Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Bao Giờ Buông Dao

Hỗn Mang #1 - Đừng Bao Giờ Buông Dao - Patrick Ness Chẳng có thị trấn nào giống như thị trấn Prentiss. Nơi không còn bóng dáng phụ nữ. Nơi mọi suy nghĩ trở thành Tiếng Ồn mà bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy.Dòng chảy Tiếng Ồn ầm ĩ không bao giờ dứt.Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật.Ngay cả trong giấc ngủ.Vậy mà khi sự im lặng không tưởng xuất hiện, vẫn có một bí mật tồi tệ đến mức khiến Todd, thằng nhóc chỉ còn một tháng nữa là trở thành đàn ông, thằng nhóc cuối cùng chưa trở thành đàn ông, phải bỏ chạy hòng giữ lấy mạng sống. Cùng con chó biết nói. Sự im lặng. Và con dao.Nhưng làm sao để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ trong đầu ta? *** Ý nghĩa tên sách Chaos Walking - Hỗn mang: tên toàn bộ series đến từ câu thoại the Noise is a man unfiltered, and without a filter, a man is just chaos walking. Tiếng Ồn là tổng hòa suy nghĩ, các bí mật thầm kín, ký ức phức tạp của đàn ông, vậy nên tác giả mới có sự so sánh rằng Tiếng Ồn là một người đàn ông không được sàng lọc, mà khi không được sàng lọc, đàn ông chỉ là một mớ hỗn độn biết đi. Bộ Sách Hỗn Mang gồm có: Đừng Bao Giờ Buông Dao Câu Hỏi Được Trả Lời Những Con Quỷ Người The Knife of Never Letting Go - Đừng bao giờ buông dao: đến từ câu thoại I'll never let go of the knife được lặp lại nhiều lần trong tập 1 của nhân vật chính, con dao cũng là một chi tiết then chốt, nắm vai trò đưa ra và thực hiện các lựa chọn (giết/không giết) nhằm định hình tính cách và nhân sinh quan của nhân vật chính trong tập này. Thậm chí có lần nhân vật còn tưởng tượng ra con dao đang nói never let go of me - đừng bao giờ buông tôi. Nhận xét “Hãy đọc nó một mình, hãy đọc nó thâu đêm.” - Chicago Tribune “Điên cuồng, kinh hãi, đầy phấn khích và làm tan vỡ con tim.” - Sunday Paragraph *** Patrick Ness - sinh năm 1971, là tác giả người Mỹ, hiện đang sống ở Los Angeles. Ngoài 12 cuốn sách đã xuất bản, anh còn là nhà báo và nhà biên kịch, đã tham gia chuyển thể tác phẩm Quái vật ghé thăm (A Monster Calls) của mình thành phim điện ảnh. Đừng bao giờ buông dao là tập đầu tiên trong bộ sách Hỗn mang (Chaos Walking), ra mắt từ năm 2008 đến 2010. Tập cuối trong bộ ba tác phẩm đã đem về cho anh Huân chương Carnegie năm 2011. Các tác phẩm khác của Patrick Ness được Nhã Nam xuất bản: - Quái vật ghé thăm (Huân chương Carnegie 2012) - Câu hỏi được trả lời (Hỗn mang #2) - Những con quỷ người (Hỗn mang #3 - Huân chương Carnegie năm 2011)   *** "ĐỪNG BAO GIỜ BUÔNG DAO" - PHẢI LÀM GÌ TRONG THẾ GIỚI KHÔNG-BAO-GIỜ IM LẶNG?  “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản... Sâu Sách - 2 tháng 6 2021      “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản tiếng Anh của cuốn sách - “The Knife Of Never Letting Go” được ra mắt độc giả từ tháng 5 năm 2008 và mới được Nhã Nam phát hành phiên bản Việt vào đầu năm 2021. Cuốn sách được viết theo thể loại "kỳ ảo, giả tưởng" nên sẽ khá phù hợp cho bạn nào thích cốt truyện phiêu lưu theo hành trình nhân vật.     “Đừng Bao Giờ Buông Dao" - ngay từ nhan đề, tác giả đã nhắc nhở người đọc về không khí căng thẳng, khẩn trương, cảnh giác cao độ của một hành trình đầy rẫy hiểm nguy. Quả vậy, gần 500 trang của cuốn sách, người đọc như hoà mình vào trong những bước chạy không ngừng của nhân vật tôi, Todd, một cậu nhóc "sắp trở thành đàn ông". Đồng hành cùng Todd là chú chó Manchee. Cứ như vậy, một người, một chó, một dao đã khám phá ra những bí mật cực kì đen tối trong thế giới mà họ đang tồn tại.     Điểm đặc biệt nhất của cuốn sách chính là thế giới mà tác giả đã xây dựng. Một thế giới gần như không có bóng dáng phụ nữ. Kỳ dị hơn, đó là thế giới mà mọi suy nghĩ đều trở thành Tiếng Ồn khiến bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy và nhìn thấy, kể cả trong giấc ngủ. Bạn có thể tưởng tượng được không khi mọi ý niệm của bản thân sẽ hiện lên ngay phía trên quầng đầu của mình, ai cũng thấy, ai cũng đoán biết được. Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật. Chúng ta phải lựa chọn xem ai đáng tin, ai dối trá. Chúng ta phải học cách giấu sự thật trong những suy nghĩ nguỵ tạo để tồn tại. Và giữa thế giới ấy, làm thế nào để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ và sẵn sàng đoạt mạng ta bất cứ lúc nào?     Được xây dựng theo trường phái "Dystopia", tạm dịch là “Phản Địa Đàng", có thể nói “Đừng Bao Giờ Buông Dao" đã tái hiện một cách chân thực nhất tất cả những hiện thực mà một thế giới “Phản Địa Đàng" có thể tồn tại: chính phủ bạo tàn, tư tưởng suy đồi, những giá trị về nhân tính bị đảo ngược... Chúng ta dễ dàng bắt gặp những hiện thực ấy trong những trang miêu tả của cuốn sách. Thị trấn khởi đầu của câu chuyện, Prentiss, lấy tên theo kẻ lãnh đạo, là một thị trấn bạo tàn đúng nghĩa. Prentiss sẵn sàng chà đạp lên tất cả để thực hiện lí tưởng vô nhân đạo của mình. Lí tưởng ấy được truyền lại cho cả thế hệ của “Prentiss-con". Và thậm chí khiến những kẻ truyền giáo như Aaron cũng sẵn sàng dùng nắm đấm để phán quyết những người yếu thế.      Thế nhưng, giữa ngục tù đen tối ấy của hiện thực, vẫn thực sự có những ánh sáng le lói của niềm tin, của tình yêu thương. Đó là sự chở che, sự hi sinh vô bờ bến của hai người chú của Todd: Ben và Cillian. Là lá thư để lại của mẹ Todd. Là những ân cần của sự “im lặng” đồng hành cùng Todd... Có thể nói, đó chính là những "kim chỉ nam" giúp Todd luôn đi đúng hướng, là "cán cân đạo đức" giúp Todd luôn chiến thắng tư tưởng bạo tàn trong thế giới của mình. Và đó cũng chính là "kim chỉ nam" mà tác giả Patrick Ness muốn nhắc nhở và cảnh tỉnh người đọc, rằng không có sự khủng hoảng nào thực sự đáng sợ bằng sự khủng hoảng của lương tri. Chúng ta phải thực sự sống bằng niềm tin để vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào.     Để đánh giá chung về cuốn sách này, mình nghĩ mình sẽ dùng từ “gọn gàng". Tất cả những phần trần thuật về bối cảnh rất ngắn gọn. Cốt truyện chuyển biến logic và rất hợp tâm lí nhân vật, không rơi vào kể lể. Những “phản ứng hoá học" trong tình cảm của các nhân vật cũng xây dựng vừa đủ để người đọc nhận ra những nét tình ý nhưng không đi quá sâu để tạo cảm giác sến súa, sa đà. Truyện có những plot-twist đủ để người đọc cảm thấy hiểu hơn về bối cảnh đã mở ra lúc đầu. Những lời giải đáp sẽ được trải dài từ từ ở những trang phía cuối truyện. Tuy nhiên, đây cũng không phải là cuốn sách có plot-twist đến độ bất ngờ và ám ảnh như nhiều cuốn sách khác. Thậm chí, nếu ai tinh ý, hoàn toàn có thể đoán ra khi truyện đi được nửa chặng đường. Có lẽ, vì đây cũng là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách gồm ba tập nên những tình tiết vừa đủ ấy sẽ là tiền đề hợp lí để mở ra thế giới của hai tập sau này.     Điểm đáng khen cũng là điểm hạn chế lớn nhất của cuốn sách đến từ ngôi trần thuật. Truyện được tái hiện dưới ngôi kể “tôi" của Todd, thế nên những tình tiết, những chuyển biến của câu chuyện hiện lên đầy chân thật và cảm xúc. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều cuốn truyện khác, vì ngôi kể là “tôi" nên có nhiều tình tiết, câu chuyện sẽ diễn ra hơi thiếu khách quan. Đồng thời, người đọc sẽ khá khó để theo dõi diễn biến tâm lí của nhiều nhân vật khác, những người mà mình tin sẽ có khá nhiều đất diễn để khắc hoạ sâu hơn hình tượng của mình nếu được xây dựng rõ hơn như Viola, chú Ben, thị trấn trưởng Prentiss… Bên cạnh đó, sự cố chấp và cứng đầu của Todd trong một vài tình huống sẽ khiến người đọc có đôi lần hơi tức giận. Điều này đặc biệt được thể hiện trong một chi tiết mà mình tin khi đọc xong, thậm chí đến lúc gấp cuốn sách lại, bạn sẽ thấy nhức nhối và buồn lòng về Todd mãi.     Nhưng tựu chung lại, “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là một cuốn sách rất đáng đọc để giải toả căng thẳng. Mình biết đến cuốn sách này vì rạp chiếu phim thời điểm đó ra mắt bộ phim chuyển thể từ cuốn sách mang tên “Hành Tinh Hỗn Loạn". Tình cờ, Nhã Nam cũng phát hành đồng thời cuốn sách nên mình đã ra mua ngay. Và chỉ mất đúng ba ngày để mình hoàn thành xong cuốn sách này. Được biết, Nhã Nam đã mua bản quyền hai phần tiếp theo của cuốn sách mang tên: “Câu Hỏi Được Trả Lời" và “Những Con Quỷ Người", sẽ ra mắt trong năm nay nên chúng mình sẽ không sợ mạch truyện bị ngắt quãng đâu.      Ngay bây giờ, chúng mình hãy ra ngay hiệu sách gần nhất, tìm mua “Đừng Bao Giờ Buông Dao" và sẵn sàng cùng chuyến hành trình với cậu bé Todd nhé. Đảm bảo sẽ không phí hoài thời gian của các bạn đâu. *** LỖ HỔNG TRONG TIẾNG ỒN ĐIỀU ĐẦU TIÊN BẠN NHẬN RA khi chó của bạn biết nói là chó không có gì nhiều để nói. Về bất cứ điều gì. “Mót ị, Todd.” “Im đi, Manchee.” “Ị. Ị, Todd.” “Tao bảo im đi mà.” Chúng tôi đang đi qua những cánh đồng hoang ở phía Đông Nam thị trấn, những cánh đồng dốc chạy xuôi xuống sông và về phía đầm lầy. Ben sai tôi đi hái cho chú vài quả táo ở đầm lầy và bắt tôi phải dẫn Manchee theo, dù tất cả đều biết tỏng Cillian chỉ mua con chó này để lấy lòng thị trưởng Prentiss, nên bỗng nhiên nó trở thành món quà sinh nhật của tôi năm ngoái, dù tôi chưa bao giờ nói mình muốn có một con chó, trong khi tôi có nói tôi muốn Cillian sửa xe đạp cho để tôi không phải cuốc bộ tới mọi chốn đổ nát của cái thị trấn ngu ngốc này, nhưng ồ, không, chúc mừng sinh nhật, Todd, đây là con chó vừa dứt sữa, Todd, và dù mày không muốn nó, dù mày không đòi nó, thì cũng cứ đoán xem ai sẽ cho nó ăn, dạy dỗ nó, tắm cho nó, đưa nó đi dạo, và nghe nó lải nhải khi giờ đây nó đã đủ lớn để liến thoắng không ngừng? Đoán xem ai? “Ị,” Manchee lặng lẽ sủa với chính mình. “Ị, ị, ị.” “Thì cứ ị đi và thôi lải nhải ngay cho tao nhờ.” Tôi ngắt một nhánh cỏ ven đường và quất Manchee. Tôi không đánh trúng nó, tôi không định đánh trúng nó, nhưng nó chỉ phá lên cười ăng ẳng và chạy tiếp trên con đường mòn. Tôi đi theo, quạt nhánh cỏ của mình lên đám cỏ hai bên đường, nheo mắt vì nắng, cố để đầu óc trống rỗng. Thú thực, chúng tôi không cần táo ở đầm lầy. Ben có thể mua táo ở cửa hàng của ông Phelps nếu chú ấy thực sự muốn ăn. Cũng thú thực: đến đầm lầy hái vài quả táo không phải là việc của một người đàn ông, vì đàn ông không được phép an nhàn đến vậy. Tôi sẽ chính thức trở thành đàn ông sau ba mươi ngày nữa. Tôi đã sống mười hai năm, mỗi năm mười ba tháng, và thêm mười hai tháng nữa, cộng lại thì vẫn còn một tháng mới đến ngày sinh nhật trọng đại. Kế hoạch đang được lên, công cuộc chuẩn bị đang được tiến hành, tôi đoán sẽ có một bữa tiệc, dù tôi bắt đầu thấy được vài hình ảnh kỳ quái về nó, vừa u ám vừa quá đỗi xán lạn, nhưng dẫu sao tôi cũng sẽ trở thành đàn ông, và đi hái táo ở đầm lầy không phải là việc của đàn ông, hay của một thằng sắp-trở-thành-đàn-ông. Nhưng Ben biết chú ấy có thể sai tôi đi, và rằng tôi sẽ đồng ý, vì đầm lầy là nơi duy nhất gần thị trấn Prentiss ta có thể tạm thoát khỏi tất cả những Tiếng Ồn mà con người xả ra, tất cả những xôn xao và ầm ĩ không bao giờ dứt, ngay cả khi họ ngủ, con người và những suy nghĩ họ thậm chí không biết mình đang nghĩ, dù ai cũng có thể nghe thấy chúng. Con người và Tiếng Ồn của họ. Tôi không biết họ làm thế nào để chịu đựng được nhau. Con người là những sinh vật Ồn Ào. “Sóc!” Manchee sủa rồi chạy bắn đi, nhảy khỏi đường mòn, dù tôi đã hét lên gọi nó lại, rồi đến lượt tôi phải chạy theo, băng qua cánh đồng (tôi nhìn quanh để đảm bảo không có ai ở gần) chết tiệt, vì Cillian sẽ nổi khùng nếu Manchee ngã xuống một lỗ rắn chết tiệt nào đó và dĩ nhiên đây sẽ là lỗi chết tiệt của tôi dù ngay từ đầu tôi đã không muốn có con chó chết tiệt này. “Manchee! Quay lại ngay!” “Sóc!” Tôi phải lội qua đám cỏ, những con sâu bám vào giày tôi. Một con bẹp gí khi tôi đá nó ra, để lại vệt màu xanh dọc đôi giày thể thao, mà theo kinh nghiệm của tôi thì sẽ không thể giặt sạch. “Manchee!” tôi điên tiết gầm lên. “Sóc! Sóc! Sóc!” Nó sủa quanh một gốc cây và con sóc nhảy lóc chóc trên thân cây, chế giễu Manchee. Đến đây, chó ngu, Tiếng Ồn của nó vang lên. Đến đây, đến đây, đến đây mà bắt Ngu Ngu Ngu. “Sóc kìa, Todd! Sóc!” Chết tiệt; động vật thật ngu ngốc. Tôi chộp lấy vòng đeo cổ và tét mạnh vào chân sau của Manchee. “Ối, Todd? Ối?” Tôi lại đánh nó. Rồi lại đánh nó. “Ối? Todd?” “Đi nào,” tôi nạt, Tiếng Ồn của tôi rền vang đến nỗi tôi chẳng thể luận ra được mình đang nghĩ gì, một việc khiến tôi sắp phải hối hận, bạn cứ chờ xem sẽ biết. Thằng nhóc ngu, thằng nhóc ngu, con sóc nghĩ về tôi. Đến đây mà bắt, thằng nhóc ngu. “Mày cũng biến mịa đi,” tôi trả đũa, chỉ có điều tôi không nói “mịa” mà nói thẳng cái chữ tục tĩu hơn nhiều kia ra. Đáng lẽ tôi nên nhìn quanh trước khi nói. Vì Aaron đây rồi, ngay tại đây, bất thình lình nhào ra khỏi bãi cỏ, nhào ra và tát vào mặt tôi, chiếc nhẫn lớn của anh ta làm rách môi tôi, rồi anh ta vung tay thêm phát nữa, tay nắm lại thành đấm, trúng gò má tôi, nhưng ít nhất cũng không trúng mũi vì tôi đang ngã xuống cỏ, cố tránh cú đấm của anh ta, và vì thế phải buông dây buộc cổ Manchee ra, nó lại chạy đi tìm con sóc, sủa ầm ĩ, đồ phản bội, tôi ngã bò lăn bò càng xuống cỏ, trét vệt sâu xanh lên khắp người. Và tôi nằm đó, trên mặt đất, thở hổn hển. Aaron đứng trước mặt tôi, từng mảnh rời rạc của Tiếng Ồn và những lời giảng đạo từ anh ta lao tới, Cẩn thận lời ăn tiếng nói đó, nhóc Todd và phải biết hy sinh và vị thánh tự chọn con đường của mình và Chúa nghe thấy đấy và hàng loạt những hình ảnh có trong Tiếng Ồn của tất cả mọi người, những điều quen thuộc và những ký ức thoáng qua của… Cái gì? Cái quỷ quái gì…? Nhưng những đoạn ồn ào hơn trong bài giảng đạo của Aaron đã lao tới và che cái quỷ đó lại, tôi ngẩng lên nhìn vào mắt anh ta, rồi đột nhiên tôi không còn muốn biết nữa. Tôi đã nếm thấy vị máu từ vết nứt trên môi do chiếc nhẫn của Aaron gây ra và tôi không còn muốn biết nữa. Anh ta không bao giờ đến đây, đàn ông không bao giờ đến đây, họ có lý do của họ, đàn ông có lý do của đàn ông, nên ở đây lúc nào cũng chỉ có tôi và con chó của mình, nhưng giờ anh ta lại ở đây và tôi không, không, không muốn biết lý do. Anh ta mỉm cười nhìn xuống tôi, nụ cười ẩn sau bộ râu quai nón, mỉm cười khi tôi vẫn nằm trên cỏ. Nắm đấm mỉm cười. “Nhóc Todd, lời ăn tiếng nói,” anh ta lên tiếng, “trói buộc chúng ta như những tù nhân bị trói bởi cùng một sợi xích. Cậu không học được gì từ nhà thờ sao?” Rồi anh ta thốt lên những lời thuyết giảng quen thuộc nhất của mình. “Một người sa ngã, tất cả cùng sa ngã.” Vâng, Aaron, tôi nghĩ. “Dùng mồm mà nói, Todd.” “Vâng, Aaron,” tôi đáp. “Và những lời chửi thề ấy? Đừng nghĩ ta không nghe thấy chúng. Tiếng Ồn tiết lộ con người cậu. Tiết lộ con người tất cả chúng ta.” Không phải tất cả, tôi nghĩ, nhưng đồng thời vẫn nói, “Xin lỗi, Aaron.” Anh ta cúi xuống tôi, môi kề sát mặt, và tôi có thể ngửi thấy hơi thở đang phả ra từ miệng anh ta, ngửi thấy sức nặng của nó, như những ngón tay đang chộp lấy tôi. “Chúa nghe thấy,” anh ta thì thầm. “Chúa nghe thấy đấy.” Aaron lại giơ một bàn tay lên và tôi co rúm người, anh ta cười rồi biến mất, quay về thị trấn, mang theo Tiếng Ồn của mình. Tôi run rẩy, vì cảm giác rần rật do bị đánh, vì tức giận và ngạc nhiên, quá tức giận, quá chán ghét thị trấn này và những người đàn ông ở đây đến nỗi mất một lúc tôi mới có thể đứng dậy đi tìm con Manchee. Mà anh ta đang làm cái mịa gì ở đây? tôi điên tiết nghĩ, vẫn bừng bừng giận dữ và thù hằn (và sợ, phải, sợ, im đi) đến nỗi không thèm nhìn quanh để xem Aaron có nghe thấy Tiếng Ồn của tôi hay không. Tôi không nhìn. Tôi không nhìn. Rồi tôi cũng nhìn và thấy con Manchee. “Aaron, Todd? Aaron?” “Đừng có nhắc đến cái tên đó nữa, Manchee.” “Chảy máu, Todd. Todd? Todd? Todd? Chảy máu?” “Biết rồi. Im mồm đi.” “Ngu,” nó nói, như thể từ ấy chẳng có ý nghĩa gì, đầu nó cũng rỗng tuếch như bầu trời. Tôi tét mông nó. “Cũng không được nhắc đến từ đó.” “Ối? Todd?” Chúng tôi tiếp tục đi, giữ khoảng cách với con sông bên trái. Sông chảy qua một loạt những khe sâu phía Đông thị trấn, bắt nguồn từ tít phía Bắc nông trại nhà chúng tôi, xuôi về bên hông thị trấn cho đến khi trải rộng ra thành một đầm cỏ rồi cuối cùng trở thành đầm lầy. Bạn phải giữ khoảng cách với con sông, đặc biệt là vùng đầm cỏ trước những rặng cây ở đầm lầy, vì đó là nơi cá sấu trú ngụ, chúng đủ lớn để xơi tái một thằng sắp-trở-thành- đàn-ông và con chó của nó. Những cái vảy trên lưng chúng trông như những cụm lau, và nếu đến quá gần thì, BÙM! - chúng sẽ vọt khỏi mặt nước, phóng thẳng vào bạn với những vuốt sắc nhăm nhe và cái mõm cắn đớp, và khi đó bạn sẽ chẳng có cơ hội sống sót nào đâu. Chúng tôi đi qua vùng đầm cỏ và tôi đón nhận sự yên tĩnh của đầm lầy khi nó hiện ra. Chẳng còn gì để xem ở đây nữa, bởi vậy đàn ông không đến đây. Còn cả cái mùi nữa, tôi không vờ như không ngửi thấy, nhưng mùi không quá tệ như người ta nói. Họ ngửi mùi ký ức, thực vậy, họ không ngửi cái mùi có thực ở đây lúc này, họ ngửi mùi quá khứ. Tất cả những thứ đã chết. Xú và người có quan niệm khác nhau về mai táng. Xú chỉ cần đầm lầy, chỉ việc ném Xú chết xuống nước, để xác chìm, chẳng sao cả vì Xú phù hợp với kiểu mai táng đầm lầy, chắc vậy. Ben kể tôi thế. Nước, bùn dơ và da của Xú Vật hợp nhau, không làm ô uế, chỉ khiến đầm lầy màu mỡ hơn, như con người về với đất. Mời các bạn đón đọc Đừng Bao Giờ Buông Dao của tác giả Patrick Ness & Trần Nguyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trên Bãi Biển Chesil - Ian McEwan
Cuốn tiểu thuyết mỏng, và tuyệt đẹp, nơi Ian Mc Ewan tái hiện bối cảnh nước Anh vào thời khắc ngay trước khi cuộc cách mạng tình dục bùng nổ, với tất cả sự ngột ngạt, bi hài của nó qua câu chuyện tình giữa Edward và Florence. Cuối cùng thì điều họ lo sợ đã xảy ra! Trên bãi biển Chesil, có hai kẻ đang giận giữ, đau đớn, và ghê tởm lẫn nhau sau đêm đầu tiên đổ vỡ. Trên bãi biển Chesil, nơi họ từng mơ tới cảm giác tự do thực sự của những người trưởng thành, cũng là nơi kết thúc cuộc hôn nhân ngắn ngủi. Nước Anh những năm sáu mươi, một thế hệ lớn lên sau Thế chiến thứ hai, đã mệt mỏi vì sự khắc khổ và dè sẻn của những năm hậu chiến, ngột ngạt với những giá trị thời Victoria, và sẵn sàng chống lại những mẫu hình và tập tục của thế hệ đi trước. Lady Chatterley’s Lovers của D.H.Lawrence giành được quyền xuất bản sau vụ kiện tụng ầm ỹ, và ngay lập tức trở thành best-seller với hai triệu bản bán ra sau 40năm cấm đoán. Trong đoạn đầu bài “Annus Mirbalilis”, Philip Larkin viết về những năm tháng này: "Chuyện ái ân đã bắt đầu / Vào năm một chín sáu ba/ (có phần hơi muộn với ta) / Giữa sự chấm dứt của lệnh cấm “Chatterley” / Và vòng quay đĩa đầu tiên của nhóm Beatles”. Cuộc cách mạng tình dục sắp bùng nổ. Nhưng chuyện của Edward và Florence lại diễn ra ngay trước thời điểm tự do ấy, năm 1962, khi báo chí còn “kín đáo gợi ý cho các cô dâu việc cần làm bằng giọng văn vui vẻ, la liệt dấu chấm câu cảm thán và hình minh họa đánh số”, và các chàng trai thì háo hức một cách tuyệt vọng về chuyện tình dục, như Ian Mac Ewan diễn tả trong cuốn sách của mình: “Thần dược tránh thai là một tin đồn trên báo chí, một lời hứa hẹn ngớ ngẩn, một câu chuyện lá cải nữa về nước Mỹ… Nhạc pop thì ngoan hiền, vẫn còn rụt rè về đề tài đó, phim ảnh cởi mở hơn một chút, nhưng trong vòng tiếp xúc của Edward, đàn ông buộc phải hài lòng với những chuyện cười tục tĩu, những câu huênh hoang về tình dục một cách gượng gạo và tình bằng hữu sóng gió trong những bữa rượu điên cuồng, khiến cơ hội gặp gỡ con gái càng giảm đi thêm nữa. Những thay đổi trong xã hội không bao giờ diễn ra với nhịp điệu trơn tru. Có tin đồn rằng ở khoa Anh văn, và dọc đường chỗ trường Đông phương học - Phi châu học, dọc đường Kingsway chỗ trường Kinh tế London, đàn ông và đàn bà mặc quần bò bó đen và áo len cổ lọ quan hệ tình dục dễ dãi và thường xuyên, không cần phải gặp cha mẹ. Thậm chí còn nghe kể về những điếu cần sa vấn chặt nữa. Thỉnh thoảng Edward làm cuộc thử nghiệm, đi dạo từ khoa Lịch sử tới khoa Anh văn, hy vọng tìm thấy bằng chứng về một chốn thiên đường trên trái đất, nhưng những hành lang, những bảng thông báo, và thậm chí cả những cô gái nữa, trông cũng chẳng khác gì”. Trên cái nền bối cảnh xã hội ngột ngạt và bi hài, khi mà “trò chuyện về những trở ngại trong tình dục là điều không thể”, Trên bãi biển Chesil được mở ra như thế này “Họ còn trẻ, có học thức, và cả hai đều còn trinh trong cái đêm đầu tiên, đêm tân hôn của họ”. Câu chuyện, sau đó được dệt nên từ những diễn biến tâm lý đa chiều (và căng thẳng!) của hai kẻ còn trinh ấy. Trong thời khắc được xã hội nhìn nhận là quyết định của cuộc đời một con người, khi cả hai chính thức trưởng thành và được phép khám phá cơ thể nhau một cách hợp pháp và phải đạo, thì mỗi người lại bị giam cầm trong những bối rối của riêng mình, với Edward là nỗi lo “sẽ gặp điều mà anh đã nghe ai đó miêu tả là “tới quá sớm”, còn Florence nghiêm trọng hơn nhiều, khi cô “phải trải qua một cơn sợ hãi mang tính bản năng, một sự kinh tởm vô vọng có thể cảm thấy rõ rệt như say sóng”. Ian Mc Ewan, thấu hiểu và kỹ lưỡng đến đáng ngạc nhiên, với khả năng đi sâu vào từng ngõ ngách tâm lý của nhân vật, và diễn tả tỉ mỉ từng biến động nhỏ nhất trong cơn kinh hãi của hai kẻ chưa-biết-gì, đã lần đầu tiên đưa người đọc bước vào căn phòng đêm tân hôn với hình ảnh chiếc giường hẹp trải ga trắng có bốn chiếc cọc màn được lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh. Tâm trạng căng thẳng của cả hai nhân vật đều được cụ thể hóa thành những rung động thể chất gây ấn tượng mạnh với độc giả “Edward mỉm cười trong lúc ngả người ra sau, tay vẫn cầm ly rượu vang và gọi với ra sau lưng… nhưng cánh tay cầm ly rượu run run trong lúc anh đang gắng sức kiềm chế niềm hạnh phúc bất ngờ, sự phấn khích của anh” hay “Anh cảm thấy một áp lực kinh khủng thu hẹp những ý nghĩ của mình, ngăn cản lời của mình, và anh đang chịu đựng phiền toái lớn về thể chất - quần ngoài hay quần lót của anh có vẻ đã co lại”, riêng với Florence cảm giác về đêm đầu tiên được đồng nhất với những cơn buồn nôn thể nặng “bất cứ khi nào ý nghĩ hướng về một cái “ghì sát” - cô không thích bất cứ thuật ngữ nào khác - dạ dày cô thắt lại đau đớn và cô thấy tanh tanh nơi cuống họng”. Khốn khổ! Có điều gì đang xảy ra với hai con người này? Ian Mc Ewan đã tìm lời giải trong quá khứ, nơi người đọc gặp lại cậu bé Edward, con cả trong một gia đình nghèo có người mẹ điên sau một tai nạn và người cha một mình chèo chống mọi việc. Còn Florence lớn lên bên bà mẹ trí thức lạnh lùng xương xẩu và ông bố giàu có và dâm đãng. Trong khi Eward tôn thờ Rock & Roll thì Florence khinh rẻ bà mẹ không biết đến một nốt nhạc, cô theo học trường Cao đẳng âm nhạc Hoàng Gia để trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm trong tương lai không xa. Cô tôn thờ những thính phòng lạnh lẽo, những thính giả am tường, nhưng già nua như những hóa thạch với đốt tay sưng vù vì viêm khớp. Edward biết về tình dục như những thìa chất lỏng tự tạo trong chốc lát để thanh thản trở lại với bài vở và công việc nghiên cứu của mình. Florence biết về tình dục qua những cuốn cẩm nang úp úp mở mở, những ký ức mù mờ về nhiều chuyến đi xa với bố năm mười hai tuổi, và cô ghê tởm nó. Hai con người khác biệt tình cờ gặp nhau trong cuộc họp của những người phản đối vũ khí hạt nhân (!), và ảo tưởng lập tức xuất hiện trong ý nghĩ của Edward “Cô mặc một chiếc váy vải bông trắng xòe ra như váy dạ hội, thắt lưng da nhỏ màu xanh da trời khít quanh eo. Trong dây lát, anh nghĩ cô là y tá; một cách trừu tượng và tiện lợi, anh thấy các cô y tá khá gợi tình, bởi họ - anh thích tưởng tượng như vậy - đã biết hết mọi điều về cơ thể anh và những nhu cầu của nó”, và sau này “Anh đã có một lịch sử khá dài đụng độ với tính thẹn thùng của Florence… nhầm lẫn mà coi đó là một kiểu e thẹn, một tấm mạng theo thói thường che đậy khả năng tình dục giàu có”. Florence, trái lại, thích ở bên người đàn ông này như một người bạn, người cha, một tình yêu không gợn chút nhục dục. Ian Mc Ewan dành hơn một nửa cuốn tiểu thuyết mỏng của mình để tái hiện lại trước mắt người đọc bối cảnh thời đại, câu chuyện gia đình riêng rẽ và nỗi ám ảnh quá khứ của mỗi người, trước khi trở lại câu chuyện đêm tân hôn. Và qua sự hồi tưởng ấy, người đọc phần nào hiểu được khác biệt về nguồn gốc xuất thân, những ràng buộc của xã hội và thời đại, bí mật thời thơ ấu, và đặc biệt là sự mải mê chạy theo mẫu hình mình ao ước của mỗi người hơn là cố công tìm hiểu bản chất thực của người kia đã dẫn họ đến đêm nghẹt thở này. Thêm một điểm nhấn cuối cùng, khi Edward không còn đủ sự kiên nhẫn của một chú rể năm 1962, họ vĩnh viễn xa nhau trên bãi biển Chesil, như những viên sỏi cuội tròn trịa nhưng đơn độc, và không bao giờ được kết nối, trên dải đời dằng dặc này. Một tiểu thuyết mỏng, được viết tốt, đặc biệt ở những đoạn diễn tả tâm lý nhân vật, dù cuốn sách không thật sự hoàn hảo khi sự phân bố độ dài ngắn giữa các chương khiến người đọc khó tập trung nắm bắt được cái mạch chính của tác phẩm, đồng thời tính logic giữa các chi tiết không đủ chặt chẽ để dẫn đến cái kết về một tình yêu tuy đổ vỡ, nhưng sâu nặng và chân thành. Có lẽ, sự hoàn hảo của Trên bãi biển Chesil nằm ở khía cạnh khác, đó là những đoạn tả cảnh như thế này “Một cơn gió đổi chiều hoặc mạnh lên đem lại tiếng sóng vỗ, giống như âm thanh thủy tinh vỡ xa xa. Màn sương đang dâng lên làm lộ ra một phần đường viền những ngọn đồi thấp, lượn phía trên bờ biển càng ngày càng xa về phía Đông. Họ nhìn thấy khoảng mượt mà màu xanh dạ quang - có thể là mặt nước ánh như lụa của chính biển, hoặc của khu phá, hoặc bầu trời - thật khó phân biệt. Ngọn gió nhẹ đổi chiều mang qua cánh cửa chớp khép hờ một sự cám dỗ, mùi hương mằn mặn của oxy và khoảng không rộng mở…”. Không rõ, từ khi Trên bãi biển Chesil ra đời, đã có thêm bao nhiêu người đặt chân lên bãi biển sỏi cuội ấy, vì cuốn sách? *** Trên bãi biển Chesil chỉ miêu tả vài giờ khắc ngắn ngủi trong đêm tân hôn của hai người mới ngoài 20 tuổi, nhưng lại dồn nén trong đó nhiều suy tư và những trải nghiệm trong cuộc đời lạ lùng này. Ở đó, vào năm 1962 có một “cơn bão” đã đổ bộ vào đêm tân hôn của Edward và Florence – những con người còn rất trẻ và có học thức. Ðó là cơn bão được tích tụ từ “tính cách và quá khứ của hai người, sự thiếu hiểu biết và nỗi sợ hãi, tính nhút nhát, mẫn cảm, thiếu các quyền hoặc trải nghiệm…”. Có một câu mà những người trẻ tuổi rất hay gặp trước, trong và thậm chí là sau khi quyết định sẽ gắn bó đời mình với một người nào đó, rằng liệu mình đã sẵn sàng chưa? Những người lớn thường tự nhủ sẽ bằng một cách nào đó giúp con cái không vấp lại những lỗi lầm mình đã từng vấp, khóc lại những giọt nước mắt mà mình đã từng khóc. Nhưng điều tự nhủ đó cũng giống như những quyển sách được xếp vào ngăn “Làm thế nào”, tỉ như Làm thế nào để trở thành một người chồng hoàn hảo? hoặc Bảy bước đi tới một gia đình hạnh phúc – tức là một kiểu chìa khóa không thể mở được hết tất cả các cánh cửa của ti tỉ ngôi nhà trên mặt đất này. Bởi rất đơn giản là có những điều không trường lớp nào, không thầy cô nào, không sách vở nào, không cha mẹ nào, không bạn bè nào, hoặc thậm chí là không kinh nghiệm đau thương trước đó nào có thể dạy dỗ ta được. Trong một số chủ đề nhất định, mỗi người trẻ – mỗi viên sỏi trong bãi biển rộng lớn của cuộc đời này – sẽ phải đơn độc trong hành trình tìm kiếm và tìm thấy những bài học nào đó bằng việc tự mình trải nghiệm nó. Và trong hành trình đơn độc đó có một thái độ mà người trẻ rất cần phải chuẩn bị cho mình, chính là sự cởi mở. Cởi mở trước hết là với chính bản thân mình, sau đó đến những người mình thương yêu, và sau nữa là với phần còn lại của thế giới này. Như Haruki Murakami từng đề cập trong Rừng Na Uy – cũng là một câu chuyện về những người trẻ tuổi khác: “Chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta cởi mở cõi lòng mình? Người ta sẽ tốt lành hơn”. Tất nhiên đó không chỉ là điều mà ta có thể cảm nhận được từ cuốn tiểu thuyết mới nhất của Ian McEwan – cuốn sách được vào danh sách đề cử Giải Booker 2007.   Mời các bạn đón đọc Trên Bãi Biển Chesil của tác giả Ian McEwan.
Tuyển Tập Truyện Trào Phúng Hay Nhất Của Võ Tòng Đánh Mèo - Đinh Long
Tập truyện gồm những mẩu truyện hài hước của tác giả Võ Tòng Đánh Mèo với chủ đề về tình yêu trai gái (Mèo mả gà đồng, Cô lái đò bến Hạ), chuyện vợ chồng - gia đình (Nội hay ngoại, Phụ nữ không hề khó hiểu, Thề, Đưa vợ đi đẻ, Làm dâu phố cổ, Bí quyết giữ chồng, Vợ tôi, Tết của gái có chồng,...), chuyện sinh viên và việc làm (Tấm bằng đại học, Tâm sự chiếc laptop, Tâm sự thanh niên đa cấp, Thằng Phóng), chuyện công việc (Sếp Nhật, Đại tang). Muôn mặt đời sống, từ chuyện trong nhà đến chuyện hàng xóm, đến chuyện công việc, thế sự hiện lên qua tiếng cười trào phúng của tác giả. Đằng sau những tiếng cười đó còn là sự chua xót trước những thói tật của con người, những mặt trái của đời sống hiện đại; cười đó mà đau đó, cười đó mà mong rằng xã hội sẽ bớt những câu chuyện "cười ra nước mắt" như thế. Tôi bắt đầu viết văn từ khi lấy vợ. Tôi cũng không hiểu sao “lấy vợ” lại là cái mốc bắt đầu cho nghiệp văn chương của mình… cho đến hôm tôi tình cờ đọc được câu nói của một tiến sĩ văn học rất nổi tiếng nhưng ít người biết đến, rằng: “Văn chương thực chất là những bức xúc, những kìm nén không thể, hoặc không dám nói ra bằng mồm.” Vậy ra trước khi lấy vợ, tôi không thể viết văn là bởi tôi không bị bức xúc hay kìm nén gì cả, mà giả sử có bức xúc hay kìm nén thì - cái lúc chưa vợ ấy - tôi cũng chả sợ gì mà không dám chửi thẳng vào mặt cái đứa làm tôi bực bội… chứ đâu như bây giờ - tức là sau khi lấy vợ - phải ngồi cặm cụi gõ từng chữ thế này! Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Truyện Trào Phúng Hay Nhất Của Võ Tòng Đánh Mèo của tác giả Đinh Long.
Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nhà văn Yulian Semyonov, ra đời năm 1969. Tác phẩm được xây dựng trên cơ sở tài liệu về kế hoạch vô hiệu hóa cuộc đàm phán riêng rẽ của ban lãnh đạo Đức Quốc xã với tình báo Mỹ vào mùa xuân năm 1945. Nhân vật chính của tiểu thuyết - một sĩ quan tình báo Liên Xô có tên Mikhail Isayev (mật danh Stierlitz). Bối cảnh truyện diễn ra vào tháng Hai, tháng Ba năm 1945, ngay trước thời điểm phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Câu chuyện trong Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân diễn ra vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lúc này, quân đội Nga đang chiến đấu trên đất Ba Lan, Rumani, Hungari...Thành phố Berlin, với bảy tuyến phòng ngự che chở, đêm đêm bị máy bay oanh tạc dữ dội. Cũng trong những ngày tháng này, nhân viên tình báo Liên Xô Isayev đang hoạt động ở nước Đức phát xít với cái tên Stierlitz, đại tá SS phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc đế chế thứ ba đang trong một tình thế hết sức nguy hiểm. Bằng cách nào Stierlitz có thể bảo toàn được vị trí hoạt động của mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cứu đồng đội thoát khỏi cái chết... *** Yulian Semyonov (1931-1993) Là một trong các nhà văn Xô viết nổi tiếng, chuyên viết về thể loại trinh thám. Sau khi tốt nghiệp khoa Đông phương học ở Trường đại học tổng hợp Moskva, ông làm phóng viên lưu động cho nhiều tạp chí thanh niên, về sau làm đặc phái viên báo “Sự thật”. Ông đã đi hầu khắp các nước trên thế giới, đã đặt chân đến Bắc và Nam cực, đã viết bài từ Việt Nam và Cuba, Mỹ và Nhật. Lúc nào cũng thấy ông sửa soạn lên đường, vội vã, đi công tác đây đó, vậy mà khả năng viết văn của ông vẫn sung sức lạ thường. Yulian Semyonov là tác giả tám tiểu thuyết dài. Ông đã viết kịch bản cho năm bộ phim và hàng loạt phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng cả ở Liên Xô lẫn nước ngoài. Đặc biệt, độc giả rất thích tiêu thuyết “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân” của ông. Đây là tác phẩm tư liệu về một nhân viên tình báo Liên Xô hoạt động ở nước Đức phát xít: Maxim Maximovich Isaуev; đó cũng chính là đại tá SS von Stierlitz, phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc Đế chế thứ ba... Trả lời vô số câu hỏi của bạn đọc, Yulian Semyonov viết: “Có thể nào cho rằng Isaуev là một nhân vật tưởng tượng? Nhất quyết không. Hình tượng nhân vật này được đúc rút từ những con người chính trực hiện nay mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì họ đang trải qua một cuộc sống tuyệt vời, trung thực và dũng cảm”. *** Lúc đầu, Stierlitz không tin vào tai mình nữa, có tiếng họa mi hót lảnh lót trong vườn. Không khí lạnh giá, nhuốm màu xanh xanh, và mặc dù vạn vật xung quanh đã mang sắc thái mùa xuân rụt rè giống như một bức tranh màu vẽ bằng thuốc nước tinh tế, tuyết vẫn còn kết lại chặt cứng và người ta chưa thấy nó nhuốm màu thiên thanh phơn phớt, là cái màu báo hiệu đến đêm sẽ tan. Những thân cây cổ thụ khổng lồ đen sẫm lại. Trong vườn thoang thoảng mùi cá vừa ướp lạnh. Chưa thấy cái mùi hăng hăng của lá cây thông và cây dương năm ngoái thối rữa; đó là mùi vị của mùa xuân. Thế mà lại có tiếng họa mi véo von, lảnh lót tràn ngập khu vườn tối om và yên tĩnh này. Stierlitz nhớ đến ông nội của anh. Ông cụ có cặp lông mày dày, có bộ râu quai nón. Ông cụ biết nói chuyện với các loài chim. Ông cụ gọi đàn chim sẻ bay đến, rồi ngồi dưới gốc cây mà ngắm chúng hồi lâu. Đôi mắt của ông cụ đưa đi đưa lại nhanh như mắt chim, và bầy sẻ hoàn toàn không sợ hãi ông cụ. – Pinh – pinh – ta – ra – ra! – ông cụ huýt sáo gọi. Bầy chim sẻ đáp lại một cách vui vẻ và tin cậy. Mặt trời đã lặn hẳn và những thân cây cổ thụ màu đen in những cái bóng đều đặn, tím sẫm trên mặt tuyết trắng. “Mày chết cóng mất thôi, họa mi đáng thương ơi, – Stierlitz nghĩ bụng. Anh khép vạt áo choàng lại và quay vào nhà. – Cũng chẳng giúp gì nó được, vì họa mi là loại chim duy nhất không tin con người.” Stierlitz xem đồng hồ; đã bảy giờ đúng. “Hắn sắp tới rồi đây, – anh thầm nghĩ. – Bao giờ hắn cũng đúng hẹn. Mình đã tự đề nghị hắn từ nhà ga đi thẳng qua rừng đến đây, để tránh mặt bất cứ ai. Không sao. Mình sẽ đợi hắn một lát. Chờ đợi ở một chỗ đẹp như thế này cũng dễ chịu thôi...” Stierlitz bao giờ cũng tiếp tên điệp viên ấy ở đây, trong cái biệt thự nhỏ xinh xắn đứng bên bờ hồ. Địa điểm bí mật này là nơi thuận tiện nhất, vì nó ở giữa rừng sồi vắng vẻ, xa cách hẳn mọi người. Biệt thự này trước kia là của hai vợ chồng nghệ sĩ, múa tại nhà hát “Opera”. Họ đã chết trong một trận ném bom, để biệt thự lại cho các con. Stierlitz thuyết phục thượng tướng SS Paul trong ba tháng liền, để y đồng ý chi tiền mua biệt thự đó. Mấy đứa con của hai vợ chồng nghệ sĩ nọ đòi rất đắt, cho nên thượng tướng Paul, kẻ phụ trách Cục tài chính của hai tổ chức SS* và SD*, cương quyết từ chối lời thỉnh cầu của Stierlitz. Y nói: “Ông điên à? Sao ông không tìm mua một chỗ nào rẻ hơn? Sao ông say mê cái biệt thự xa xỉ ấy đến thế nhỉ? Chúng tôi không thể vung tiền qua cửa sổ được đâu! Như vậy là quá ư tàn nhẫn đối với một đất nước đang mang gánh nặng chiến tranh như nước ta”. • Schutzstaffel, là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. • Sicherheitsdienst, Cục An ninh, là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. Từ năm 1944, SD nắm luôn ngành Quân báo. Stierlitz đành phải lôi cấp trên trực tiếp của mình đến xem biệt thự. Đó là Walter Schellenberg, ba mươi tư tuổi, thiếu tướng, chỉ huy Cục tình báo chính trị của tổ chức SD. Là một người có trí tuệ siêu việt biết thưởng thức vẻ đẹp tinh tế. Schellenberg hiểu ngay rằng không thể tìm được địa điểm nào tốt hơn để nói chuyện với các điệp viên quan trọng, bằng biệt thự này. Việc mua bán được tiến hành qua một số người mạo tên. Và gã Bolsen, kỹ sư trưởng của “nhà máy hóa chất quốc dân mang tên Robert Ley” nhận được quyền sử dụng tòa biệt thự. Bolsen thuê ngay một người gác cổng với tiền lương khá cao và cho ăn đầy đủ. Cái gã Bolsen ấy chính là đại tá SS von Stierlitz. Bày bàn ăn xong, Stierlitz vặn radio. Đài phát thanh Luân Đôn đang truyền đi một bản nhạc vui. Dàn nhạc của một người Mỹ tên là Glenn Miller đang chơi một khúc nhạc trong phim “Khúc nhạc chiều của thung lũng mặt trời”. Thống chế Himmler rất mê bộ phim ấy, nên đã cho mua bên Thụy Điển một bản mang về. Từ đó, nó thường được đem ra chiếu trong hầm ngầm ở phố Hoàng tử Albrecht, nhất là giữa các trận ném bom đêm, khi không thể tiến hành hỏi cung những người bị bắt. Stierlitz gọi dây nói cho người gác cổng chạy lên. Anh bảo: – Hôm nay, anh có thể về nhà với các con. Sáu giờ sáng mai, anh hãy trở lại đây, và nếu tôi chưa đi, thì anh hãy pha cho tôi một cốc cà-phê đặc, thật đặc vào, rõ chưa?   “Yustas gửi Alex, Từ Berlin.   Tin tức về thành phần quân số của các tập đoàn quân ở mặt trận phía Đông trong tháng Hai.   1. Tập đoàn quân “Courland”: 20 binh đoàn tổng số quân: 232 nghìn người số tay súng: 110 nghìn tên   2. Tập đoàn quân “Phương Bắc”: 28 binh đoàn tổng số: 384 nghìn người số tay súng: 141 nghìn tên   3. Tập đoàn quân “Wisla”: 37 binh đoàn tổng số quân: 527 nghìn người số tay súng: 280 nghìn tên   4. Tập đoàn quân “Trung tâm”: 43 binh đoàn tổng số quân: 413 nghìn người số tay súng: 191 nghìn tên   5. Tập đoàn quân “Phương Nam”: 35 binh đoàn tổng số quân: 449 nghìn người số tay súng: 143 nghìn tên   Tổng cộng: số quân: 2 triệu 5 nghìn người số tay súng: 865 nghìn tên   Nguồn tin này do một trung tá quân dự bị cung cấp. YUSTAS”.   “Schwark gửi Alex, Từ Vienna   Nội dung – số lượng quân dự bị tính đến ngày 1-2-1945:   a) Số quân dự bị kể cả bệnh binh đã ra viện: 546 nghìn người   b) Số quân thường trực của các đơn vị quân đội đang huấn luyện: 147 nghìn người   c) Học viên các trường và các lớp quân sự: 113 nghìn người   d) Số tên đang chạy chữa tại các quân y viện: 650 nghìn người   e) Các đơn vị hậu vệ binh: 205 nghìn người   g) Các đơn vị đồn trại: 18 nghìn 500 người   h) Các đơn vị quân vụ và đơn vị khác trong quân đội: 143 nghìn người   i) Số nhân sự không tính trong danh sách bộ đội: 310 nghìn người   Tổng cộng: 2 triệu 132 nghìn 800 người   Nguồn tin này do nhân viên tốc ký OKW* cung cấp. • OKW là Bộ Tổng chỉ huy lục quân (Chú thích của người dịch). SCHWARK”. Mời các bạn đón đọc Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân của tác giả Iulian Xêmiônốp.
Lấy Nhau Vì Tình
Người phương Tây xưa nay vốn phân biệt hai kiểu hôn nhân: lấy nhau theo lý trí và lấy nhau vì tình yêu. Theo lý trí là cân nhắc kỹ lưỡng mọi điều kiện của hôn nhân mà quyết định sáng suốt, hợp với hoàn cảnh của cá nhân, gia đình và xã hội. Còn vì tình yêu là chỉ tuân theo có tiếng gọi của tấm lòng, bất chấp mọi điều kiện khác. Trong những năm 30 của thế kỷ này, thanh niên nam nữ mới tiếp thu văn hóa Tây phương, muốn thoát ly khỏi gia đình phong kiến, chống lại quyền cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, phần lớn cho rằng lấy nhau phải vì tình mới là hợp lý và mới có hạnh phúc vợ chồng. Cái lối hôn nhân phong kiến, trước những thay đổi lớn của xã hội, đã làm sinh ra không ít bi kịch. Lên án nó và góp phần đào thải nó khỏi xã hội thì các nhà văn trong Tự lực văn đoàn chủ yếu là Nhất Linh và Khái Hưng, đã làm thật mạnh và thành công không ít. Nhưng trong không khí say sưa rất lãng mạn chủ nghĩa ấy, những người thuộc phái mới có ai đã bình tĩnh để sáng suốt mà tự hỏi: nhưng hôn nhân chỉ vì tình yêu thì có phải bao giờ cũng tốt đẹp, và cũng đem đến hạnh phúc cho gia đình cả không? Chỉ có Vũ Trọng Phụng năm 1937, là như đặt ra cái câu hỏi ấy và đã trả lời bằng cuốn tiểu thuyết Lấy nhau vì tình. Mới nghe tên sách như thế, mãi đến cả ngày nay ai mà chẳng tưởng rằng Vũ Trọng Phụng đã viết một truyện hoa tình diễm lệ theo phong cách lãng mạn chủ nghĩa, lúc bấy giờ đang độ cực thịnh. Ngờ đâu đó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, mà hiện thực xã hội thì vẽ ra thật trung thành và sinh động, mà tâm lý nhân vật thì phân tích thật tinh vi và sâu sắc. *** Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam.  Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes moeurs). Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam từ 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.  Tác phẩm: Tiểu thuyết: Dứt tình (1934) Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch. Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai Số đỏ (1936) - Hà Nội báo Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương Lấy nhau vì tình (1937) Trúng số độc đắc (1938) Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới) Người tù được tha (Di cảo) Và còn rất nhiều tác phẩm kịch, dịch thuật, phóng sự và truyện ngắn Mời các bạn đón đọc Lấy Nhau Vì Tình của tác giả Vũ Trọng Phụng.