ. Một trong số những thứ như thế đã mở mắt bác sĩ Lý là người cầm lái thực là vĩ đại về mọi phương diện, bao gồm thậm chí cả tình dục.

Chính sách nhà độc tài phụ thuộc vào tính cách cá nhân của ông. Trong thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội Trung Quốc duy nhất Mao đã tạo ra một đất nước nghèo khổ, lạc hậu dở sống dở chết chẳng giống với ai cả, lề lối quản lý kinh tế xã hội khác thường. Đối mặt với sự thù địch của phương Tây, Mao bắt đầu chơi với Moskva. Dù thế các thành tựu khoa học kỹ thuật của Mỹ và Châu Âu luôn luôn làm Mao ngưỡng mộ. Có thể là chính vì vậy Mao chọn Lý làm bác sĩ riêng. Trong đó lãnh tụ Trung Quốc muốn tìm thấy những người đối thoại thông minh và có học, đặc biệt hiểu được tiềm năng của mức kinh tế và kỹ thuật của các nước phương Tây phát triển. Khi trao đổi với Lý, Chủ tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ của Mỹ với Trung Quốc luôn luôn thiện chí, trong khi Liên Xô gọi cộng hoà nhân dân Trung Hoa là người em trai của mình và xem đó là đất nước vĩ đại có triển vọng. Mao có xu hướng khắc phục những yếu kém của mô hình xô-viết nguyên thuỷ của chủ nghĩa xã hội và xây dựng ở Trung Quốc chủ nghĩa xã hội kiểu mới, đưa đất nước đến mức các nước văn minh trên thế giới. Ông cho rằng nhờ đó có thể trở thành kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đóng góp nhiều bài học bởi sự sáng tạo nguyên bản mới.

Một trong những ý tưởng hiệu quả là chính sách đại nhảy vọt, và để cứu nó phải quay sang Cách mạng văn hoá.

Theo Mao, phát triển kinh tế của đất nước có thể chỉ đạt được bằng chủ nghĩa nhiệt thành của quần chúng. Mao Trạch Đông tin thành tâm vào hiện thực thực hiện kế hoạch lớn lao của mình. Điều này không khó vì chính lãnh tụ từng sống trong vùng cộng sản. Vào thời kỳ khi mà nhân dân Trung Quốc đói, lãnh tụ vẫn ngoan cố khẳng định về sự giàu có của đất nước, mà các nhà lãnh đạo đảng đã thông báo cho ông ta. Đảng kiểm soát kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và mọi cuộc sống của nhân dân…

Đảng lãnh đạo đã bác bỏ cách đi tiếp của lãnh tụ theo ý tưởng điên rồ để đẩy mạnh đất nước. Khi đó Mao ngừng lại, để chấp hành quyết định của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên lúc đó có cuộc đấu tranh dữ dội trong nội bộ, Mao ngoan ngoãn nghe lời đa số.

Giải quyết vấn đề cơ bản của đất nước là một nhóm ủy viên Ban chấp hành trung ương gồm 30-40 người. ảnh hưởng của họ đến ý kiến đa số trong lãnh đảng cộng sản Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào quan hệ qua lại với Mao Trạch Đông.

Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lý mô tả tỷ mỷ cấu trúc hệ thống chính trị của Trung Quốc bao gồm những người sáng lập và các cơ quan thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc: bộ máy thư ký, bộ máy an ninh, bệnh viện, giao thông, cung ứng và những cái khác.

Đối với giới chức cao cấp của đảng, người ta xây các thành phố ngầm, để các nhà lãnh đạo có thể chạy một cách dễ dàng từ nhà họ ra tới bất cứ điểm nào của Bắc Kinh.

Giống nhiều nhà thống trị, Mao không có bạn thực sự và chiến hữu tin cậy. Vây quanh ông là cả một đội ngũ thuộc hạ ngoan ngoãn, những thư ký… và những vệ sĩ lực lưỡng. Dù rằng có bộ sậu đông như thế, Mao vẫn cảm thấy đơn độc.

Tại đại hội VIII đảng cộng sản Trung Quốc năm 1956, nhân báo cáo Khơ-rút-sốp về tệ sùng bái cá nhân Stalin, người ta đã cố gắng hạ uy thế Mao Trạch Đông. Mao thẳng thừng chống lại vì ông hiểu quá rõ rằng làm thế ông sẽ mất ngai vàng mà ông giành được từ ngày cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời.

Nhiều năm trôi qua, hàng triệu sinh mạng bị thiệt hại.

Nhiều người trong số chiến hữu người cầm lái vĩ đại đã chết trong các trong trại cải tạo và nhà tù, còn dân chúng như trước đây vẫn ca tụng lãnh tụ trong các cuộc mit tinh hàng ngàn người giơ cao những bìa đỏ trích dẫn lời thần tượng của mình.

Trong số những người trước đây còn nắm chức vụ cao chỉ còn Lâm Bưu, từ 1969 chính thức trở thành trợ thủ duy nhất và người kế tục của Chủ tịch Mao.

Năm 1971 Lâm Bưu bị buộc tội đảo chính phản cách mạng và mưu sát Mao. Sau khi bại lộ, Lâm Bưu cùng vợ và con bay sang Liên Xô. Nhưng máy bay của ông bị rớt trên vùng đất Mông cổ mà cho đến nay không rõ nguyên nhân.

Sự phản bội và cái chết của Lâm Bưu đã giáng Mao một đòn nặng tới mức từ thời điểm đó bác sĩ Lý đã nhận thấy sự giảm đột ngột sức khỏe của Chủ tịch.

Trong những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cố gắng dàn xếp quan hệ với phương Tây. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi việc tiến hành cải cách kinh tế do Đặng Tiểu Bình khởi xướng.

Sau khi Mao chết năm 1976, bác sĩ Lý bị đe dọa tính mạng - người ta có thể buộc tội ông giết lãnh tụ. Nhưng rất may mắn, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc biện hộ cho ông. Dù vậy, không tin vào sự ổn định trong nước, Lý Chí Thỏa di cư sang Hoa kỳ. Sau đó tên của bác sĩ riêng của Mao đã bị xoá bỏ khỏi lịch sử chính thức của cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Năm năm sau cái chết của Mao, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc ra quyết định trong đó Mao được phong là nhà cách mạng vĩ đại đóng góp vào sự phát triển của Trung Hoa và giảm lỗi của Mao đi đáng kể. Trong cuốn sách này chứng minh ngược lại. Tác giả vững tin chứng minh rằng sự kết hợp quyền lực tuyệt đối với ý tưởng phiêu lưu chỉ đẻ ra tội ác vĩ đại. Không có một cuốn sách nào về tiểu sử người cầm lái vĩ đại lại tỷ mỷ và khách quan như hồi ký của Lý Chí Thỏa.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đời Tư Mao Trạch Đông PDF của tác giả Lý Chí Thỏa nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời - Jules Verne
Jules Verne là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Pháp trong thể loại "Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng”. Bạn đọc Việt Nam, ai là người chẳng từng đọc qua các tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này như Vòng quanh thế giới trong 80 ngày, 20. 000 dặm dưới đáy biển, Năm tuần trên khinh khí cầu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, ngòi bút của ông cũng không kém phần sắc sảo. Bạn đọc nào ưa thích thể loại này hẳn đã phải đọc qua: Những đứa con của thuyền trưởng Grant, Phiêu lưu vào vùng mỏ Aberfoyle của ông, cũng do Nhà Xuất bản Trẻ xuất bản. Lần ấn hành này, chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn Ngọn hải đăng nơi cuối trời, một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Jules Verne để đóng góp thêm vào tủ sách Văn học dịch của Việt Nam. Chuyện xoay quanh việc chính phủ nước cộng hòa Argentina cho xây dựng trên một hòn đảo mang tên “Đảo các quốc gia" một ngọn hải đăng, nhằm hướng dẫn các tàu bè qua lại eo biển Lemaira, một eo biển hẹp lởm chởm các bãi đá ngầm. Sau khi khánh thành ngọn đèn biển này, toàn bộ công nhân xây dựng, kỹ sư... đã được rút đi chỉ để lại trên đảo một toán bảo vệ gồm ba người là Vasquez, Felipe và Moriz. Tổ bảo vệ này có trách nhiệm vận hành đèn hằng đêm và bảo vệ nó. Họ sẽ ở lại đảo trong một thời gian nhất định, sau đó ở đất liền sẽ có một tổ bảo vệ khác ra thay thế họ để tiếp tục công việc trên. Mọi việc đã diễn ra khá suông sẻ trong thời gian đầu. Cho đến một ngày kia, trong một lần đi săn thú để có thịt tươi cải thiện bữa ăn, toán bảo vệ hạ được một con nai đã bị thương do một viên dạn mà ai đó đã bắn vào nó trước khi bị toán bảo vệ bắt được. Sự việc này đem đến một nỗi lo ngại: trên hoang đảo này đã có người ngoài họ, mà những người này lại có súng. Những người đó là ai, người lương thiện hay kẻ bắt lương? Câu trả lời đến ngay sau đó với cái chết của hai nhân viên bao vệ là Felipe và Moriz. Họ bị hạ sát trong khi đang thi hành nhiệm vụ, bởi một băng cướp có vũ trang; bọn chúng khoảng 12 tên, tên cầm đầu là Kongre, một tên cướp khét tiếng ở vùng biển này. Chỉ còn lại một mình tổ trưởng Vasquez đối mặt với một băng cướp có số lượng đông hơn gấp nhiều lần. Anh sẽ phải hành động ra sao để có thể tự bảo vệ mình, đồng thời vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ "Ngọn hải đăng nơi cuối trời” nhằm tránh cho các tàu bè qua lại eo biển khỏi gặp hiểm nguy. *** Mặt trời sắp lặn đằng sau những quả đồi phía tây. Thời tiết rất tốt. Về phía trước, mặt biển như hòa vào bầu trời ở phía đông và đông-bắc, những đám mây nhỏ còn phản chiếu những tia nắng cuối cùng, những tia nắng mà chẳng mấy chốc nữa sẽ chìm vào bóng hoàng hôn, một hoàng hôn rất dài ở một nơi có vĩ độ năm mươi lăm độ của nam bán cầu. Đúng vào lúc đĩa mặt trời vừa khuất hẳn dưới đường chân trời thì một phát đại bác vang lên trên tuần dương hạm Santa-Fé, và lá cờ của nước Cộng hòa Argentina được kéo lên đỉnh cột buồm sau, nó phần phật cuộn bay trong gió biển. Cùng lúc đó một chùm tia sáng tỏa lan rực rỡ từ đỉnh ngọn hải đăng được xây cách vịnh Elgor, nơi tuần dương hạm Santa-Fé thả neo, một tầm súng. Hai người gác đèn cùng đám thợ tụ tập trên bãi cát còn thủy thủ đoàn thì tập họp trên boong trước của chiến hạm, tất cả cùng reo vang chào đón chùm tia sáng đầu tiên được thắp lên ở nơi bờ biển xa xôi này. Hai phát đại bác nữa lại vang lên như đáp lại những tiếng reo hò đó, những tiếng nổ đập vào những ngọn núi xung quanh vang dội trở lại nhiều lần. Những lá cờ trên chiến hạm lại được hạ xuống đúng theo nghi thức hải quân; và sự im lặng lại bao trùm lên hòn đảo “đa quốc gia” nằm đúng ở nơi gặp nhau của hai biển lớn Đại Tây dương và Thái Bình dương. Sau đó, đám thợ bước lên boong của chiếc Santa-fé và như vậy trên bờ chỉ còn lại ba người để làm công việc gác đèn. Một người gác đang làm nhiệm vụ trong phòng, hai người kia chưa về nơi nghỉ ngay mà còn dạo bước chuyện trò dọc theo bờ biển. - Anh Vasquez này! - Người trẻ nói - ngày mai chiếc tuần dương hạm mới nhổ neo chứ... - Đúng thế Felipe - Vasquez đáp - và tao hy vọng là chuyến đi về này được suôn sẻ. - Có xa không anh Vasquez?... - Chuyến đi bao xa thì trở về cũng y như thế. - Chưa chắc thế đâu - Felipe vừa cười vừa đáp. - À này - Vasquez tiếp - đôi khi lúc đi, thời gian lâu hơn lúc về trừ trường hợp gió không được ổn định lắm!... Nhưng nói cho cùng một ngàn rưỡi hải lý cũng không phải là xa nếu như con tàu có máy móc ngon lành và chuyến đi thuận buồm xuôi gió. - Và nếu như thuyền trưởng chiếc Lafayate lại rành đường đi nữa thì hẳn là... - Thì tàu cứ việc thẳng đường mà đi, lúc đi đã theo hướng nam, như vậy lúc về ta cứ hướng bắc mà tiến, và nếu gió cứ tiếp tục thổi từ đất liền ra thì ta cứ men theo bờ biển mà đi, cứ như đi trên con sông mà thôi. - Nhưng con sông đó chỉ có một bờ - Felipe tiếp. - Mặc, miễn là có gió, tốt nhất là luôn luôn được gió thổi. - Đúng thế - Felipe nhận xét - nhưng nếu gió cứ luôn đổi chiều thì...   Mời các bạn đón đọc Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời của tác giả Jules Verne.
Hòn Đảo Bí Mật - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rải khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Bằng lao động nghệ thuật sáng tạo, J. Verne đã góp phần cống hiến to lớn cho nền văn minh và tiến bộ của loài người. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. *** Hòn Đảo Bí Mật có thể được xem là tập thứ 3 trong series sau Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển và Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant. Trong tác phẩm này ta được gặp lại vị thuyền trưởng tài ba Nemo và con tàu huyền thoại Nautilus. Câu chuyện không có nhiều tình tiết ly kỳ, chỉ là một câu chuyện về năm con người trốn khỏi cuộc nội chiến ở Mỹ đã vô tình lạc lên một hòn đảo hoang vu giữa Thái Bình Dương mênh mông! Chỉ với năm con người, năm đôi bàn tay trắng nhưng với kiến thức, với sức lao động miệt mài và lòng đoàn kết họ đã chinh phục được thiên nhiên. Họ đã biến hòn đảo ấy thành một nơi cư ngụ tuyệt vời, có lúa mì, có bông vải, có nhà cửa, có điện, thậm chí có cả một toa xe lửa! Một câu chuyện chỉ với năm người đàn ông: một kỹ sư, một nhà báo, một thuỷ thủ, một nô lệ và một chú bé! 1000 trang sách không hề có bóng dáng người phụ nữ nào, cũng không có bóng dáng tình yêu, chỉ có tràn ngập tình người. Có những trang sách làm ta bất ngờ và khâm phục về khả năng của con người trước những thử thách của thiên nhiên, và có những trang sách làm ta rơi nước mắt... *** Hẳn mọi người còn nhớ cơn bão khủng khiếp xảy ra vào năm 1865. Trận cuồng phong đã hoành hành không ngớt từ ngày 18 đến ngày 26 tháng ba và sức tàn phá thật là ghê gớm: khắp châu Mỹ, châu Âu, châu Á, bao trùm cả một vùng rộng một ngàn tám trăm hải lý, kéo dài từ hướng đông bắc tới tận xích đạo. Hậu quả do bão gây ra thật khủng khiếp. Tàu bè bị sóng đập nát, thành phố bị tàn phá, hàng ngàn người bị những trận lốc xoáy cuốn đi hoặc nhận chìm xuống lòng biển. Khi trên đất liền và trên biển đang chịu đựng trận thiên tai này thì một thảm kịch không kém phần khủng khiếp cũng đã xảy ra trên không do bão tố gây nên. Trong những ngày tháng ba năm 1865, trận cuồng phong đã cuốn phăng một quả khí cầu mà trên đó có năm người khách đang viễn du, nhồi nó lên tận đỉnh cột lốc như một quả bóng, rồi xoáy hút nó theo. Trên giỏ treo của khí cầu có năm người. Ta có thể loáng thoáng nhận ra họ trong làn sương dày đặc quyện lẫn bụi nước đại dương. Lúc này các nhà du hành đang ở trong giỏ treo của khí cầu không thể biết được họ đã vượt một chặng đường bao xa và khí cầu của họ bị cuốn đi đâu, họ không có một cột mốc nào để xác định vị trí cả. Mãi đến khi khí cầu vùn vụt lao xuống họ mới hay mình đang bay trên những lớp sóng biển hung dữ, và hiểu ra mình đang gặp nguy hiểm chết người. Nhưng khi họ vứt hết những vật nặng trong giỏ treo của khí cầu như súng đạn, lương thực thì khí cầu lại vọt lên. Ngày hôm sau, khi bão bắt đầu yên cũng là lúc vỏ khí cầu lại dài ra, co rúm lại và họ xuống liên tục. Rõ ràng là không thể nào giữ cho khí cầu thăng bằng trên cao được nữa, vì nó không còn đủ hơi gas. Thế là cái chết đang sẵn sàng tìm đến họ! Bên dưới không phải là đất liền, mà là biển cả mênh mông, không có cù lao, không đảo nổi, không một dải đất để neo khí cầu. Đến hai giờ chiều ngày 24, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương khoảng bốn năm bộ. Đúng lúc ấy một tiếng nói quả cảm vang lên: - Vứt bỏ hết mọi thứ rồi chứ? - Chưa! Còn lại vàng, mười ngàn đồng Franc cả thảy! – một giọng nói khác kiên quyết nói. Ngay tức khắc, chiếc bao tải nặng đựng tiền rơi vụt xuống đại dương. - Còn vật gì để quẳng đi được không? - Hết rồi! - Mọi người hãy bám lấy lưới. Chúng ta sẽ vứt cái giỏ treo xuống biển. Thật vậy, chỉ còn cách cuối cùng và duy nhất ấy là có khả năng làm cho khí cầu nhẹ bớt mà thôi. Những sợi dây buộc nối vào vành đai lưới đã bị cắt đứt, và đến khi chiếc giỏ tách rời ra, khinh khí cầu bốc lên trên mực nước biển hai ngàn bộ. Năm nhà du hành leo lên vành đai và bây giờ họ trụ trên các mắt lưới, tay bám chặt vào những sợi dây. Phía bên dưới, đại dương đang gầm thét. Đến bốn giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách đại dương năm trăm bộ. Bỗng con chó mà các nhà du hành mang theo sủa vang. Nó cũng đang ở bên dưới khí cầu, cạnh viên kỹ sư chủ nhân của nó. - Con Top đã trông thấy cái gì rồi! – một người trong số du khách kêu lên. Và liền ngay đó có tiếng reo vang: - Đất liền! Đất liền! Quả thật, trước mặt các du khách xuất hiện một bờ biển khá cao cách họ khoảng ba mươi hải lý. Muốn đến đó, khí cầu cần bay ít nhất một giờ, với điều kiện là gió không đổi hướng. Nếu hơi gas bị xì hết trước thời hạn đó thì sao? Thật là một câu hỏi khủng khiếp! Các du khách bất hạnh đã cố phân biệt rõ mặt đất phía bên dưới. Họ không biết đó là đảo hay đất liền. Nhưng dù trước mặt họ là một hòn đảo hoang, thì cũng cần phải đến được đó bằng bất cứ giá nào. Nửa giờ trôi qua, họ chỉ còn cách mặt đất không quá một hải lý, nhưng hơi gas trong khí cầu hầu như đã cạn kiệt, chỉ còn chút ít ở phần trên. Các du khách bíu chặt vào lưới và trọng lượng của họ quá tải đối với khí cầu. Vỏ khí cầu bị gấp khúc, gió thổi trôi trên mặt nước như một cái thuyền buồm, chỉ còn cách bờ hai cabeltov nữa thôi. Nhưng bỗng bốn du khách bật lên tiếng kêu, và quả khí cầu bị mất hết sức nâng lại bất ngờ vọt lên cao khoảng một ngàn tám trăm bộ. Đến đây, nó lại sa vào một vùng không khí loãng và bị gió cuốn đi, không phải vào bờ, mà hầu như song song với bờ. Hai phút sau thì gió đổi hướng và quả cầu bị hất lên bờ cát. Các du khách giúp nhau chui ra khỏi lớp lưới bao quanh họ. Quả khí cầu, sau khi thoát khỏi tình trạng quá tải, vụt bay lên khi gặp cơn gió đầu tiên, rồi biến mất trong bầu trời bao la. Trên giỏ treo của khí cầu trước đó có năm nhà du hành và một con chó, nhưng khi xuống mặt đất chỉ còn có bốn người. ... Mời các bạn đón đọc Hòn Đảo Bí Mật của tác giả Jules Verne.
Điệu Slow Trong Thang Máy - Chiu Kon-Loh
Làm sao đây, khi tình cờ bắt gặp trong thang máy, một người đẹp khiến tim mình loạn nhịp? Làm gì đây, khi tình cờ mắc kẹt trong thang máy, với người đẹp ấy trọn một đêm dài? Buồng thang máy chật hẹp, bầu không khí ngất ngây, những hình dung kích thích… Mang theo dư âm kỳ ngộ, chàng trai cố truy tìm tung tích người đẹp mà không ngờ rằng, nàng chính là đồng nghiệp cùng công ty. Chỉ có điều, nàng đã… góa chồng, lại có cô em gái cũng xinh đẹp quyến rũ không kém. Đường đua bắt đầu chật chội khi sếp nữ đa tài đa sắc cũng bày tỏ sự quan tâm “vượt mức” tới anh chàng. Một chàng trai, ba mỹ nữ. Những chân tình liệu có thể đỗ cùng một bến bờ hạnh phúc? Hài hước, cá tính, mà sâu lắng thiết tha, Điệu slow trong thang máy mang lại cho chúng ta những phong vị mới về tình yêu hiện đại. *** Chiu Kon-Loh, một cái tên quê mùa, bỗng chốc lừng danh và được lùng tìm khắp mạng Internet, nhờ một câu chuyện hấp dẫn dị thường. Trong vòng một tháng, Điệu slow trong thang máy nhận được hơn 100 triệu lần nhấp chuột. Mỗi ngày, có hàng vạn người lên mạng chờ đọc truyện của anh. Mỗi ngày, họ đều tìm thấy ở Chiu Kon-Loh những bất ngờ hoan hỉ. *** Chuyện bắt đầu khi tôi vừa tốt nghiệp đại học.   Lúc đó tôi vẫn còn làm ở Phòng Phát triển mới thành lập của công ty.   Nhìn bề ngoài thì phòng này có vẻ ghê gớm lắm, nhưng thực ra công việc toàn là mấy thứ chán ngắt chẳng ai thèm làm. Vì là phòng ban mới thành lập nên những việc lặt vặt nhiều vô kể, ngày nào cũng phải làm thêm giờ. Lại thêm tôi là nhân viên mới, thành thử mỗi lần tăng ca, tôi hầu như luôn là người về muộn nhất.   Quãng thời gian đó vô cùng buồn chánm thậm chí còn mệt mỏi hơn cả hồi thi đại học. Tôi thường không ngăn nổi suy nghĩ: Lẽ nào cả đời mình sẽ thế này, ngày ngày chỉ biết hùng hục làm việc, cứ thế cho đến già rồi chết đi.   Còn nhớ hôm đó là thứ Tư, một ngày quá đỗi bình thường. Tôi vẫn là kẻ yếu thế ra về cuối cùng. Làm xong mọi việc đã hơn mười giờ, bên ngoài trời đã tối om từ lâu. Tôi đi thang máy từ Phòng Phát triển trên tầng 8 xuống sảnh. Thang máy xuống đến tầng 5 thì dừng lại, cửa mở ra, có người bước vào.   Choáng! Hóa ra trong công ty này vẫn còn có người tan làm muộn như tôi, kỳ lạ quá đi mất. Lòng tôi hơi lấy lại được cảm giác cân bằng, nhưng ngay lập tức, cảm giác này biến mất tiêu, thay vào đó là trạng thái kinh ngạc, ngây ngất!   Người vừa bước vào là một phụ nữ, tuổi xấp xỉ 30, không cao không thấp, không béo không gầy, mắt to miệng nhỏ, eo thon chân thẳng, tóc dài vấn cao, trang điểm theo kiểu thiếu phụ.   Vừa vào thang máy, thấy tôi nàng cũng hơi lộ vẻ kinh ngạc.   Chỉ một cái nhìn thôi, mà tôi có cảm giác như mình bị nhìn xuyên thấu! Thực ra ánh mắt nàng khá dịu dàng. Nhưng không hiểu vì sao, ánh mắt dịu dàng đó lại như một lưỡi kiếm sắc ngọt, thoắt cái đâm xuyên trái tim tôi. Tôi vừa có chút vui sướng, lại thấy hơi mơ màng, nhưng nhiều hơn cả vẫn là cảm giác bất lực không thể chống đỡ…   Nàng nhìn tôi một cái rồi chẳng buồn chú ý đến tôi nữa. ... Mời các bạn đón đọc Điệu Slow Trong Thang Máy của tác giả Chiu Kon-Loh.
Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu
Mọi chuyện ở một trại tâm thần đầy quy tắc dường như đảo lộn khi McMurphy xuất hiện. Bất trị như một chú ngựa hoang, hắn vào viện để trốn án lao động khổ sai và không hề có ý định cứu thế. Nhưng trong những ngày ở đó, cái phần tốt đẹp yêu tự do, thích tung hoành của hắn đã làm nên một cuộc cách mạng, tạo ra mối liên kết giữa những thân xác yếu ớt, những trí não bị tổn thương, nhắc họ nhớ về cá tính, về chính mình hoặc về những kẻ đã-từng-là-mình. Sự nổi loạn đó thách thức trật tự đạo đức giả mà Liên hợp áp đặt.. Cuộc chiến bất cân sức bắt đầu. Và rồi đúng như cuộc đời, kẻ yếu đã không thể thắng. McMurphy đã chết dữ dội như cách hắn sống, nhưng Liên hợp không giết được hắn, cũng không thể bắt hắn sống theo cách nó đặt ra...  Được tạo nên từ những trang văn vừa sảng khoái vừa bi thương, Bay trên tổ chim cúc cu đã chạm tới những câu hỏi phức tạp nhất về tự do và khuôn khổ, cá nhân và hệ thống, bình thường và bất thường, sự tỉnh táo và điên loạn... Một best seller, một kiệt tác văn chương có mặt trong danh sách những cuốn sách vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, làm chỗ dựa cho một trong ba bộ phim duy nhất trong lịch sử giải Oscar từng chiến thắng ở toàn bộ các đề cử quan trọng nhất, Bay trên tổ chim cúc cu có sức mạnh của một tác phẩm không thể bị lãng quên. *** Chúng ngay ngoài đó. Đen nhẻm trong bộ quần áo trắng, chúng dậy trước tôi để làm trò dâm đãng trong hành lang và lau sạch trước khi tôi bắt được. Khi tôi bước ra khỏi buồng ngủ thì chúng đang kỳ cọ, ba đứa cau có hận thù tất cả - cả buổi sáng, cả ngôi nhà và cả những người quanh chỗ chúng đang làm việc. Và khi chúng hận thù thì đừng dại mà giơ mặt ra. Đi đôi giày vải, tôi men theo tường lặng lẽ như chuột, song chúng có những thiết bị cảm ứn siêu nhạy phát hiện ngay ra sự sợ hãi của tôi và nhất loạt ngẩng đầu lên, ba đứa một lúc, cặp mắt lóe lên trên những gương mặt đen đúa hệt những bóng đèn lóe lên sau lưng chiếc máy thu thanh cũ kỹ. “Thủ lĩnh kia rồi. Thủ lĩnh xiêu phàm kia rồi, tụi bay. Thủ lĩnh Bàn chải thân mến. Lại đây coi, Thủ lĩnh Bàn chải…” Dúi cho tôi cây giẻ và chỉ cho chỗ chúng muốn tôi phải lau chùi hôm nay, và tôi làm theo. Một thằng cho luôn cán chổi vào gót chân tôi: lẹ lên. “Tụi bay thấy không, nó làm vù vù. Dài lêu nghêu và cây sào, có thể dùng răng đớp được cả quả táo trên đầu tao, thế mà ngoan đáo để, như là em bé ấy.” Chúng cười vang và sau đó chụm đầu vào nhau thầm thì sau lưng tôi. Những cỗ máy đen xỉn gầm gừ, gầm gừ về hận thù và chết chóc lẫn nhiều bí ẩn khác của bệnh viện. Có tôi ở gần chúng cũng chẳng thèm giữ ý nói nhỏ hơn về sự hận thù của chúng bởi chắc chắn rằng tôi vừa điếc, vừa câm. Tất cả đều nghĩ như thế. Chỉ cần chút ít ranh mãnh là lừa được chúng. Điều duy nhất mà một nửa dòng máu da đỏ giúp được tôi trong cuộc sống bẩn thỉu này là trở nên ranh mãnh, nó đã giúp tôi từ hồi ấy đến giờ. Tôi đang lau sàn nhà trước cửa phòng trực thì ai đó tra chìa khóa vào ổ từ bên ngoài và tôi nhận ra mụ Y tá Trưởng khi nghe ruột khóa ôm lấy chìa, rất nhanh, rất nhẹ và thân thuộc vì mụ đã quen các loại khóa lắm rồi. Mụ lách qua cửa cùng luồng không khí lạnh ùa vào hành lang rồi khóa cửa, và tôi nhìn thấy những ngón tay mụ lướt trên mặt thép nhẵn – móng tay cùng màu với môi. Thứ màu vàng ệch. Hệt như đầu mỏ hàn. Thứ màu cực nóng hay cực lạnh đến mức ta không biết là nóng hay lạnh ngay cả khi mụ chạm vào ta. Mụ xách cái giỏ đan bằng liễu gai hình dáng như hộp đồ nghề với cái quai bằng dây gai dầu, loại giỏ này bộ tộc Umpqua vẫn bán dọc đường quốc lộ tháng Tám nóng hầm hập. Bao nhiêu năm tôi ở đây thì bấy nhiêu năm mụ ta xách nó. Mắt đan thưa và tôi thấy hết mọi thứ bên trong; chẳng có phấn, sáp hay nước hoa, mụ bỏ đầy giỏ hàng nghìn thứ sẽ dùng đến trong ca trực hôm nay – các vòng bi và bánh răng, răng đánh bóng lộn, các viên thuốc trắng nhỏ xíu sáng lên như sứ, kim tiêm, kẹp y tế, kìm mũi nhỏ và các cuộn dây đồng… Đi ngang qua chỗ tôi, mụ thoáng gật đầu. Tôi tì lên cây giẻ và nép sát vào tường mỉm cười và để lẩn trốn càng kỹ càng hay khỏi các thiết bị của mụ, tôi nhắm mắt lại – bởi khi ta nhắm mắt, người ta khó nhận biết ta hơn. Trong bóng tối tự tạo, khi mụ đi ngang qua, tôi nghe rõ tiếng đế giày cao su gõ xuống sàn và những tiếng loảng xoảng trong túi mụ theo nhịp mỗi bước chân. Mụ bước thẳng đơ như gỗ. Mở mắt ra tôi thấy mụ đã ở tít giữa hành lang chuẩn bị rẽ vào phòng Y tá; mụ sẽ ngồi suốt cả ngày trong buồng trực bằng kính, tám tiếng đồng hồ chỉ nhìn qua cửa sổ và ghi lại những gì xảy ra trước mặt mình trong phòng chung. Bộ mặt mụ lặng lẽ, hài lòng khi nghĩ về điều này. Nhưng bỗng nhiên… mụ nhận ra đám hộ lý da đen. Chúng vẫn tụm vào nhau thầm thì mà không hề phát hiện ra sự xuất hiện của mụ. Khi chợt cảm thấy cái nhìn dữ tợn chiếu tới thì đã muộn. Lẽ ra chúng chẳng nên cả gan tụ tập và ba hoa thiên địa khi sắp đến giờ mụ tới đây. Chúng sợ hãi tản ra. Mụ khuỳnh khuỳnh bước tưói, chúng dồn về mắc kẹt phía cuối hành lang. Mụ thừa biết chúng vừa thậm thụt về cái gì, và tôi thấy mụ đã điên lên không kìm chế nổi. Mụ sẽ xé xác mấy thằng nhọ khốn kiếp, mụ điên thế cơ mà. Người mụ phình lên, phình mãi đến khi cái áo trắng tưởng như nứt tung ra đến nơi, và mụ vươn dài những khúc tay đến mức có thể quấn năm sáu vòng qua ba đứa chúng. Quay cái đầu đồ sộ, mụ liếc nhìn xung quanh. Chẳng còn ai ngoài thằng Bromden Bàn chải già, thằng con lai da đỏ, nấp sau cây giẻ lau nhà và cũng không kêu cứu được bởi bị câm. Mụ bèn phát tiết ra mà bẻ cong đôi môi, biến nụ cười bằng son thành cái nhe răng gớm ghiếc, thân thể vẫn tiếp tục nở ra lớn nữa, lớn nữa, lớn nữa bằng cả chiếc máy kéo, lớn đến mức tôi ngửi thấy cả mùi khét bốc lên từ người mụ, giống như thể mùi của động cơ chạy quá tải. Vừa nín thở tôi vừa nghĩ: Chúa ơi lần này thì chúng làm thật rồi! Lần này chúng để hận thù bốc quá cao và chúng sẽ phanh thây nhau ra trước khi hiểu mình đang làm gì! ... Mời các bạn đón đọc Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu của tác giả Ken Kesey.