Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thông Minh Làm Thế Nào Để Hạnh Phúc?

Người Thông Minh Làm Thế Nào Để Hạnh Phúc? Có năm yếu tố cấu thành cuộc sống hạnh phúc, đây là những yếu tố chung để phân biệt giữa một cuộc sống hạnh phúc và khổ đau, mô tả những lĩnh vực trong cuộc sống mà chúng ta có thể cải thiện, và đó là những điều hết sức quan trọng đối với mọi người trong từng hoàn cảnh. Các yếu tố này là nền tảng của một cuộc sống an khang, hạnh phúc và đóng vai trò thiết yếu trong cuộc sống của hầu hết mọi người: 1. Niềm vui trong công việc, tức là cách bạn sử dụng thời gian, hay nói đơn giản hơn là về những gì bạn làm mỗi ngày. 2. Hạnh phúc về mặt xã hội, đề cập đến những mối quan hệ bền chặt và tình yêu cuộc sống. 3. Hài lòng về tài chính, tức là việc quản lý đời sống kinh tế một cách hiệu quả. 4. Bền vững về thể chất, cụ thể là sức khỏe và năng lượng để bạn hoàn tất công việc mỗi ngày. 5. Yên vui trong đời sống cộng đồng, cảm giác về mối quan hệ của bạn với địa phương và cư dân nơi bạn sinh sống. Sống an khang, hạnh phúc: Trong những phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đề cập đến những người đạt được cả năm yếu tố trên. Họ có mức độ hạnh phúc cao nhất trong toàn bộ cơ sở dữ liệu của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi đọc quyển sách này, bạn sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về những gì góp phần tạo nên hạnh phúc của bạn trong suốt cuộc đời. Điều này sẽ cho phép bạn tận hưởng trọn vẹn từng ngày trôi qua, gặt hái được nhiều hơn từ cuộc sống và có lẽ quan trọng hơn cả là bạn có thể giúp bạn bè, người thân, đồng nghiệp và những người khác trong cộng đồng có cuộc sống an khang, hạnh phúc như bạn. *** CUỘC SỐNG AN KHANG, HẠNH PHÚC Hầu hết chúng ta thường nhầm lẫn hoặc mơ hồ trong việc xác định những thứ giúp ta có được cuộc sống an khang, hạnh phúc(1). Trái với những gì nhiều người vẫn nghĩ, hạnh phúc không chỉ gói gọn trong niềm vui sướng hay sự giàu có, thành đạt, và chắc chắn càng không giới hạn ở sức khỏe thể chất và sự tráng kiện. Trên thực tế, việc tập trung đơn lẻ vào bất kỳ yếu tố nào nêu trên cũng sẽ khiến chúng ta cảm thấy thất vọng, hay thậm chí suy sụp. Chúng ta dễ cuốn vào các kế hoạch hứa hẹn giúp ta kiếm được nhiều tiền, giảm cân, hoặc thắt chặt các mối quan hệ. Thế rồi trong nhiều tuần lễ tiếp theo, ta đổ dồn thời gian và công sức vào đấy, để rồi cuối cùng lại từ bỏ khi các kế hoạch ấy tự mâu thuẫn với các khía cạnh khác trong cuộc sống. Nếu bạn từng mua sách, xem băng đĩa hoặc tham dự các lớp học có nội dung như vậy, ắt hẳn bạn sẽ nhận thấy việc tập trung hoàn toàn vào một khía cạnh đơn lẻ nào đó có thể phương hại đến sự an khang, hạnh phúc của bạn tới mức nào. Hãy nghĩ đến những người đã dành hết thời gian và sức lực cho công việc, để rồi phải trả giá bằng những mối quan hệ cá nhân. Có vẻ khá dễ dàng nếu bạn nhìn nhận những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống như các yếu tố hoàn toàn độc lập và không liên quan gì với nhau. Song chúng lại không như thế - các khía cạnh ấy phụ thuộc lẫn nhau. Hạnh phúc chính là sự kết hợp của cái tâm ta dành cho những việc mình làm mỗi ngày, chất lượng các mối quan hệ, sự đảm bảo về mặt tài chính, sự ổn định về sức khỏe và niềm tự hào khi được đóng góp cho cộng đồng. Quan trọng là cách mà năm yếu tố này tương tác lẫn nhau. Điều làm cho cuộc sống trở nên đáng sống Từ giữa thế kỷ 20, các nhà khoa học của Viện Thăm dò Dư luận Gallup đã khám phá ra các nhu cầu của một cuộc sống viên mãn. Gần đây, trong quá trình cộng tác với các nhà kinh tế học, tâm lý học và các nhà khoa học đầu ngành khác, chúng tôi đã khám phá ra năm yếu tố phổ biến quyết định một cuộc sống hạnh phúc, mà không lệ thuộc vào bối cảnh đặc thù của quốc gia và sự khác biệt về văn hóa. Gallup đã tiến hành một cuộc nghiên cứu mang tính toàn cầu ở hơn 150 quốc gia để nhận định sâu hơn về hạnh phúc của hơn 98% dân số thế giới. Từ Afghanistan đến Zimbabwe, chúng tôi đã đặt ra hàng trăm câu hỏi về sức khỏe, sự giàu có, các mối quan hệ, công việc và đời sống cộng đồng, rồi đem so sánh kết quả này với cách họ trải nghiệm cuộc sống hàng ngày cũng như đánh giá chất lượng sống nói chung. Trong cuộc nghiên cứu ban đầu, chúng tôi đã hỏi mọi người về “tương lai tốt nhất có thể” và phát hiện ra rằng khi đánh giá cuộc sống, người ta thường đưa ra hai tiêu chí chủ yếu là thu nhập và sức khỏe. Theo kết quả khảo sát, “sức khỏe dồi dào” và “của cải” là hai câu trả lời phổ biến nhất. Có lẽ bởi vì các tiêu chí này dễ đo lường và dễ theo dõi theo thời gian. Chúng ta có thể kiểm soát chiều cao, cân nặng, huyết áp và thu nhập của mình, thế nhưng lại không có tiêu chuẩn nào để đo lường chất lượng nghề nghiệp hoặc sự lành mạnh của các mối quan hệ. Cuộc nghiên cứu đã tìm ra năm yếu tố thống kê riêng biệt. Đây là những yếu tố chung để phân biệt giữa một cuộc sống hạnh phúc và khổ đau, mô tả những lĩnh vực trong cuộc sống mà chúng ta có thể cải thiện, và đó là những điều hết sức quan trọng đối với mọi người trong từng hoàn cảnh mà chúng tôi nghiên cứu. Năm yếu tố cốt lõi Các yếu tố này là nền tảng của một cuộc sống an khang, hạnh phúc và đóng vai trò thiết yếu trong cuộc sống của hầu hết mọi người. 1. Niềm vui trong công việc, tức là cách bạn sử dụng thời gian, hay nói đơn giản hơn là về những gì bạn làm mỗi ngày. 2. Hạnh phúc về mặt xã hội, đề cập đến những mối quan hệ bền chặt và tình yêu cuộc sống. 3. Hài lòng về tài chính, tức là việc quản lý đời sống kinh tế một cách hiệu quả. 4. Bền vững về thể chất, cụ thể là sức khỏe và năng lượng để bạn hoàn tất công việc mỗi ngày 5. Yên vui trong đời sống cộng đồng, cảm giác về mối quan hệ của bạn với địa phương và cư dân nơi bạn sinh sống. Trong khi 66% mọi người làm tốt ở ít nhất một trong số năm yếu tố trên thì chỉ có khoảng 7% là thành công ở cả năm yếu tố. Nếu chúng ta đang phải lao tâm khổ tứ với một trong số đó, mà hầu hết ai cũng như thế, thì chính điều đó sẽ làm tổn hại đến hạnh phúc và làm trì trệ cuộc sống hàng ngày của ta. Khi đã củng cố được các yếu tố này về tổng thể thì ta sẽ có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khó tận dụng được hết những gì cuộc sống ban tặng nếu không hoạt động thật hiệu quả ở cả năm lĩnh vực. Mặc dù đây là những yếu tố mang tính phổ quát, không phụ thuộc vào tín ngưỡng, văn hóa và quốc tịch, nhưng mỗi người có những phương thức khác nhau để gia tăng mức độ hạnh phúc cá nhân. Đối với nhiều người, đời sống tâm linh chi phối họ trong tất cả những lĩnh vực trên. Đức tin chính là khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc sống và là nền tảng cho mọi nỗ lực hàng ngày của họ. Còn với nhiều người khác, một sứ mệnh to lớn như bảo vệ môi trường lại mang đến nguồn cảm hứng trong cuộc sống. Cho dù nguồn động lực giữa người này và người khác là hết sức khác biệt, song kết quả nhận được thì lại giống nhau. Có rất nhiều cách để tạo nên trạng thái an tâm trong công việc, đời sống xã hội, tài chính, sức khỏe và đời sống cộng đồng. Bởi vì những yếu tố quan trọng này đều nằm trong tầm kiểm soát nên chúng ta hoàn toàn có khả năng cải thiện chúng, ví dụ tập thể dục, dành nhiều thời gian hơn cho bạn bè, hoặc sử dụng đồng tiền một cách khôn ngoan… Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc và cảm giác an bình có vẻ lại nằm ở… chính bản thân ta. Do thiếu cân nhắc mà chúng ta cho phép những quyết định nhất thời ảnh hưởng đến hạnh phúc của mình trong dài hạn. Cưỡng lại ham muốn Chúng ta biết rằng hoạt động thể chất sẽ cải thiện sức khỏe, thế nhưng ta lại không chịu tập thể dục. Ta thường tự bào chữa rằng “bỏ tập một buổi không thể nào gây ra chứng đau tim hay đột quỵ”, thế là ta tự cho phép mình có một ngày lười biếng. Chúng ta biết rằng thực phẩm chiên xào hoặc chứa nhiều đường không tốt chút nào, thế nhưng ta vẫn bốc cả nắm kẹo và khoai tây chiên mà chẳng thèm đắn đo cân nhắc. Một túi khoai tây chiên thì không thể gây bệnh tiểu đường hay béo phì được mà! Tương tự như thế, chúng ta biết rằng việc dành thời gian trọn vẹn cho bạn bè và gia đình là rất quan trọng, nhưng khi công việc cấp bách, ta chẳng thể dừng lại để hỏi thăm sức khỏe một người bạn. Về mặt tài chính, chúng ta thường tiêu xài thay vì tiết kiệm. Việc bỏ tiền vào quỹ hưu trí có thể làm gia tăng giá trị của khoản tiền ấy gấp nhiều lần về sau, nhưng ngay lúc này, việc chi tiêu để nuông chiều sở thích cá nhân có vẻ thú vị hơn nhiều. Với quá nhiều lựa chọn để thỏa mãn bản thân trong hiện tại như thế thì việc đưa ra những quyết định đúng đắn trong dài hạn quả thực khá khó khăn. Bởi rốt cuộc thì bản chất của chúng ta là muốn làm những việc mang về lợi ích tức thời. Vì nhu cầu sinh tồn mà đặc tính này đã được mã hóa trong ADN của con người. Qua nhiều thập niên, các nhà tâm lý học đã mô tả khả năng hoãn lại sự thỏa mãn chính là nền tảng phát triển của con người để chuyển từ giai đoạn thơ ấu sang giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên trên thực tế, cái-tôi-nhất-thời vẫn giành phần thắng và có được món ngon, bất chấp sự phản kháng từ cái-tôi-trường-tồn muốn có cơ thể khỏe mạnh và trường thọ. Khi chúng tôi hỏi hơn 23.000 người về thói quen mua sắm, chỉ 10% cho biết họ mua kẹo thường xuyên. Nhưng trong một cuộc khảo sát sau đó, khi hỏi cùng nhóm người ấy rằng nếu có sẵn một đĩa đầy kẹo ngay trước mặt, liệu họ sẽ ăn một ít chứ, thì hơn 70% thừa nhận là có. Chừng nào chúng ta còn cho phép những ham muốn nhất thời giành chiến thắng thì chừng đó chúng ta còn gặp khó khăn về việc thay đổi hành vi về lâu dài. Tuy nhiên, qua những người có mức độ hạnh phúc cao nhất, chúng tôi biết được rằng có một giải pháp đơn giản cho vấn đề này: Nếu chúng ta có thể tìm ra những nguồn khích lệ ngắn hạn phù hợp với các mục tiêu dài hạn thì việc đưa ra quyết định đúng đắn trong hiện tại sẽ dễ dàng hơn. Ví dụ, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ qua một chiếc bánh mì kẹp phô mai và khoai tây chiên không phải vì cân nhắc đến nguy cơ sau này sẽ mắc bệnh béo phì hoặc tiểu đường, mà là vì xét đến thực tế trước mắt nếu cứ ngấu nghiến loại thức ăn đó thì “dư vị béo ngậy ấy sẽ cứ ở mãi trong cổ họng”, làm hỏng cả một ngày. Hoặc, sáng mai chúng ta sẽ tập thể dục vì biết rằng chỉ cần 20 phút tập luyện có thể giúp tâm trạng phấn chấn suốt 12 giờ tiếp theo. Khi thấy được sự tưởng thưởng ngay trước mắt, chúng ta sẽ dễ dàng thay đổi hành vi ở hiện tại hơn, với tinh thần những hoạt động hàng ngày sẽ mang lại lợi ích lâu dài. Do vậy, mong muốn có được nguồn năng lượng dồi dào suốt cả ngày (nguồn khích lệ ngắn hạn) sẽ dẫn đến việc tập thể dục 20 phút mỗi sáng (một quyết định sáng suốt vào thời điểm hiện tại), dần dần điều đó sẽ giúp bạn tránh được những căn bệnh mãn tính (mục tiêu dài hạn). Như chúng ta sẽ thảo luận trong suốt quyển sách này, việc thay đổi những hoạt động hàng ngày, dù là nhỏ nhất, cũng có thể tạo ra tác động to lớn và lâu dài đối với mục tiêu sống vui, sống khỏe của chúng ta. Sống an khang, hạnh phúc Trong những phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đề cập đến những người đạt được cả năm yếu tố trên. Họ có mức độ hạnh phúc cao nhất trong toàn bộ cơ sở dữ liệu của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi đọc quyển sách này, bạn sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về những gì góp phần tạo nên hạnh phúc của bạn trong suốt cuộc đời. Điều này sẽ cho phép bạn tận hưởng trọn vẹn từng ngày trôi qua, gặt hái được nhiều hơn từ cuộc sống và có lẽ quan trọng hơn cả là bạn có thể giúp bạn bè, người thân, đồng nghiệp và những người khác trong cộng đồng có cuộc sống an khang, hạnh phúc như bạn *** NIỀM VUI TRONG CÔNG VIỆC Bạn có thích những gì mình làm mỗi ngày không? Đây có lẽ là câu hỏi cơ bản nhất, song lại quan trọng nhất, về hạnh phúc mà chúng ta có thể tự hỏi mình. Thế nhưng chỉ có 20% số người được hỏi có thể dõng dạc trả lời là “Có”. Về cơ bản, tất cả chúng ta đều cần một công việc để làm và lý tưởng nhất là việc ấy khiến chúng ta hăng hái hướng đến mỗi sáng khi thức dậy. Những gì bạn dành thời gian để làm mỗi ngày sẽ định hình bản sắc của bạn, bất luận bạn là sinh viên, phụ huynh, tình nguyện viên, người đã về hưu, hoặc làm công việc thông thường nào đó. Chúng ta dành phần lớn thời gian trong tuần để làm những gì mà ta cho là một công việc, một cái nghề. Khi gặp gỡ lần đầu, người ta thường hỏi nhau: “Anh/chị làm nghề gì?”. Nếu bạn trả lời câu hỏi ấy với vẻ hài lòng và trân trọng thì có khả năng bạn đã đạt được niềm vui trong công việc. Người ta thường xem nhẹ tác động của nghề nghiệp đối với trạng thái an khang nói chung. Song niềm vui trong công việc có thể được cho là yếu tố cơ bản nhất trong năm yếu tố. Nếu bạn không có cơ hội được thường xuyên làm công việc mà mình yêu thích - công việc bạn làm vì đam mê hay thích thú, chứ không hẳn vì đồng lương - thì cơ hội bạn tìm thấy cảm giác an khang ở những lĩnh vực khác cũng sẽ tan biến nhanh chóng. Những người có mức độ hạnh phúc cao trong công việc có khuynh hướng thành công trong cuộc sống cao gấp hai lần người bình thường. Hãy tưởng tượng rằng bạn có những mối quan hệ xã hội tuyệt vời, được đảm bảo về mặt tài chính và có sức khỏe tốt, nhưng bạn lại không thích công việc mình đang làm. Như thế, nhiều khả năng là hầu hết thời gian giao tiếp của bạn chỉ quẩn quanh với việc lo lắng hoặc phàn nàn về công việc tệ hại mà thôi. Điều này sẽ gây căng thẳng, tổn hại đến sức khỏe của bạn. Nếu mức độ hạnh phúc của bạn trong công việc thấp thì theo thời gian, điều đó có thể gây nguy hại đến các lĩnh vực khác. Đánh mất bản sắc Để đánh giá xem nghề nghiệp góp phần định hình bản sắc và sự an khang của chúng ta như thế nào, hãy xem xét những gì xảy ra khi một người rơi vào tình trạng thất nghiệp trong suốt một năm trời. Một nghiên cứu được đăng trên tờ Economic Journalcho thấy thất nghiệp có lẽ là sự kiện lớn duy nhất trong đời khiến người ta không thể hoàn toàn hồi phục trong vòng năm năm. Cuộc nghiên cứu này đã khảo sát 130.000 người trong vài thập kỷ, cho phép các nhà nghiên cứu nhìn nhận cách thức những sự kiện lớn trong đời như kết hôn, ly hôn, sinh con, mất đi người bạn đời… ảnh hưởng đến sự thỏa mãn trong cuộc sống theo thời gian. Một trong những phát hiện của cuộc nghiên cứu này là thậm chí khi phải đối mặt với vài sự kiện đau thương nhất trong đời như cái chết của chồng hoặc vợ, thì sau một vài năm, người ta cũng hồi phục mức độ hạnh phúc bằng với trước khi người bạn đời của họ mất đi. Nhưng đối với những người bị thất nghiệp trong một thời gian dài thì mọi việc lại không diễn ra như thế, đặc biệt là đối với nam giới. Chúng ta sống vui vẻ trở lại sau cái chết của người bạn đời nhanh hơn là sau khi thất nghiệp trong thời gian dài. Mời các bạn đón đọc Người Thông Minh Làm Thế Nào Để Hạnh Phúc? của tác giả Tom Rath & Jim Harter.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn
Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! ***   N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. *** Năm 1946, Rudolf Schelkmann, cựu thiếu tá đơn vị tình báo SS của Hitler đang lẩn trốn tại Ulm, Đức, đã phối hợp với một mạng lưới những kẻ trung thành với âm mưu tái thiết sự thống trị của Đảng Quốc Xã. Tháng 11 năm đó, Schelkmann cùng ba cựu sĩ quan SS đã bị dẫn dụ vào cuộc gặp với một chỉ huy của lực lượng phản kháng Đảng Tân Quốc Xã hoạt động ngầm và quyền lực hơn. Thực tế, họ sẽ gặp Moniek Kroskof, chính là Michel Thomas, một đặc vụ chìm của Cơ quan Phản gián (CIC) của quân đội Hoa Kỳ. Với nhiệm vụ đem những tên tội phạm chiến tranh này ra trước công lý, Thomas đảm nhận sứ mệnh phát hiện, lần theo dấu vết và phá hủy mạng lưới của Schelkmann. Một nhân viên CIC khác sử dụng cái tên Hans Meyer cũng đã cẩn thận xây dựng quan hệ với những thành viên của mạng lưới, nhưng Schelkmann vẫn rất kiệm lời. Cựu nhân viên SS đã đồng ý chia sẻ các thông tin liên lạc và chi tiết hoạt động, nhưng chỉ sau khi được gặp mặt trực tiếp chỉ huy của Meyer. Thomas phải tránh để Schelkmann và nhóm người của hắn đánh hơi thấy điều gì đó khác thường. Để đạt mục đích này, ông đã tỉ mỉ sắp xếp để đám sĩ quan SS trải nghiệm một chuyến đi quanh co nhiều giờ liền trước khi đến buổi gặp quan trọng. Buổi tối hôm đó, những sĩ quan SS theo lệnh Meyer đã chờ sẵn trong một “ngôi nhà an toàn” ở phía tây nam Ulm. Không được thông báo trước, những chiếc xe mô tô đến đón họ đi. Thomas đã cẩn thận chờ trời đổ mưa; khi đám sĩ quan SS ngồi ở yên sau của những chiếc xe và gió mạnh thổi vào những bộ quần áo thấm đầy nước mưa của họ. Được thả xuống một con đường trống, nhóm sĩ quan bị bịt mắt và bị đẩy vào hai chiếc ô tô. Trong bóng đêm, họ nghe thấy tiếng người trao đổi mật khẩu khi đi qua nhiều trạm kiểm tra an ninh. Họ được kéo ra khỏi xe, dẫn đi qua một con đường đầy bùn lầy và những vũng nước sâu giá lạnh trong trạng thái bị bịt mắt. Chúng phải chờ dưới một hành lang lạnh lẽo và không được nói chuyện. Vẫn bị bịt mắt, chúng lắng nghe những mệnh lệnh ngắn gọn, những bước chân, những tiếng cửa đóng mở vội vã. Khi Schelkmann và nhóm của hắn được dẫn tới một căn phòng lớn bằng gỗ và được cởi bịt mắt, lúc đó đã qua nửa đêm. Thomas – hay Frundsberg với những sĩ quan SS – ngồi sau một chiếc bàn lớn, đối mặt với những kẻ âm mưu. Mặc quần áo thường dân, ngoại trừ chiếc áo sơ mi nâu theo phong cách quân đội, Frundsberg được giới thiệu với nhóm người trung thành với Đảng Quốc Xã là cựu sĩ quan cao cấp của RSHA, một nhóm điệp viên từng nằm dưới quyền giám sát của Himmler. Căn lều đi săn của Frundsberg là trụ sở của tổ chức phản kháng ngầm, được trang trí rất nghệ thuật với tranh chân dung của Hitler và những nhân vật quan trọng của Đảng Quốc Xã, kèm với những quả lựu đạn, súng máy, súng ngắn, súng phun lửa và cả bộc phá. Những xấp tiền mặt nằm trong một chiếc két sắt mở toang. Thomas gật đầu, ngồi xuống và những người đàn ông khác cũng ngồi xuống. Ông im lặng nghiên cứu một tập hồ sơ không rõ nội dung, sau đó nói rõ quan điểm của mình với Schelkmann: ông sẽ không chấp nhận bất kỳ nhóm phản kháng nhỏ lẻ nào. Những hành động quân sự thực hiện ngoài mệnh lệnh của ông sẽ được coi là hành động phản bội, đơn giản và rõ ràng. Với những cử chỉ dường như rất thoải mái, Thomas xem thường Schelkmann và nhóm nhỏ của hắn, và thường nhận những cú điện thoại để nhấn mạnh sự lãnh đạm với nhóm người này. Các cấp dưới của ông đến và đi với những thông cáo rõ ràng rất khẩn cấp. Trong cơn bối rối, vị thiếu tá Đảng Quốc Xã nói ra các chi tiết mà Thomas đang mong chờ: lý lịch của hắn và lý lịch của những sĩ quan SS khác trong phòng, tên của mạng lưới, điều lệ, phương thức, cấu trúc cũng như cách các thành viên được tuyển mộ. Những hoạt động của CIC đêm đó không phải hoàn hảo. Buổi diễn tưởng tượng và tỉ mỉ của Thomas cần khoảng 30 người tham gia đóng kịch, mỗi người đều có một kịch bản được phân công. Các sai lầm và sự thiếu sót nhỏ trong màn trình diễn là điều không tránh khỏi. Thành công của hoạt động phản gián thường nhờ vào việc phát giác ra các chi tiết vụn vặt như vậy, dù những khoảnh khắc lưỡng lự bất thường, phản ứng quái lạ hay những cái giật mình vô tình được hiểu là ác ý hay ôn hòa. Như nhà nhân loại học Margaret Mead từng nói, đó là lý do một số điệp viên Xô Viết thường dùng tẩu. Hành động đó giúp họ duy trì biểu cảm trên khuôn mặt. Những cái nút với khuyết áo đan chéo (chứ không may song song) có thể tiết lộ quốc tịch của điệp viên và làm hỏng cả một chiến dịch khai thác thông tin mật hoàn hảo. Ở Ai Cập, một điệp viên nước ngoài từng bị phát hiện vì tư thế đứng tiểu nơi công cộng. Thomas biết rằng trong hoạt động tình báo, tất cả các chi tiết đều quan trọng và Schelkmann có lý lịch rất đáng gờm trong ngành. Schelkmann có hai cơ hội lật mặt nạ buổi diễn tối hôm đó. Đầu tiên là khi hắn yêu cầu được bổ nhiệm làm giám đốc bộ phận tình báo của Thomas. Thomas sau đó nói với người viết hồi ký của mình, Christopher Robbins, “Tôi không lường trước được điều này. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu đó của hắn nếu không tuyển mộ hắn vào tổ chức, một điều tất nhiên là hoàn toàn bất khả thi. Tôi đã chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động của hắn, dù trong thực tế đó là điều tôi buộc phải thán phục hắn.” Theo kế hoạch, Thomas không chỉ phải bịa ra một âm mưu phản kháng giả mà còn phải tỏ ra khinh thường một mạng lưới tình báo được quản lý tốt. Schelkmann không phát hiện ra và không phản kháng. Khoảnh khắc thành bại thứ hai của tối hôm đó – theo Thomas là khoảnh khắc nguy hiểm nhất – là khi Schelkmann bất ngờ hỏi xin mệnh lệnh. “Und was befehlen Sie uns jetzt zu tun?” Và giờ ngài ra lệnh cho chúng tôi làm gì? Như Robbins nhớ lại, Thomas sợ rằng mặt nạ của ông bị lộ ra và ông đã bước ra khỏi vai diễn. Nhưng một lần nữa, những sĩ quan SS không để ý thấy điều đó. Thomas trấn tĩnh, ra lệnh cho những người Đức dừng bất kỳ hoạt động đang trì hoãn nào và chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra. Màn trình diễn của ông đã sơ suất hai lần, nhưng Schelkmann cũng đã bỏ lỡ cả hai. Đây là lợi ích của những hành động bịt mắt, đổi xe, đi qua bùn đất, quần áo đẫm nước mưa và màn đối xử khinh miệt mà nhóm những kẻ âm mưu bị buộc phải chịu đựng: bỏ qua những manh mối, xem nhẹ các dấu hiệu. Thành công của hoạt động đêm hôm đó không dựa vào sự hoàn hảo trong triển khai. Ngược lại, Thomas biết rằng sẽ xuất hiện những sơ suất có thể làm hỏng buổi diễn và buộc ông phải bắt nhóm đảng viên Quốc Xã ngay lập tức. Tài năng của ông nằm ở khả năng thao túng tâm trạng và làm giảm đi nhu cầu kiểm soát mà nhờ đó, những người này sẽ ít lưu ý đến những sai lầm mang tính khoảnh khắc đó. Vài tháng sau, khi Thomas rời công việc với CIC ở Đức để về Mỹ, một điệp viên mới nhận nhiệm vụ giăng bẫy nhóm đảng viên Quốc Xã liều lĩnh này. Đóng vai phó của Frundsberg, điệp viên thay thế này sắp xếp một cuộc họp với Schelkmann và nhóm người của hắn ở một quán bia địa phương. Vợ và bạn gái được phép tham gia. Lần này, một khoảnh khắc căng thẳng ập đến và điệp viên ngầm này tỏ ra bối rối, khiến nhóm sĩ quan SS cảm thấy có gì đó không đúng. Chúng quyết liệt thẩm vấn anh ta. Điệp viên CIC này hoảng loạn rút ra một khẩu súng ngắn, và các sĩ quan CIC ngầm nấp trong quán bia chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc xông đến bắt đám người này, tóm được ít kẻ âm mưu hơn so với kỳ vọng. Schelkmann ngồi tù 12 năm. Ban đầu khi bị buộc tội, hắn và các đồng sự kịch liệt phủ nhận tuyên bố dường như khó hiểu của bên truy tố rằng Frundsberg cũng làm việc cho những người Mỹ. Cũng giống như những học viên của Thomas, những sĩ quan SS đã đóng tư duy của họ lại. *** Cuốn sách này nghiên cứu cách con người diễn giải thế giới. Nó viết về những gì xảy ra khi chúng ta bối rối và mọi thứ có vẻ không rõ ràng. Tất nhiên, hầu hết thách thức trong cuộc sống thường cực kỳ rõ ràng. Khi trời đổ tuyết, chúng ta biết mặc áo khoác trước khi ra ngoài. Khi điện thoại kêu, chúng ta nhấc điện thoại lên. Đèn đỏ có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Ở chiều ngược lại, nhiều phạm vi kiến thức hoàn toàn khiến chúng ta bối rối. Nếu giống tôi, bạn sẽ chẳng hiểu gì khi đọc chữ Ba Tư hay nghe một cuộc tranh luận của các chuyên gia vật lý hạt nhân. Chúng ta sẽ không thể bối rối nếu có ít nhiều hiểu biết nào đó trong đầu. Thay vì cảm thấy khó chịu vì chỉ hiểu một phần vấn đề, chúng ta nên cảm thấy bình tĩnh trước sự ngu ngơ của bản thân, giống như cách chúng ta an tâm tuân theo những trình tự thường nhật. Cuốn sách này nghiên cứu vùng đất chếnh choáng nằm giữa hai cực, khi chúng ta có vẻ đang thiếu những thông tin cần thiết để thấu hiểu một trải nghiệm hay những thông tin nào đó quá phức tạp. Sự mơ hồ sẽ xuất hiện trong những tình huống không hoàn toàn rõ nghĩa này. Trạng thái tâm trí bối rối vì sự mơ hồ được gọi là trạng thái bất định, và nó là một trạng thái khuếch đại cảm xúc. Nó khiến sự căng thẳng trở nên đau đớn hơn, và cảm giác thích thú trở nên thú vị hơn. Ví dụ, cảm giác thích thú với trò chơi ô chữ đến từ quá trình suy nghĩ và giải quyết các manh mối không rõ ràng. Những câu chuyện trinh thám tạo ra sự hồi hộp bằng cách duy trì trạng thái bất định về những manh mối và kẻ thủ ác. Nghệ thuật hiện đại đi theo hướng bẻ cong tư duy, tính đa dạng của thơ ca, những câu đố của Lewis Carroll, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ của Marquez, văn châm biến hiện thực của Kafka – sự mơ hồ thấm đẫm tất cả những hình thái và tác phẩm nghệ thuật của loài người, hàm ý một bản chất cảm xúc sâu sắc. Goethe từng nói rằng: “Sự đồng thuận khiến chúng ta trở nên thụ động, nhưng mâu thuẫn sẽ khiến chúng ta trở nên hiệu quả hơn.” Sự mơ hồ cũng vậy. Những chuyến du lịch, các bảo tàng khoa học và những câu đố trí tuệ xác nhận tiềm năng tuyệt vời của sự mơ hồ trong vai trò quyến rũ trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa chúng ta và sự thiếu trật tự mang tính nhận thức có thể biến đổi thế nào. Chúng ta thích sự bất định được đưa vào nề nếp cẩn thận như một buổi trưng bày nghệ thuật hiện đại. Chúng ta chỉ thích cảm giác mơ hồ trong những bối cảnh không mang tính đe dọa, như khi âm nhạc chơi đùa với những âm thanh chói tai hay một bộ phim kinh dị chơi đùa với sự điên khùng. Khi đối mặt với những trải nghiệm không rõ ràng vượt ra khỏi giới hạn này, chúng ta hiếm khi cảm thấy an toàn. Các tình huống bất định trong đời thực thể hiện ở những sự kiện không thể lý giải, các dự định không rõ ràng, hay những thông tin tài chính, y tế không mang tính kết luận. Có thể vợ hoặc chồng bạn không có được một công việc mà cô ấy/anh ấy hoàn toàn đủ năng lực. Hay bạn cảm thấy không khỏe nhưng các chẩn đoán của bác sĩ không thể lý giải được mọi triệu chứng của bạn. Có lẽ bạn đang thương lượng một vụ làm ăn với ai đó mà bạn không thực sự tin tưởng. Hay có thể bạn đang cố gắng viết một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường thay đổi nhanh chóng và rất cạnh tranh. Những lần đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của chúng ta – từ chọn trường đại học đến quyết định nơi sinh sống – luôn liên quan đến hoạt động xử lý các thông tin mập mờ trong những tình huống đầy rủi ro. Tuy nhiên, ngày nay thế giới đang trở nên quá tải thông tin và hỗn độn hơn bao giờ hết. Nghịch lý của cuộc sống hiện đại là dù công nghệ phát triển – trong ngành giao thông, truyền thông và sản xuất – có thể mang lại nhiều thời gian hơn cho con người, nhưng các phát minh đó lại làm gia tăng số lượng các lựa chọn theo cấp số nhân. Thư điện tử nhanh hơn thư bưu điện rất nhiều và Internet cũng mang lại cả Twitter, YouTube, v.v... Như nhà xã hội học người Đức Hartmut Rosa mô tả: “Dù có gia tăng ‘tốc độ cuộc sống’ nhanh thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bắt kịp trận đại hồng thủy các thông tin và lựa chọn.” Kết quả là “phần thế giới mà chúng ta tiếp cận” có vẻ như ngày càng nhỏ lại, thậm chí khi chúng ta tiếp cận nó một cách hiệu quả hơn. Ước tính rằng có 90% dữ liệu trên thế giới đã được tạo ra chỉ trong 5 năm gần đây. Tất cả chúng ta đều đang chết chìm trong cơn lũ thông tin, một thực tế khiến những quyết định đơn giản nhất – ăn ở đâu, đăng ký chương trình chăm sóc sức khỏe gì, mua cà phê từ nhà sản xuất nào – trở nên đầy rủi ro. Trong khi đó, chúng ta đối mặt với những căng thẳng xã hội đến từ sự bất bình đẳng gia tăng và một tương lai kinh tế bất định khi máy móc bắt đầu thay thế con người trong nhiều ngành công nghiệp. Quản lý trạng thái bất định ngày càng trở thành một kỹ năng thiết yếu. Nhà kinh tế học Noreena Hertz gần đây tranh luận rằng một trong những thách thức căn bản của thế giới hôm nay là “sự thiếu trật tự – một sự kết hợp của sự sụp đổ những trật tự cũ, vững chãi và bản chất cực kỳ bất định của thời đại chúng ta.” Tự động hóa và thuê ngoài sẽ đòi hỏi những người lao động trong tương lai phải cách tân và sáng tạo hơn. Như chuyên gia kinh tế Lawrence Katz đã nói, thành công hay thất bại sẽ chỉ dựa trên một câu hỏi: “Bạn giải quyết những vấn đề không cấu trúc như thế nào, và bạn xử lý những tình huống tốt ra sao?” Những công việc mà có thể “được biến thành một thuật toán”, theo cách gọi của ông, sẽ không quay trở lại. Katz nói với tôi: “Kỹ năng sẽ được coi trọng trong tương lai là năng lực học các kỹ năng mới mà vẫn thích nghi với môi trường và năng lực khám phá ra những giải pháp sáng tạo vượt ra khỏi những cách làm tiêu chuẩn.” Cũng như những người lao động ngày nay phải học cách thích nghi với những gì xa lạ, lực lượng lao động ngày mai phải chuẩn bị cho điều đó. Miguel Escotet, một nhà khoa học xã hội đã đưa ra một lập luận rất hay. Các trường học nên “giảng dạy kỹ năng xử lý sự bất định, đơn giản vì với rất nhiều sinh viên, hầu như họ không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào thời điểm bước chân vào thị trường lao động”. Với Escotet, giảng dạy kỹ năng quản lý sự bất định nghĩa là giúp sinh viên trở nên linh hoạt, tự biện, tò mò và chấp nhận rủi ro – những năng lực có xu hướng biến mất khi sự căng thẳng chiếm lĩnh tâm trí chúng ta. Tương tự, các doanh nhân không thể cách tân nếu không có khả năng đi thong dong vào những vùng lãnh thổ xa lạ khác nhau. Năng lực xử lý sự mơ hồ và trạng thái bất định không phải là một chức năng của sự thông minh. Trên thực tế, khả năng này chẳng liên quan gì đến chỉ số IQ. Tuy nhiên, nó là một thách thức cảm xúc – một câu hỏi về tư duy – và là thứ mà tất cả chúng ta cần phải thành thạo. Vấn đề ngày nay là tìm ra cái phải làm – trong công việc, quan hệ và cuộc sống hằng ngày – khi chúng ta không biết phải làm gì. Sự quan tâm của giới khoa học đối với sự mơ hồ đã bùng nổ trong hơn một thập kỷ qua. Hầu hết đều tập trung vào việc tìm hiểu về một khái niệm mang tên nhu cầu kết thúc vấn đề. Được phát triển bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Arie Kruglanski, nhu cầu kết thúc vấn đề của một người được đo lường bởi “một khao khát cụ thể nhằm tìm ra đáp án xác định cho chủ đề nào đó, miễn sao đáp án đó không rối rắm và mập mờ”. Cũng như phương pháp giảng dạy ngược đời của Michel Thomas, khái niệm của Kruglanski – và thực tế là một nghiên cứu tâm lý hiện đại về chủ đề sự mơ hồ – có thể truy ngược để thấu hiểu Chủ nghĩa Quốc Xã. Năm 1938, nhà tâm lý học nghiên cứu Chủ nghĩa Quốc Xã tên là Erich Jaensch đã xuất bản cuốn sách Der Gegentypus (tạm dịch: Vật tượng trưng), một cuốn sách đáng ghê tởm trong đó ông mô tả sự chắc chắn là dấu hiệu đáng ngại của sức khỏe tâm thần. Với Jaensch, hành động chịu đựng sự nghi ngờ là bằng chứng của bệnh tâm thần. Sau cuộc chiến, Else Frenkel-Brunswik, một nhà tâm lý học ở Đại học California, đã giới thiệu khái niệm không khoan dung sự mơ hồ. Trong một thí nghiệm, bà cho các đối tượng nghiên cứu xem một chuỗi các hình ảnh, bắt đầu bằng bản phác thảo hình một con chó. Các hình ảnh dần thay đổi hình dạng thành hình một con mèo. Các đối tượng không khoan dung sự mơ hồ – những người có xu hướng nhìn nhận thế giới theo các phạm trù cứng nhắc – khăng khăng một cách cố chấp rằng hình ảnh đó vẫn là con chó. Phát biểu ngược hoàn toàn với Jaensch, Frenkel-Brunswik cho rằng hành động không thể chịu đựng được những thông tin không rõ ràng cho thấy một trạng thái tâm thần không lành mạnh. Kruglanski đưa ra một luận điểm khiêm tốn và có phần nhiễu loạn hơn Frenkel-Brunswik. Ông hiểu rằng con người có nhu cầu giải quyết trạng thái bất định và diễn giải những gì vô nghĩa. Ông lý luận rằng con người sẽ mất đi tính thích nghi nếu chúng ta không có cơ chế thúc đẩy bản thân giải quyết những sự thiếu nhất quán và ra quyết định. Khi không có động lực giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm xong việc gì. Đó là nhu cầu kết thúc vấn đề. Nhưng Kruglanski cũng nghi ngờ rằng xu hướng bài xích sự bất định của chúng ta không bất động. Ông tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu khao khát tìm kiếm các đáp án rõ ràng của chúng ta trở nên quá mạnh? Chuyện gì xảy ra nếu Chủ nghĩa Quốc Xã một phần được châm ngòi bởi sự kết hợp nguy hiểm giữa một lý tưởng đầy căm hờn đi kèm với xu hướng ghét bỏ sự mơ hồ bị thổi phồng của những người ủng hộ? Thực tế, đó là điều mà Kruglanski và những nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra. Như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu “giải quyết những vấn đề còn dang dở” đóng vai trò thiết yếu đối với năng lực hành động của chúng ta ở thế giới này. Nhưng cũng giống như bất kỳ đặc điểm tâm lý nào khác, nhu cầu này có thể bị cường điệu hóa ở vài người và leo thang trong những tình huống nhất định. Như Kruglanski đã nói với tôi: “Tình huống, văn hóa, môi trường xã hội – nếu thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong số đó, bạn sẽ thay đổi nhu cầu kết thúc vấn đề của ai đó.” Tâm lý e sợ sự bất định có thể mang tính lây truyền khi những người xung quanh chúng ta bị lây lan một cách vô thức. Trong các tình huống căng thẳng, chúng ta thường tin tưởng những cá nhân trong nhóm xã hội của chúng ta nhiều hơn và tin tưởng những người ngoài ít hơn. Sự mệt mỏi làm chúng ta ưu ái sự trật tự hơn. Áp lực thời gian cũng vậy. Khi nhu cầu kết thúc vấn đề tăng cao, chúng ta có xu hướng quay về những công thức có sẵn, nhảy thẳng đến các kết luận và từ chối những mâu thuẫn. Chúng ta có thể khăng khăng một cách cứng đầu như Rudolf Schelkmann, rằng con chó vẫn là con chó chứ không phải con mèo. Michel Thomas hiểu rõ sức mạnh của bối cảnh đối với việc mở hoặc đóng tư duy. Ông biết cách dùng sự mơ hồ để thao túng các đòn bẩy tình huống vốn kiểm soát sự thoải mái của chúng ta. Hãy suy nghĩ về việc bối cảnh của CIC ở Ulm đã biến đổi thành những bài học của Thomas ở City & Islington hoàn hảo như thế nào. Muốn khiến các sĩ quan SS chịu áp lực thời gian, ông trả lời nhiều cú điện thoại trong thời gian diễn ra cuộc gặp và bảo đảm rằng sẽ có những “trợ lý” luôn ngắt lời ông. Muốn đe dọa họ, ông trưng đầy vũ khí và các xấp tiền trong căn chòi đi săn. Để khiến các sĩ quan SS rơi vào trạng thái phòng thủ, ông nhốt họ vào một căn nhà an toàn xa lạ. Để khiến họ mệt mỏi và cảm thấy không thoải mái, ông bắt họ đi xe dưới trời mưa, đợi trong cái lạnh và đi qua những vũng nước băng giá. Ngược lại, ở London, Thomas khuyến khích các sinh viên kiên nhẫn. Để các sinh viên được thoải mái, ông nói với họ rằng nhiệm vụ của họ không phải là cố gắng ghi nhớ. Ông thậm chí còn yêu cầu họ khiêng những chiếc bàn học ra khỏi phòng và thay chúng bằng nội thất phòng khách cùng với những tấm rèm bằng liễu gai. Các sinh viên tự sắp xếp không gian học riêng. Để giúp họ kiểm soát bản thân tốt hơn, ông trấn an rằng họ đã quá quen với hàng nghìn từ tiếng Pháp. Thomas đã sử dụng những công cụ trấn áp cảm giác nghi ngờ của các đảng viên Quốc Xã để chống lại họ và sau đó áp dụng cách tiếp cận đối lập để giúp các học viên học tập hiệu quả. Sự đe dọa, cảm giác khó chịu, áp lực thời gian – những đồng minh của Thomas – cũng chính là kẻ thù của ông trong vai trò một giáo viên. Thomas biết cách gia tăng khả năng khiến Schelkmann và các sĩ quan của hắn bỏ qua những mâu thuẫn tiềm năng, ông cũng biết cách gia tăng sự thân thuộc giữa các học viên với một ngôn ngữ xa lạ. Thomas hiểu rằng nhu cầu kết thúc vấn đề không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp đến một trường hợp mơ hồ cụ thể. Những chiếc ghế thoải mái chẳng liên quan gì đến đại từ tiếng Pháp, cũng như những vũng nước lạnh giá chẳng liên quan gì đến việc liệu có nên tin ai đó không. Ông thấy rằng phản ứng của chúng ta trước sự bất định (thậm chí với cả những căng thẳng không liên quan) là cực kì nhạy cảm. Như Kruglanski đã chỉ ra, chúng ta thường không nhận ra một tình huống làm gia tăng hay giảm bớt nhu cầu kết thúc vấn đề, hay việc này ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của chúng ta trước sự mơ hồ. Đó là điều khiến phương pháp của Thomas trở nên quá ấn tượng. Chúng ta thường không nghĩ rằng việc đóng mở tư duy bị ảnh hưởng lớn bởi những tình huống xung quanh. Dù có thể nhận ra ai đó ít nhiều cảm thấy thoải mái với sự bất định, nhưng chúng ta có xu hướng xem đây là một đặc điểm bất biến. Tuy vậy, chúng ta không phụ thuộc vào yếu tố di truyền nhiều như chúng ta nghĩ. Cuốn sách này lập luận rằng chúng ta thường yếu kém trong việc quản lý sự mơ hồ và có thể làm tốt hơn. Vài năm trở lại đây, những khám phá mới trong ngành tâm lý xã hội và khoa học nhận thức đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về cách con người phản ứng trước sự mơ hồ theo hướng mà các nhà nghiên cứu của những năm 1950 không thể đo lường được. Những nghiên cứu đột phá tạo ra các cách tiếp cận mới và thông minh hơn để giải quyết sự mơ hồ trong công việc và các mối quan hệ trong gia đình. Những khám phá này sẽ chỉ ra con đường để sự mơ hồ giúp chúng ta học được những thứ mới mẻ, giải quyết một vấn đề khó khăn hay nhìn thế giới từ một góc nhìn khác. Phần I sẽ trình bày các vấn đề nền tảng liên quan đến sự mơ hồ. Chúng ta sẽ khám phá các lựa chọn tự nhiên trong cơ chế tâm lý của chúng ta và gặp một nhà tâm lý học trẻ tuổi ở Hà Lan, người đang lãnh đạo phong trào hướng đến một lý thuyết mới, thống nhất về cách chúng ta diễn giải thế giới. Phần II tập trung vào các rủi ro của việc chối bỏ sự mơ hồ. Chúng ta sẽ nhìn nhận sự khác biệt giữa “phản ứng thông minh” và “phản ứng vội vã” trước những sự kiện bất định, theo dõi một đàm phán viên lão luyện của FBI đối thoại với một nhà lãnh đạo giáo phái lưỡng lự, và quan sát một tình huống mà trong đó cảm giác thoải mái của một bệnh nhân ung thư đã giúp thay đổi cách đưa ra các quyết định y học. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cách một doanh nghiệp chuẩn bị cho tương lai bằng việc nhận ra sự vô ích của hoạt động dự báo. Phần III nhấn mạnh vào lợi ích của sự mơ hồ trong những bối cảnh mang tính thách thức như: cách tân, học tập hay nghệ thuật. Sự bất định có những công dụng gì? Làm sao để giáo viên có thể chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên trước các thách thức bất định? Liệu hành động ôm ấp sự bất định có giúp chúng ta phát minh hoặc tìm thấy đáp án trong những vùng đất mới, hoặc thậm chí là gia tăng sự cảm thông không? Tại phần này, chúng ta sẽ thấy cách phản ứng của một nhà sản xuất xe mô tô Grand Prix trước một mùa giải thất bại, sau đó chúng ta sẽ làm quen với một nhà sáng chế ở Massachussetts, người đã vượt qua những giới hạn ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng ta sẽ xem xét lợi ích của việc sử dụng song ngữ và gặp một nhà sản xuất phim táo bạo ở Jerusalem. Bên cạnh đó, tôi cũng hy vọng rằng bạn sẽ tin vào một tuyên bố đơn giản: trong một thế giới ngày càng phức tạp, bất định, điều quan trọng nhất không phải là IQ, sức mạnh tâm trí hay sự tự tin vào những gì chúng ta biết, mà là cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không biết. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamie Holmes.
Phụ Nữ Thông Minh Phải Biết Tiêu Tiền - Lois P. Frankel
Mối liên hệ giữa phụ nữ và tiền bạc cũng phức tạp như tất cả các mối quan hệ khác trong cuộc sống của họ vậy. Và đây chính là điều làm nên sự khác biệt của cuốn “Nice girls don’t get rich” (Phụ nữ thông minh phải biết tiêu tiền). Đây không chỉ là cuốn sách về nội dung lên kế hoạch tài chính. Nó còn là một cuốn sách về tư duy tài chính. Cuốn sách kinh doanh hay, cuốn sách lí giải tại sao phụ nữ bị mắc kẹt trong những cách ứng xử và lối suy nghĩ của xã hội cũ và nói về những cách thức riêng mà họ sử dụng để có được tài sản cần thiết cho cuộc sống sung túc của họ - bằng bất kỳ giá nào. Cuốn sách này sẽ không cung cấp cho bạn một bản thiết kế cho kế hoạch tài chính, thay vào đó, nó giúp bạn phát triển bản thân mình. Tôi tin rằng trước tiên bạn phải hiểu lí do bạn hành động, sau đó bạn mới có thể cảnh tỉnh và thu nhận hàng trăm những bí quyết và rồi có thể tận dụng chúng một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nó cũng giống như việc nếu bạn không giảm được hai mươi pound (10kg), bạn không thể nào trở thành người tự do về tài chính chỉ qua một đêm được. Điều quan trọng nhất là, bạn hãy cam kết với chính mình là sẽ hoàn toàn có trách nhiệm đối với những phúc lợi tài chính của bản thân. Một khi bạn làm được điều này, bạn đã chính thức thực hiện tiến trình tạo ra nguồn của cải mà bạn phải làm việc chăm chỉ mới có và xứng đáng có được. *** Khi tôi và biên tập viên tại nhà xuất bản Warner thảo luận lần đầu tiên về việc viết một cuốn sách với nội dung làm sáng tỏ những sai lầm mà phụ nữ mắc phải trên con đường độc lập tài chính và các cách thức sửa chữa, tôi đã do dự. Trên thị trường đã có quá nhiều cuốn sách được viết ra để giúp phụ nữ trở nên giàu có như mong muốn. Tôi nêu ra ý kiến này với một phóng viên của tạp chí Wall Street và cô ấy đã phản đối: “Sao lại không có cuốn sách nào dạy phụ nữ cách đàm phán nhỉ!” Ý tưởng đó đã làm tôi bừng tỉnh. Nếu đã có quá nhiều cuốn sách về chủ đề giúp phái nữ đạt được mục tiêu tài chính, vậy thì tại sao số phụ nữ có cuộc sống nghèo khổ lại luôn nhiều hơn số đàn ông? Tại sao số tiền mà phụ nữ ở độ tuổi 45 đến 54 kiếm được lại ít hơn 28% so với đàn ông? Tại sao sự phân chia tài sản của thế giới lại mất cân bằng giữa phụ nữ và đàn ông? Và điều quan trọng nhất là, tại sao phụ nữ lại không làm theo những lời khuyên bổ ích mà họ thu được qua tất cả các cuốn sách đó? Mối liên hệ giữa phụ nữ và tiền bạc cũng phức tạp như tất cả các mối quan hệ khác trong cuộc sống của họ vậy. Và đây chính là điều làm nên sự khác biệt của cuốn Phụ nữ thông minh phải biết tiêu tiền. Đây không chỉ là cuốn sách về nội dung lên kế hoạch tài chính. Nó còn là một cuốn sách về tư duy tài chính. Cuốn sách lí giải tại sao phụ nữ bị mắc kẹt trong những cách ứng xử và lối suy nghĩ của xã hội cũ và nói về những cách thức riêng mà họ sử dụng để có được tài sản cần thiết cho cuộc sống sung túc của họ - bằng bất kỳ giá nào. Nó hoàn toàn không phải vì chúng ta chỉ kiếm được 77 xu so với mỗi một đô la mà đàn ông kiếm được, và cũng không phải vì chúng ta không nắm giữ vị trí lãnh đạo. Đó là những dấu hiệu, không phải là những lí do. Phụ nữ không thể kiếm được nhiều tiền vì họ nhận được những thông điệp mâu thuẫn nhau trong suốt cuộc đời của họ - từ khi họ còn là những cô gái - về vấn đề làm việc tốt và cư xử đúng mực. Tất cả những cuốn sách với nội dung lên kế hoạch tài chính trên thế giới không thể giúp một ai đó đang đi trên ranh giới giữa một bên là những hiểu biết về trí óc mà cô ta cần quan tâm để có sự an toàn về tài chính và bên kia là cảm giác về việc đạt được nó trong khi vẫn hoàn thành tốt vai trò xã hội của một người nuôi dưỡng, người trông nom nhà cửa, người bảo vệ và người bạn đời. Nhưng một cuốn sách kết hợp tư duy tài chính và kế hoạch tài chính sẽ làm được điều đó - và đây chính là lí do khiến tôi viết ra cuốn sách này. Tiêu đề cuốn sách gần đây của tôi là: Phụ nữ thông minh không ở góc văn phòng: 101 sai lầm phụ nữ thường mắc phải nơi công sở(1), đã khiến nhiều người phải chau mày và đưa ra rất nhiều sự phỏng đoán khi nó lọt vào danh sách bán chạy nhất. Câu hỏi được đặt ra nhiều nhất với tôi - đặc biệt là từ những người đàn ông với giọng điệu hơi có chút mỉa mai là: “Có phải cô muốn nói rằng cô không thể nhu mì nếu làm kinh doanh?” Đây cũng chính là lúc mà tôi biết rằng người đó không hề đọc cuốn sách của tôi. Nếu anh ta đã đọc sách, hẳn anh ta phải biết được sự thật rằng phụ nữ không thể tự mình trở nên “ngoan hiền” để tránh việc trở thành các đối thủ dễ bị hạ gục, thì điểm nhấn của tiêu đề sách cũng như câu nói này tập trung vào từ những cô gái nhiều hơn là vào từ ngoan. Vì lí do khiến phụ nữ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và duy trì công việc họ muốn hoặc tích lũy vốn đầu tư mà họ cần cho một cuộc sống độc lập về tài chính là xu hướng hành xử theo kiểu “những cô gái ngoan” mà họ được dạy bảo từ tấm bé lại trái ngược với việc hành xử như những phụ nữ trưởng thành thông minh, có tài và đáng được tưởng thưởng. Với sự giúp đỡ của người đồng nghiệp - Giáo sư Pam Erhardt, tôi đã tiến hành nghiên cứu những thông điệp tuổi thơ mà phái nữ nhận được về tiền và những sai lầm mà họ mắc phải trên con đường tài chính độc lập. Tôi đã không khỏi ngạc nhiên khi phát hiện ra là những giả thuyết tài chính của chúng ta cho rằng những bé gái luôn nhận được những thông điệp sai về tiền bạc còn các bé trai thì ít hơn là không đúng. Sự thực là, phần lớn những người mà chúng tôi trò chuyện và trao đổi cùng đều nhận được những thông điệp như nhau: “Tiết kiệm cho những ngày khó khăn.” “Không tiêu quá số tiền mà bạn có.” “Tự tạo lập sự độc lập về tài chính cho bản thân.” “Quan sát và xử lý tiền bạc một cách có phương pháp.” “Lên kế hoạch cho cuộc sống sau khi nghỉ hưu từ thời điểm này.” Nói cách khác, các bé gái còn nhận được một vài thông điệp mà hầu hết các bé trai chưa bao giờ được nghe, đó là: “Kết hôn với một người giàu có hay nghèo khổ đều dễ dàng như nhau.” “Đàn ông am hiểu về tiền hơn phụ nữ.” “Tiền không thể mua được hạnh phúc.” “Bàn luận về tiền bạc là việc làm thô bỉ.” “Sống tốt còn hơn là sống giàu sang.” “Phái nữ thường không giỏi môn toán.” .. Mời các bạn đón đọc Phụ Nữ Thông Minh Phải Biết Tiêu Tiền của tác giả Lois P. Frankel.
Con Đường Thành Đạt Của Phụ Nữ Không Phải Ở Nơi Bạn Bắt Đầu Mà Là Ở Nơi Bạn Kết Thúc - Gillian Hennessy-Ortega
Phòng họp lớn ở trung tâm Kansas City Convention đầy ắp người khi một phụ nữ ngả người lấy chiếc áo khoác da từ tay một người đàn ông. Khi cô ta khoác chiếc áo ấy lên người, bạn có thể thấy nó không chỉ là một chiếc áo khoác bằng da mà nó còn là chiếc áo thể hiện hình ảnh của lá cờ Mỹ. Quân đội Mỹ đã vừa đổ bộ lên Irắc và khi khán giả thấy chiếc áo khoác ấy thì tiếng nói chuyện huyên náo và mọi đôi mắt đều tập trung vào người mặc chiếc áo khoác đó khi cô ấy bắt đầu phát biểu. Cô ấy đề cập đến những bước khởi đầu khiêm tốn của mình ở Ireland và những sự phấn đấu trong quá khứ của cô. Cô ấy cho biết khi đến Mỹ trong túi cô chỉ vỏn vẹn có tờ giấy bạc trị giá hơn 20 đô la. Sau đó cô nói đến câu chuyện về một cô gái Ireland với những bước khởi đầu nghèo hèn đã vượt qua được nghịch cảnh và đạt được sự thành công vượt bực ở xứ lạ quê người ra sao khiến người ta phải cảm động. Một bài nói chuyện hết sức truyền cảm, nhưng buổi tối ấy chưa kết thúc ở đó. Cô ấy mời bất cứ khán giả nào có chồng, con trai hoặc thân nhân phục vụ trong quân đội Mỹ đứng lên. Từng người một, đến hàng trăm người đã đứng lên cho biết họ có người nhà phục vụ trong quân đội. Trong một lúc dường như người ta đứng bất động khi một bài hát bắt đầu phát ra từ những chiếc loa phóng thanh ở trung tâm ấy. Đó là bài “Tự hào là một người Mỹ” của Lee Greenwood. Không đến ba phút sau, ở trong khán phòng không còn đôi mắt nào không rướm nước mắt. Câu chuyện hấp dẫn của chính cô kết hợp với sự nhiệt tình của cô về đất nước ấy đã tạo cho cô cơ hội để sống, nó chính là một bằng chứng hùng hồn nhất về khả năng tiềm tàng ở trong tất cả mọi người chúng ta đều có thể vượt lên nghịch cảnh và sống một cuộc sống sung túc. Đó là lời giới thiệu của tôi về Gillian Hennessy-Ortega, một câu chuyện về một cô gái Ireland nhỏ bé mới đầu nghèo hèn đã trở nên rất đỗi giàu có, cô đã đến đất Mỹ và trở nên yêu thương quê hương xứ sở mới của mình thật dạt dào. Tất cả những gì đã xảy ra ở khán phòng đó chính là “Gillian”. Sau khi viết cuốn More Than a Pink Cadillac (Hơn một Chiếc Cadillac tốt nhất), tôi được mời đi tham quan nhiều nơi ở Bắc Mỹ và nói về cuốn sách ấy. Khi tôi đi hết chỗ này tới chỗ khác ở Mỹ, Canada và được đi tham quan cùng với nhiều nhân viên tư vấn trong số một triệu Nhân Viên Tư Vấn Sắc Đẹp Độc Lập (Independent Beauty Consultant) làm việc với cô ấy, tôi đã nghe được nhiều câu chuyện về “Gillian.” Đó là lý do tại sao khi được cho cơ hội đọc bản thảo của cuốn sách đầu tay của cô ấy, tôi không những muốn đọc toàn bộ bản thảo mà còn muốn những người khác cũng đọc được cuốn sách này. Khi đọc cuốn sách ấy, tôi thấy nhiều ý tưởng cuốn hút và đem lại khả năng cho bất cứ ai muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn hoặc muốn thay đổi tương lai của họ. Điều đáng nói là nếu tôi tìm được một thứ ở trong số những người thật sự thành đạt đều có, thì đó chính là nghịch cảnh đầy cam go mà hầu hết người ta đều phải vượt qua để thành công. Một trong những điều quan trọng mà Gillian trình bày trong cuốn sách này sẽ chỉ rõ sự thành công của cá nhân không theo một công thức hoặc đạt đến một mục tiêu nhất định nào cả. Cô ấy đưa ra cảnh ngộ thật thích hợp cho việc gắn bó cuộc sống bằng khả năng tự làm chủ lấy bản thân, sự xuất sắc cá nhân và thái độ đạo đức. Tôi tin cô ấy đúng: Sự thành đạt không đòi hỏi phải xử lý gì nhiều về cách tiến hành công việc hơn là phải ứng xử bằng tính cách của cá nhân. Gillian bắt đầu cuốn sách với phần tóm lược về cuộc đời của chính mình và những nghịch cảnh cô đã phải đối diện khi còn là một thiếu nữ ở Ireland. Ở các chương kế tiếp, cô ta viết về những vấn đề cơ bản liên quan đến tính cách và cá nhân mà chúng tạo nền tảng cho sự thành đạt cá nhân. Cô ta minh họa mỗi ý tưởng bằng một câu chuyện về người nào đó mà cô quen biết trong lực lượng kinh doanh độc lập của công ty Mary Kay, nhân vật đã cố gắng đạt được phẩm chất đó. Cô ấy cũng giải thích ở hầu hết mọi chương các ưu tiên hàng đầu của Mary Kay là “nhất Thượng đế, nhì gia đình và ba công việc” là phương tiện để đem lại sự thành công của những cá nhân này như thế nào. Tôi tin là bạn thấy cuốn sách này sẽ làm cho mình có hứng thú tìm kiếm sự xuất sắc trong cuộc sống của chính bạn. Nếu vào lúc nào đó trong cuộc sống của bạn khi bạn cần có cảm hứng hoặc phương hướng, thì tôi đề nghị bạn đọc cuốn sách này. Thực sự bạn cũng nên đọc nó nếu bạn dễ dàng bị thối chí, nếu bạn cảm thấy mình bị sa lầy ở một nghề nghiệp làm cho mình không mấy tiến bộ hoặc không thể thăng tiến được. Đây là cuốn sách nói về việc vượt lên khỏi nghịch cảnh và trở thành một người kiệt xuất. Nó không chỉ là một cuốn sách có thể áp dụng cho những người ở trong lĩnh vực kinh doanh. Tôi tin những nguyên tắc này sẽ giúp ích cho bạn, bất kể sự lựa chọn cho tương lai của bạn ở đâu. Tôi hy vọng cũng giống như tôi, bạn sẽ thấy cuốn sách này thật thú vị. Mời các bạn đón đọc Con Đường Thành Đạt Của Phụ Nữ Không Phải Ở Nơi Bạn Bắt Đầu Mà Là Ở Nơi Bạn Kết Thúc của tác giả Gillian Hennessy-Ortega.
Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật
Chẳng có ai từ khi sinh ra đã có tài sản, đồ đạc gì trong tay. Vậy nên bất cứ ai khi mới chào đời đều là những người sống tối giản. Cứ mỗi lần bạn sở hữu trong tay những đồ dùng hơn mức cần thiết là một lần bạn lấy mất tự do của chính mình. Giá trị bản thân chúng ta không đo bằng những đồ dùng mà chúng ta sở hữu. Những đồ dùng này chỉ cho chúng ta một chút cảm giác hạnh phúc nhất thời mà thôi. Mang theo những đồ dùng hơn mức cần thiết sẽ lấy hết thời gian, năng lượng của bạn. Khi nhận ra được điều đó, tức là bạn đã bắt đầu trở thành một người sống tối giản. Những người sống tối giản luôn cảm thấy vui vẻ, mới lạ mỗi ngày. Cái cảm giác này, tôi nghĩ bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được, dù bạn có phải là một người sống tối giản hay không, bởi bất cứ ai. Lối sống tối giản của người Nhật gồm có năm chương, trong đó, chương một, tác giả sẽ giới thiệu cho bạn lối sống tối giản là gì, đưa ra định nghĩa của anh về nó. Sau đó anh sẽ đưa ra lý do vì sao mình lại theo lối sống này sau nhiều năm sống trong căn phòng của bản thân. Chương hai tác giả sẽ đề cập đến tại sao sau ngần ấy năm, đồ đạc trong nhà lại chất nhiều đến thế. Những đồ đạc được tích tụ lại do thói quen hay nhu cầu của con người này mang ý nghĩa gì? Chương ba là những bí quyết để cắt giảm đồ đạc trong nhà. Tác giả sẽ đưa ra cho bạn những quy tắc cụ thể, những phương pháp để có thể giảm bớt đồ đạc trong nhà. Thêm vào đó cũng sẽ giới thiệu cho bạn danh sách bổ sung 15 điều cho những người muốn tối giản hơn nữa cùng với toa thuốc cho “căn bệnh muốn vứt bỏ”. Chương bốn, những thay đổi của chính tác giả sau khi dọn hết đồ đạc trong nhà. Kèm theo đó, anh còn phân tích và khảo sát thêm về các kết quả nghiên cứu tâm lý học. Cuối cùng chương năm, tiếp nối ý từ chương bốn, tác giả sẽ giải thích tại sao những thay đổi của bản thân lại dẫn đến “hạnh phúc”. Để hiểu sâu hơn về lối sống tối giản, bạn nên đọc hết từ chương một đến chương bốn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đọc riêng từng chương. Thậm chí chỉ cần đọc chương ba cũng có thể giúp bạn cắt giảm được đồ đạc của mình. Trong cuốn sách này, “lối sống tối giản” được hiểu là: 1) giới hạn tối thiểu cần thiết cho bản thân và 2) vứt bỏ tất cả mọi thứ trừ những thứ quan trọng. Và những người sống theo lối sống đó gọi là người sống tối giản. *** Trong chương một, tôi sẽ giới thiệu cho bạn lối sống tối giản là gì, đưa ra định nghĩa của tôi về nó. Sau đó tôi sẽ đưa ra lý do vì sao tôi lại theo lối sống này sau nhiều năm sống trong căn phòng của mình. Chương hai tôi muốn đề cập đến tại sao sau ngần ấy năm, đồ đạc trong nhà lại chất nhiều đến thế. Những đồ đạc được tích tụ lại do thói quen hay nhu cầu của con người này mang ý nghĩa gì? Chương ba là những bí quyết để cắt giảm đồ đạc trong nhà. Tôi sẽ đưa ra cho bạn những quy tắc cụ thể, những phương pháp để có thể giảm bớt đồ đạc trong nhà. Thêm vào đó tôi cũng sẽ giới thiệu cho bạn danh sách bổ sung 15 điều cho những người muốn tối giản hơn nữa cùng với toa thuốc cho “căn bệnh muốn vứt bỏ”. Chương bốn, những thay đổi trong tôi sau khi dọn hết đồ đạc trong nhà. Nó không đơn thuần chỉ là cắt giảm đồ đạc, mà là những mặt tích cực sau khi tôi giảm đồ đạc xuống mức tối thiểu, và những “hạnh phúc” mà tôi cảm nhận sau khi thực hiện điều đó. Kèm theo đó, tôi còn phân tích và khảo sát thêm về các kết quả nghiên cứu tâm lý học. Chương năm, tiếp nối ý từ chương bốn, tôi giải thích tại sao những thay đổi trong tôi lại dẫn đến “hạnh phúc”. Để hiểu sâu hơn về lối sống tối giản, bạn nên đọc hết từ chương một đến chương bốn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đọc riêng từng chương. Thậm chí chỉ cần đọc chương ba cũng có thể giúp bạn cắt giảm được đồ đạc của mình. Trong cuốn sách này, “lối sống tối giản” được hiểu là: 1) giới hạn tối thiểu cần thiết cho bản thân và 2) vứt bỏ tất cả mọi thứ trừ những thứ quan trọng. Và những người sống theo lối sống đó gọi là người sống tối giản. Mời bạn đón đọc Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật của tác giả Sasaki Fumio..