Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn

Nathan Fawles là một nhà văn nổi tiếng, đã tuyên bố ngừng viết và đến ẩn mình trên đảo Beaumont nơi người dân sống tách biệt với phần còn lại của thế giới. Khát khao gặp gỡ thần tượng đời mình, Raphaël, một nhà văn tập sự, đã một ngày kia cập bến đảo, cùng thời điểm với Mathilde, một nữ phóng viên trẻ tuổi có phần bí ẩn. Giữa ba con người tưởng chừng xa lạ ấy liệu có tồn tại mối dây liên kết nào? Cái xác người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo thuộc về ai? Cũng như mười lăm cuốn tiểu thuyết trước, Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn níu chân người đọc ngay những dòng đầu tiên. Cốt truyện được xây dựng hoàn hảo, cuốn ta vào một mê cung trinh thám tâm lý nơi số phận ba nhân vật chính đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nói như Bernard Lehut từ kênh RTL, thì đây thực sự là “một cốt truyện đỉnh cao, một tác phẩm ly kỳ hồi hộp, một trò ‘gương phản chiếu’ khéo léo giữa tác giả và độc giả.” “Thông điệp từ Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn chắc chắn là lời tỏ tình tuyệt đẹp mà Musso dành cho việc đọc, và cả việc viết.”       - Elle *** “Mọi người đều có ba cuộc sống: Cuộc sống riêng tư, cuộc sống công khai và cuộc sống bí mật…” – Gabriel García Márquez Cuộc sống bí mật của các nhà văn (La vie secrète des écrivains) là cuốn sách thứ 16 của Guillaume Musso, đã được xuất bản ở Pháp vào đầu năm 2019. Nhã Nam đã nhanh chóng mua bản quyền và như thường niên, vào cuối năm 2019 cuốn sách đã nhanh chóng ra mắt với người đọc. Ngay sau khi mở bán, Cuộc sống bí mật của các nhà văn đã đạt được con số kỉ lục 32 triệu bản phát hành trên khắp thế giới. Vốn là nhà văn vô cùng được yêu thích ở Pháp, các tác phẩm của ông được độc giả đón đọc rất nhiều. Không chỉ vậy, sức hút của ông ở Việt Nam vô cùng lớn với lượng người hâm mộ hùng hậu. Có thể nói Guillaume Musso là một trong những nhà văn đương đại Pháp được hâm mộ nhiều nhất. Marc Levy cũng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng của Pháp, nhưng những tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình cảm. Trong khi đó Guillaume Musso cũng viết về tình cảm đan xen cùng với trinh thám, hành động. Đây là một điểm đặc trưng và cuốn hút của những tác phẩm của ông, điều đã làm nên thành công của Guillaume Musso.   Cuộc sống bí mật của các nhà văn xoay quanh ba nhân vật chính: Nathan Fawles, Mathilde Monney và Raphaël Bataill. Nathan đã từng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng, sau ba tác phẩm vô cùng nổi tiếng của ông là Loreleï Strange, Một thành phố nhỏ ở Mỹ- đạt được danh hiệu Pulitzer và Những kẻ bị sét đánh, Nathan đã quyết định gác lại sự nghiệp và lui về ở ẩn. Sự việc này khiến báo chí và giới công chúng vô cùng bàng hoàng. Trước khi kết thúc sự nghiệp viết, Nathan đã trả lời vô số các cuộc phỏng vấn của báo chí nhưng không ai là biết được lí do tại sao Nathan lại từ bỏ công nghiệp này khi đang đứng trên đỉnh cao sự nghiệp. Điều gì đã khiến Nathan Fawles từ bỏ danh vọng, tiền bạc? Cuộc sống bí mật của các nhà văn được kể theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của Raphaël Bataill, một anh chàng yêu thích việc viết lách nhưng đã bị từ chối xuất bản cuốn sách đầu tay mới viết xong. Nản chí, anh nghĩ rằng tác phẩm của mình có thể được nhận xét và sửa lỗi khi anh gặp được vị thần tượng của mình: Nathan Fawles. Khi cánh cửa cơ hội gõ cửa thì Raphaël đã nhanh chóng nhắm bắt lấy, anh đã xin một công việc tạm thời trên đảo Beaumont- nơi Nathan đang sinh sống để có thể tiếp cận với ông. Một nữ nhà báo Mathilde Monney cũng có mặt trên hòn đảo Beaumont với mục đích là tiếp cận Nathan, nhưng ngoài việc tìm ra lí do bỏ sự nghiệp viết văn của Nathan thì cô ta còn có những mục đích khác. Thêm vào đó, cùng với sự xuất hiện của Mathilde thì còn kéo theo một vụ án trên đảo. Vậy mối liên kết của cả ba con người là gì? Sự xuất hiện cùng lúc của Mathilde có liên quan gì tới cái chết bí ẩn của người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo.  Có thể nói Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại là một thành công nối tiếp tác phẩm trước đó- Cô gái và màn đêm. Đặc biệt hơn nữa là tác phẩm này hoàn toàn thuần chất trinh thám, hành động, và không có những chi tiết tình cảm được đan xen như các tác phẩm trước. Cùng với cốt truyện lôi cuốn, dàn nhân vân của truyện đều để lại những hình ảnh mà Musso muốn khắc hoạ Dàn Nhân Vật Nathan Fawles, nhân vật trọng tâm của cuốn sách , là một nhà văn giấu bao điều bí mật. Trước sự rời bỏ danh vọng và lui về ở ẩn của ông, không một ai biết được lí do thực sự khiến nhà văn làm chuyện đấy.  “ Điều cốt yếu là thứ nhựa sống tưới tắm cho câu chuyện của cậu. Thứ nhựa sống phải chiếm hữu cậu và lan khắp cơ thể cậu như một luồng điện. Thứ nhựa sống phải thiêu đốt những huyết quản trong cậu để cậu không thể làm gì khác ngoài đi đến tận cùng cuốn tiểu thuyết như thể cuộc sống của cậu phụ thuộc cả vào đó. Viết chính là vậy. Chính thứ đó sẽ khiến độc giả của cậu cảm thấy bị giam cầm, chìm đắm và họ sẽ đánh mất những dấu mốc của bản thân để mặc mình bị nhấn chìm như chính cậu từng bị vậy.” Dù không ưa Raphaël, và để đạt được sự trợ giúp của cậu thì Nathan đã miễn cưỡng đưa ra lời khuyên cho cuốn tiểu thuyết của cậu. Tuy nhiên, những lời khuyên đó lại chân thật, nó xuất phát từ trái tim của một nhà văn thực sự yêu nghề, quý trọng với nghiệp viết và có nhiều kinh nghiệm trong việc này. Chỉ với đó thôi mà người đọc có thể dễ dàng hình dung ra con người của Nathan- một nhà văn thực sự tâm đắc với nghề. Lí do thực sự khiến ông bỏ nghiệp viết không ai biết, nhưng Raphaël tin chắc rằng vị cứu tinh này có thể giúp mình, và nhờ vào những lời khuyên chân thành của Nathan thì anh đã có thêm cảm hứng để viết nên cuốn tiểu thuyết thứ hai của bản thân- Cuộc sống bí mật của các nhà văn. “ Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là biết lôi cuốn độc giả bằng một câu chuyện hay. Một câu chuyện có khả bứt độc giả khỏi cuộc sống riêng để phóng chiếu họ vào giữa sự riêng tư và sự thật về các nhân vật. Văn phong chỉ là phương tiện phân bổ câu chuyện và giúp câu chuyện trở nên cuốn hút.” Dù chỉ là một nhà văn tập sự chưa hề có tiếng tăm, nhưng Raphaël đã có những quan điểm, nhận xét đúng đắn về một nhà văn. Anh coi trọng phẩm chất cần có của một nhà văn, họ nên đặt hết tâm huyết của mình vào cuốn tiểu thuyết, chứ không phải những cuốn sách rẻ tiền.  Một nhà văn giỏi là khi anh ta có thể hút người đọc vào trong chính thế giới của câu chuyện. Khi độc giả đọc không ngừng nghỉ một cuốn sách, và sau đó là nhận ra được những giá trị bài học và thậm chí thấy bản thân của họ trong đó, thì nhà văn đó thực sự thành công.  Do được kể từ điểm nhìn của Raphaël nên mọi quan điểm của anh được thể hiện rất rõ ràng. Đó như thể chính là những điều mà tác giả Musso muốn dành tặng cho độc giả của mình. Musso như thể đã hoá thân vào chính nhân vật của mình để truyền tải những quan điểm của bản thân. Mathilde Monney là một nhân vật nữ khác biệt so với những cuốn sách khác của Guillaume Musso. Cô là một càng nàng cá tính, thông minh mưu mẹo, dám hành động một cách nguy hiểm để đạt được mục đích. Và đặc biệt hơn, là cô có những bí mật bị chôn vùi. Những bí mật mà một tai nạn năm xưa đã để lại, khiến cô mất đi trí nhớ và sống khi không hề hay biết gì. Chính vì vật ngay khi đã biết được sự thật cô đã có một kế hoạch, kế hoạch để trả thù. “- Một cuốn tiểu thuyết hay là gì?   – Bạn sáng tạo ra các nhân vật gợi nên tình yêu và sự cảm thông trong độc giả. Rồi bạn giết chết các nhân vật này. Và bạn khiến độc giả của mình tổn thương. Bấy giờ, họ sẽ luôn nhớ đến tiểu thuyết của bạn.” – John IRVING Cái kết của truyện, cú twist ở những trang cuối như cái tát của Musso dành cho độc giả của mình vậy! Bao bí ẩn, bất ngờ, sự thật bị giấu kín đều phơi bày trước ánh sáng. Người đọc phải há hốc mồm vì ngạc nhiên, trời ơi tại sao Musso lại làm vậy! Thử tưởng tượng khi cuốn sách đi được hơn 2/3 chặng đường rồi, thì nhân vật chính của câu chuyện chết? Hầu như chả bao giờ có tác giả nào dám làm vậy! Nhân vật chính sinh ra để kể chuyện, để truyền tải thay những điều tác giả muốn nói, thử hỏi có ai lại muốn giết nhân vật chính của mình! Thế nhưng đây là Guillaume Musso, điều gì cũng có thể xảy ra trong câu chuyện của ông, người đọc phải nán lại đến những dòng chữ cuối cùng để tìm ra được sự thật. Với cú lừa đầy bất ngờ ở cuối, Guillaume Musso đã khiến bao con tim bị tổn thương. Cho độc giả yêu nhân vật của mình, rồi lại để họ bị tổn thương và có cảm giác bị lừa, Musso thật đúng là tài tình trong việc kể nên một câu chuyện giả tưởng. Đây cũng chính là lí do tại sao Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại đặc biệt hơn bao giờ hết! Kết Với bất kì fan của Musso, đừng do dự mà hãy đọc ngay cuốn sách này. Còn với những ai muốn biết thêm về ông, Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một trải nghiệm tuyệt vời để tiếp cận với văn phong của ông. Chắc chắn độc gỉa không hề thất vọng khi đặt cuốn sách này xuống! Không chỉ vén màn lên sự thật đằng sau ánh hào quang của một nhà văn, những thông điệp truyền tải của Musso vô cùng rõ ràng và nhân văn. Thêm vào đó, những câu quote đầy chất lượng đến từ chính Musso và nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng được thu thập và mỗi câu quote đều đại diện cho ý nghĩa của mỗi chương truyện. Ngòi bút khắc hoạ nhân vật của Guillaume Musso vẫn tài tình như thế, ông tạo được sự đồng cảm dành cho nhân vật của mình, nhân vật của ông có thể đáng ghét hay thông minh, dũng cảm, họ đều để lại dấu ấn cho người đọc. Độc giả sẽ dần dần yêu những nhân vật Musso tạo ra, và rồi chính họ sẽ để lại bao bất kì dành cho độc giả. Với những ai đang chập chững trên con đường trở thành nhà văn, hoặc đơn giản là yêu thích sách, thì Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một sự lựa chọn tuyệt vời. Chắc chắn cuốn sách thứ 16 này của Guillaume Musso sẽ đem đến những cảm xúc tuyệt vời cho độc giả. *** Bí ẩn Nathan Fawles (báo Le Soir - ngày 4 tháng Ba 2017) Vắng bóng trên văn đàn suốt gần hai chục năm qua, tác giả cuốn Loreleï Strange huyền thoại vẫn thực sự mê hoặc độc giả ở mọi lứa tuổi. Sau khi lui về ở ẩn trên một hòn đảo thuộc Địa Trung Hải, nhà văn nhất quyết từ chối mọi lời mời mọc của giới truyền thông. Sau đây là cuộc điều tra về kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont. Người ta gọi đó là hiệu ứng Streisand: càng tìm cách che giấu bao nhiêu, bạn càng thu hút sự tò mò bấy nhiêu. Kể từ khi đột ngột rút khỏi thế giới văn chương vào năm ba mươi lăm tuổi, Nathan Fawles là nạn nhân của cơ chế tai ác này. Cuộc sống của nhà văn người Mỹ lai Pháp này như được một vầng hào quang huyền ảo bao quanh và làm nảy sinh hàng loạt chuyện ngồi lê đôi mách cùng những lời đồn thổi suốt hai thập kỷ qua. Fawles sinh năm 1964 tai New York, cha là người Mỹ, mẹ là người Pháp, tuổi thơ của ông diễn ra trọn vẹn tại Paris và ông chỉ quay trở lại Mỹ để hoàn thành việc học, trước tiên là tại Học viện Phillips, sau đó là tại Đại học Yale. Tốt nghiệp chuyên ngành Luật và Khoa học Chính trị nhưng sau đó ông lại dốc hết sức mình cho sự nghiệp nhân đạo, với vài năm làm việc trên thực địa cho tổ chức Hành động chống lại nạn đói và Bác sĩ không biên giới, nhất là tại Salvador, Armenia và Kurdistan. Văn sĩ thành công Năm 1993, Nathan Fawles quay trở lại New York và xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Loreleï Strange, hành trình đầu đời của một nữ thiếu niên bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần. Thành công không đến ngay tức khắc, nhưng chỉ sau vài tháng, nhờ những thông tin truyền miệng - đặc biệt trong giới độc giả trẻ - cuốn tiểu thuyết đã vươn lên đứng đầu danh sách sách bán chạy. Hai năm sau, với cuốn sách thứ hai nhan đề Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn tiểu thuyết hợp xướng uyên bác dày ngót ngàn trang, Nathan Fawles đã đoạt giải Pulitzer và nổi lên như một trong những giọng văn độc đáo nhất của văn đàn Mỹ. Cuối năm 1997, lần đầu tiên tiểu thuyết gia khiến giới văn chương sửng sốt. Sau khi định cư ở Paris, ông xuất bản cuốn sách mới của mình trực tiếp bằng tiếng Pháp. Những kẻ bị sét đánh là một câu chuyện tình đau thương đến xé lòng, nhưng cũng là một suy tưởng về nỗi đau trước cái chết, cuộc sống nội tâm và quyền năng của viết lách. Chính vào dịp này, công chúng Pháp đã thực sự khám phá ra ông, đặc biệt khi ông tham gia một ấn bản đặc biệt của Nồi hầm văn hóa cùng Salman Rushdie, Umberto Eco và Mario Vargas Llosa. Chương trình hồi tháng Mười một năm 1998 này chính là hoạt động truyền thông áp chót của ông. Quả nhiên, bảy tháng sau, khi vừa bước sang tuổi ba mươi lăm, Fawles đã thông báo việc mình quyết định ngừng viết hẳn trong cuộc trả lời phỏng vấn đầy sắc bén với hãng thông tấn AFP. Kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont Kể từ ngày đó, nhà văn vẫn giữ vững quan điểm của mình. Sống trong căn nhà riêng tại đảo Beaumont, Fawles không còn công bố bất kỳ bản thảo nào dù ngắn nhất, cũng không đồng ý trả lời phỏng vấn bất cứ phóng viên nào. Ông còn từ chối mọi đề xuất chuyển thể các tiểu thuyết của mình sang lĩnh vực điện ảnh hoặc truyền hình (mới đây Netflix và Amazon tiếp tục thất bại trong phi vụ này, bất chấp những đề xuất tài chính vô cùng hấp dẫn, theo như lời họ). Chẳng mấy chốc là tròn hai chục năm, sự im lặng chát chúa của “kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont” không ngừng nuôi dưỡng những ảo tưởng. Tại sao Nathan Fawles lại chọn cách tự nguyện rời xa thế giới như vậy khi mới ba mươi lăm tuổi, lại đang ở tột đỉnh vinh quang? “Làm gì có bí ẩn Nathan Fawles, Jasper Van Wyck, người bấy lâu vẫn là đại diện của nhà văn cam đoan. Chẳng có bí mật nào để khám phá đâu. Đơn giản là Nathan đã chuyển sang làm việc khác. Anh ấy đã ngừng hẳn việc viết lách và đoạn tuyệt với giới xuất bản.” Khi được hỏi về cuộc sống thường nhật của nhà văn, Van Wyck vẫn tỏ ra mập mờ: “Theo như tôi được biết, Nathan đang chuyên chú vào những mối quan tâm riêng.” Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình Để chận đứng mọi trông mong của độc giả, người đại diện này nói rõ rằng tác giả “không còn viết một dòng nào nữa từ hai chục năm nay” và tỏ ra dứt khoát: “Nếu Loreleï Strange thường xuyên được so sánh với Bắt trẻ đồng xanh, thì Fawles lại không như Salinger: trong nhà anh ấy không có két sắt chứa đầy bản thảo. Cũng sẽ không bao giờ có cuốn tiểu thuyết mới nào ký tên Nathan Fawles. Ngay cả sau khi anh ấy qua đời. Đó là điều chắc chắn.” Một lời cảnh báo chẳng đời nào làm nản lòng những kẻ tò mò tìm hiểu thêm. Năm tháng trôi qua, nhiều độc giả lẫn phóng viên đã lên đường tìm tới tận đảo Beaumont để lảng vảng rình mò quanh nhà Fawles. Họ luôn thấy cửa nhà im ỉm đóng. Dân trên đảo dường như cũng sinh nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên tại một nơi mà thậm chí từ trước khi nhà văn chuyển tới sinh sống, câu châm ngôn Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình đã được nâng tầm thành khẩu hiệu. “Tòa thị chính không chia sẻ danh tính cư dân, bất kể nổi tiếng hay không,” viên trợ giúp thị trưởng chỉ nhấn mạnh như vậy. Hiếm người dân đảo nào đồng ý nói về nhà văn. Những người chấp nhận trả lời chúng tôi coi sự hiện diện của tác giả cuốn Loreleï Strange trên đất của họ là chuyện rất đỗi bình thường. “Nathan Fawles không ở ru rú trong nhà mà cũng chẳng co rúm người, Yvonne Sicard, vợ của bác sĩ duy nhất trên đảo, cam đoan. Chúng tôi thường xuyên gặp ông ấy ngồi sau vô lăng chiếc Mini Moke khi tới Ed’s Corner, siêu thị duy nhất của thành phố, để mua sắm.” Nhà văn cũng thường xuyên tới quán rượu trên đảo, “nhất là khi có buổi tiếp phát các trận đấu của đội Olympique Marseille,” chủ quán rượu nói rõ. Một trong những khách quen của quán nhận xét “Nathan không phải kiểu người cục cằn thô lỗ như báo chí đôi khi miêu tả. Đó đúng ra là một tay đáng mến thông thạo bộ môn túc cầu và chuộng rượu whisky Nhật.” Chủ đề trò chuyện duy nhất có thể khiến nhà văn nổi cáu: “Nếu anh cố gắng mắc nối tới những cuốn sách Fawles viết hoặc tới văn chương, rốt cuộc ông ấy sẽ rời khỏi phòng.” Một khoảng trống trong văn chương Về phần các đồng nghiệp của Fawles, ta thấy nhiều người phục tùng ông vô điều kiện. Thí dụ như Tom Boyd, vốn luôn dành cho ông lòng ngưỡng mộ vô bờ bến. “Tôi nợ Fawles một vài trong số cảm xúc đẹp nhất có được từ việc đọc nên hiển nhiên, ông ấy thuộc số những nhà văn mà tôi mắc nợ.” tác giả Bộ ba thiên sứ cả quyết. Lại thêm ý kiến của Thomas Degalais cho rằng Fawles đang xây dựng ba cuốn sách hết sức khác biệt thành một tác phẩm độc đáo sẽ làm nên lịch sử. “Dĩ nhiên, tôi cũng như tất cả mọi người đều tiếc nuối khi ông ấy rút khỏi văn đàn, tiểu thuyết gia người Pháp bày tỏ. Thời đại chúng ta thấy nhớ giọng văn ông ấy. Tôi mong Nathan quay lại đấu trường bằng cách viết một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng tôi nghĩ chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra.” Quả nhiên, có thể là vậy, nhưng đừng quên rằng Fawles đã chọn câu nói sau trong Vua Lear làm tiểu dẫn cho cuốn tiểu thuyết sau cùng của mình: “Chính những ngôi sao, những ngôi sao trên cao vời vợi kia, đang chi phối cuộc sống của chúng ta.” Jean-Michel Dubois NHÀ VĂN KHÔNG VIẾT NỮA Nhà xuất bản Calmann-Lévy Số 21 phố Montparnasse 75006 Paris Số định danh: 379529 Ông Raphaël Bataille Số 75 đại lộ Aristide-Briand 92120 Montrouge Paris, ngày 28 tháng Năm năm 2018 Thưa ông, Chúng tôi đã nhận được bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh caocủa ông, và xin cảm ơn ông vì đã tin tưởng Nhà xuất bản chúng tôi. Bản thảo của ông đã được ban thẩm định của chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng thật đáng tiếc, bản thảo không phù hợp với dạng tác phẩm mà chúng tôi hiện đang tìm kiếm. Chúng tôi chúc ông sớm tìm ra một nhà xuất bản cho bản thảo này. Trân trọng, Ban thư ký văn học TB: bản thảo của ông vẫn được lưu tại chỗ chúng tôi trong vòng một tháng nữa. Vậy trong trường hợp muốn nhận lại bản thảo này qua đường bưu điện, làm ơn gửi cho chúng tôi một phong bì dán sẵn tem. Mời bạn đón đọc Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn của tác giả Guillaume Musso & Phúc Chi Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Về Phía Mặt Trời - Matthew Quick
Không cần những tình tiết giật gân, tiểu thuyết của Matthew Quick hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện cảm động, nhẹ nhàng với lối kể chuyện dí dỏm. Không giống như một số tác giả cùng thời, hướng ngòi bút đến những câu truyện trinh thám giật gân hồi hộp hay các câu chuyện tình cảm lãng mạn. Ngòi bút của Matthew Quick giàu tính nhân văn, anh tập trung vào những câu chuyện đời thường với những con người chịu nhiều tổn thương trong cuộc sống. Hai nhân vật Pat và Tiffany trong tiểu thuyết Về phía mặt trời là một ví dụ. Pat, một anh chàng vừa rời khỏi bệnh viện tâm thần, và Tiffany - cô gái trẻ góa bụa bỗng tìm thấy nhau. Họ giúp đối phương chữa lành những vết thương và tìm lại niềm tin trong cuộc sống. Cái kết hạnh phúc của Pat và Tiffany là minh chứng mạnh mẽ nhất về sức mạnh của tình yêu. Đến nay các tác phẩm của Matthew Quick đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, được vinh danh tại lễ trao giải PEN/ Hemingway Award, lọt vào chung khảo LA Time Book Prize. Năm 2013, Matthew Quick lọt vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới của tạp chí Time. *** Matthew Quick sinh năm 1973 tại Oaklyn một thành phố có lịch sử hơn 100 năm thuộc tiểu bang New Jersey, Mỹ. Năm 1996, anh tốt nghiệp đại học La Salle với bằng kép về văn học Anh và Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, Matthew Quick trở thành một giáo viên dạy văn ở một trường trung học ở New Jersey. Sau thời gian dài, đứng trên bục giảng, năm 2004, Matthew Quick bỏ nghề giáo để tập trung cho sự nghiệp sáng tác. Năm 2008, cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh The Silver Linings Playbook được xuất bản. Ngay lập tức cuốn sách đã nhận được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Trong suốt nhiều tuần, đây là cuốn sách bán chạy nhất theo tạp chí The New York Time. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Về phía mặt trời. Năm 2012, cuốn tiểu thuyết này đã được đạo diễn David O. Russell đưa lên màn ảnh rộng và bộ phim đã thắng lớn khi dành được bốn đề cử quan trong nhất của giải Oscar: Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Nữ diễn viên người Mỹ, Jennifer Lawrence đã dành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai Tiffany. Đến nay, Matthew Quick đã cho ra đời 6 cuốn tiểu thuyết. Tác phẩm mới nhất của anh với tựa đề Every exquisite thing sẽ được ra mắt vào đầu năm 2016 tại Mỹ. Độc giả Việt Nam biết đến Matthew Quick qua 3 cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra tiếng Việt: The Silver Linings Playbook (tựa tiếng Việt:Về phía mặt trời), Boy21 và Chết đi cho rồi, Leonard Peacock. *** Chẳng cần ngước lên tôi cũng biết Mẹ lại đến thăm đột xuất. Vào mùa hè bao giờ bà chả sơn móng chân màu hồng; và tôi nhận ra hình vẽ hoa trên đôi dép da, đôi dép Mẹ mua lần trước khi bà ký giấy cho tôi ra khỏi nơi xấu xa này và đưa tôi đến khu mua sắm. Lần này, Mẹ lại bắt gặp tôi mặc áo choàng tắm khi tôi đang tập một mình trong sân, và tôi mỉm cười vì biết bà sẽ quở trách bác sĩ Timbers, sẽ hỏi ông ta sao phải nhốt tôi nếu suốt ngày bỏ mặc tôi một mình. “Con định chống đẩy đến bao giờ hả Pat?” Mẹ nói khi tôi bắt đầu lượt một trăm thứ hai, không nói chuyện với bà. “Nikki-thích-một-người-có-thân-trên-săn-chắc,” tôi nói, thổ ra từng từ sau mỗi cái chống đẩy, nếm vị mồ hôi mặn chảy vào mép. Trời tháng Tám sương mù dày đặc, thật lý tưởng để đốt chất béo. Mẹ đứng nhìn một đôi phút, rồi bà làm tôi bất ngờ. Bà nói, giọng run rẩy, “Hôm nay con muốn về nhà với mẹ không?” Tôi thôi chống đẩy, quay mặt lên nhìn Mẹ, nheo mắt vì ánh ban trưa trắng xóa – và tôi có thể nói ngay rằng Mẹ rất nghiêm túc, vì trông bà lo lắng, chừng như đang phạm sai lầm, và Mẹ hay vậy khi bà thật lòng nói gì đó, còn bình thường khi không buồn phiền hay lo sợ thì bà cứ nói huyên thuyên cả giờ không ngớt. “Nhưng con phải hứa không được đi tìm Nikki nữa,” bà nói thêm, “con có thể về nhà và sống với bố mẹ cho đến khi chúng ta tìm cho con một công việc và một chỗ sống ổn định.” Tôi lại tiếp tục chống đẩy, mắt dán vào con kiến đen óng đang bò trên ngọn cỏ ngay dưới mũi, nhưng tầm nhìn tôi còn thấy cả những giọt mồ hôi từ trên mặt nhỏ xuống đất. “Pat à, con chỉ cần nói là sẽ về ở với mẹ, mẹ sẽ nấu cho con ăn, và con có thể đi thăm các bạn cũ và bắt đầu quay về cuộc sống bình thường. Mẹ xin con. Mẹ cần con đồng ý. Chỉ vì mẹ thôi, Pat à. Mẹ xin con đấy.” Tôi chống đẩy nhanh hơn, cơ ngực dồn dập, lớn lên - đau, nóng, mồ hôi, thay đổi. Tôi không muốn ở chỗ xấu xa này, nơi không ai tin vào tia hy vọng, vào tình yêu, hay những kết thúc có hậu, nơi người ta cứ bảo tôi rằng Nikki sẽ không thích dáng vẻ mới của tôi, và rằng nàng cũng không muốn gặp tôi khi thời gian cách ly kết thúc. Nhưng tôi cũng sợ những người trong cuộc đời cũ của tôi sẽ không hào hứng như tôi đang cố gắng lúc này. Cho dù có thể, nếu mà suy nghĩ cho rành rẽ ra, thì tôi cần thoát khỏi những tay bác sĩ ác ôn và những mụ y tá xấu xa kia - với cơ man nào là thuốc với cả cốc giấy - và vì qua mặt Mẹ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều qua mặt mấy y bác sĩ kia, nên tôi nhảy dựng lên, đứng trên hai chân mà nói, “Con sẽ về sống với mẹ cho đến khi hết thời gian cách ly.” ... Mời các bạn đón đọc Về Phía Mặt Trời của tác giả Matthew Quick.
Quo Vadis (Tiếng Việt)
Đề tài tiểu thuyết lịch sử Quo vadis (1895 -1896) là cuộc khủng bố các tín đồ Thiên chúa giáo thời Nerô bạo chúa ở Cổ La Mã. Với những giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời, Quo vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm đã gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học nghệ thuật thế giới. Quo vadis nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Từ lúc sinh thời, tác giả đã nhận được bản dịch Quo vadis bằng các tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Nga, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Acmênia, Phần Lan, Lítva, Nhật và Ả Rập. Cho đến nay, Quo vadis đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng khác nhau. Tác phẩm cũng rất nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh ngay từ những năm xa xưa nhất, đồng thời nó cũng trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu, không những chỉ ở Ba Lan mà trên phạm vi thế giới. Chuyển đạt lời văn của H.Sienkievich đến bạn đọc là một khó khăn lớn đối với người dịch, đặc biệt là trong trường hợp Quo vadis, bởi lẽ tiểu thuyết đề cập đến một thời đại, một nền văn hóa xa xưa có nhiều khác biệt với bạn đọc Việt Nam ngày nay. Để phần nào hỗ trợ cho bạn đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi có soạn thêm phần chú thích (bố trí ở cuối tập II) đề cập đến một số tên người và địa danh có trong tác phẩm nhưng không phổ biến lắm ở ta. Chúng tôi hy vọng rằng, mặc dù có những khiếm khuyết và hạn chế khó tránh khỏi, bản dịch Quo vadis từ nguyên bản tiếng Ba Lan sẽ là một dịp để bạn đọc tiếp xúc với Henryk Sienkievich, một nhà văn kiệt xuất, người đại diện xứng đáng cho nền văn học cổ điển rất phong phú của dân tộc Ba Lan *** Henryk Adam Aleksander Pius Sienkiewicz là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos. Henryk Adam Alexandr Sienkiewicz là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Học xong trường gymnazy năm 1870, ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Sienkiewicz là cộng tác viên thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện ngắn Stary sluga (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa không thành ở Anahaim (gần Los Angeles). Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy), Pan Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski), Ogniem i mieczem (Bằng lửa và gươm) - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ 17 trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kazakh, với người Thụy Điển và với người Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina Polaniekich (Gia đình Polaniecki), còn vào những năm 1895-1896 - tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dưới triều đại của hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông. Năm 1900, Henryk Sienkiewicz được những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ. Năm 1905 ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với Nero. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ. *** Vinixius gửi Ligia:     “Nô lệ Phlagon, kẻ mà tôi nhờ chuyển cho nàng bức thư này là một tín đồ Thiên chúa, nên bác ấy sẽ là một trong những người được đón nhận tự do từ chính tay nàng, hỡi con người thân yêu nhất đời! Đây là một đầy tớ già của gia đình, nên tôi có thể hoàn toàn tin cậy viết thư gửi qua bác ta, không sợ thư bị lọt vào một bàn tay nào khác ngoài tay nàng. Tôi viết thư từ Laurentum, nơi chúng tôi đang dừng chân vì thời tiết nóng nực. Tại đây, chàng Otho từng có một tòa biệt thự tuyệt vời mà hồi trước chàng đã tặng cho Poppea, còn ả ta, mặc dù đã ly dị chàng, vẫn cho rằng việc tiếp tục giữ món quà kia là hợp lẽ… Cứ nghĩ đến những người đàn bà đang ở chung quanh tôi rồi lại nghĩ về nàng, tôi thấy rõ là một khối đá của Đeukalion đã thành hình đủ loại người khác nhau, những loại không một chút giống nhau và nàng thuộc về những người được sản sinh từ chính pha lê. Tôi ngưỡng mộ, tôi yêu nàng với tất cả tâm hồn, đến nỗi tôi chỉ muốn nói cùng nàng về mỗi một mình nàng mà thôi và tôi phải bắt buộc mình lắm mới viết nổi cho nàng về chuyến đi, cùng những gì đang diễn ra với tôi và những chuyện mới mẻ trong chốn cung đình. Vậy hoàng đế đang là khách của Poppea, ả đã bí mật chuẩn bị một cuộc thù tiếp thật duyệt diệu. Thực ra, ả chỉ mời rất cẩn thận, nhưng cả tôi lẫn cậu Petronius đều nhận được lời mời. Sau bữa tiệc, chúng tôi chèo những con thuyền vàng trên mặt biển, biển lặng lẽ như đang say ngủ và biếc xanh như màu mắt nàng vậy, hỡi nữ thần!  ... Mời các bạn đón đọc Quo Vadis của tác giả Henryk Sienkiewicz.
Quần Đảo Ngục Tù - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn
Thiên tiểu thuyết này viết xong đã lâu mà tôi vẫn ngần ngại chưa muốn xuất bản. Thà phụ lòng người chết còn hơn gây hại cho những người còn sống. Nhưng bản thảo bất ngờ lọt vào tay mật vụ thì tôi đành phải cho ra ngay, càng sớm càng tốt.  Xin lưu ý là trong Quần đảo ngục tù không có người bịa chuyện. Nhân danh, địa danh đều ghi rõ tên thực. Nếu có ghi tên tắt chỉ là bắt buộc cũng như nếu có thiếu sót chỉ vì người viết không nhớ nổi, nhớ hết. Vì tất cả trong Quần đảo ngục tù đều có thực, nghĩa là THẤY SAO VIẾT VẬY.  Aleksandr I. Solzhenitsyn   *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post,  NewYork Times *** Năm 1949, bọn tôi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn in chữ nhỏ li ti đăng trên tờ Thiên nhiên cơ quan của Hàn lâm Viện Khoa học. Bản tin tiết lộ là trong công tác khảo cổ khai quật một vùng sông Kolyma người ta đã tìm ra một lớp băng nằm dưới mặt đất nguyên là một con suối, một nhánh sông đông lạnh mà trong đó còn nguyên vẹn một số sinh vật tiền sử, cỡ vài chục ngàn năm. Cá hay thằn lằn cũng còn tươi nguyên, tươi đến nỗi những người có mặt lúc bấy giờ hăm hở phá vỡ lớp băng, đào lên KHOAN KHOÁI đớp ngay tại chỗ.  Độc giả tập san Thiên nhiên có bao nhiêu xong chắc chắn họ phải kinh ngạc không ngờ cá đông lạnh có thể giữ tươi nguyên lâu đến vậy. Tuy nhiên mấy ai đã thấu hiểu ý nghĩa đích thực của mẩu tin sơ hở, vụng về nói trên?  Bọn tôi, trái lại hiểu ngay tức khắc. Bọn tôi còn tưởng tượng ra đầy đủ từng chi tiết nhỏ của công tác khai quật kia. Bọn tôi biết người ta đào lớp băng hăng hái cỡ nào, tranh nhau như thế nào… Khỏi khảo cổ, nghiên cứu cá cua gì hết, thấy cá tiền sử cũng đào lên, xé ngay ra cho lên bếp lửa nướng đớp liền.  Bọn tôi hiểu vì bọn tôi cũng thuộc một lớp người với đám người đào băng đó – cũng là dân ZEK với nhau mà! Những thằng ZEK [1] thì quá đông quá nhiều và có thể nói là thế gian này chỉ có chúng là những thằng người duy nhất dám đớp cả cá tiền sử một cách SUNG SƯỚNG.  ... Mời các bạn đón đọc Quần Đảo Ngục Tù của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.
Tình Yêu Sau Cùng - Pearl S. Buck
Vào những ngày cuối đời, Pearl S. Buck sống với chồng thứ hai, Richard Walsh - cùng với 150 đứa trẻ đủ màu da; do chính bà đem về giáo dưỡng trong một trang trại ở Pennsylvania (Mỹ). Đó là thời kỳ đã giã từ chồng trước, bà dắt con trai ở lại nước Mỹ sau khi cuộc chiến ở Hoa Lục kết thúc. Cả hai từng vùng vẫy cố thoát khỏi nghịch cảnh thời thế nhưng vẫn chỉ là hư không. Song mối tình dị chủng phải chia lìa mà vẫn không làm tiêu tan ý chí đoàn tụ rất keo sơn, bất diệt của họ. Càng xa nhau bao nhiêu thì sợi dây vô hình càng thắt chặt bấy nhiêu cho đến khi nhận được hung tin từ vợ kế của chồng báo cho biết viên đạn đồng đã kết liễu đời chàng.  Sự đau đớn tột cùng thôi thúc tác giả viết nên một thiên tình sử não nuột về hôn nhân dị chủng của chính tác giả. Và Pearl S. Buck đã hóa thân qua nhân vật làm vợ mang tên Êly - thuật lại một đoạn sống của một người chồng nửa Á, Âu mang quốc tịch Trung Hoa có vợ là người Mỹ trăm phần trăm.  Tự sự kể về cuộc tình dị chủng ấy từng sống thật say đắm, tha thiết và nồng ấm. Bằng giọng văn lạnh lùng mà quyến rũ, ngọt ngào, thương cảm lạ lùng đã làm xúc động hàng triệu độc giả trên thế giới.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Giấc mơ đó không làm tôi sợ hãi chút nào, nhưng tôi cảm thấy nó có nỗi buồn vô tận. Tôi không thể sợ hãi Diên Tôn được, dù với hình thể nào chàng đến với tôi. Câu chuyện ma quỷ vẫn chỉ làm tôi mỉm cười. Sự xét đoán về tiềm thức của tôi luôn luôn làm cho tôi nhớ tới người thân yêu xa cách..tuy cố giữ không thổ lộ là tôi trông thấy Diên Tôn.  Bà Mạch quả quyết rằng trông thấy bà mẹ hiện lên, bà mẹ sống ở Ireland và chết ở đấy.  Bà giảng giải cho tôi nghe, vẻ long trọng:  - Đó là một buổi sáng đẹp trời vào dịp Phục sinh. Bữa trước tôi mới cãi nhau với Mạch và không muốn đi nhà thờ nữa. Tôi mặc quần áo cũ để lau sàn bếp. Mạch gào lên tôi phải cùng đi với hắn và các con đến nhà thờ - lúc này chúng tôi có sáu đứa. Nhưng tôi quyết từ chối và hắn đi một mình. yên tĩnh trở lại, tôi rửa mặt, mặc chiếc áo ngủ sạch và đi nằm để lấy lại sức. Giữa lúc này, mẹ tôi hiện về. Bà mặc toàn đồ trắng, như một bà tiên. Mớ tóc hoa râm kết thành giải theo thói quen của bà. Bà bảo tôi Con khốn nạn của mẹ, con chỉ là một người đàn bà thì đành phải an phận. Tôi trả lời và nhắm mắt ngủ ngay như trẻ thơ. Đúng thế mẹ yêu dấu của con. Khi tôi tỉnh giấc, Mạch đã trở về đang cho các con ăn. Tôi trở dậy người khoẻ mạnh như cũ.  Đó là một câu chuyện dựng đứng, nhưng bà Mạch tin là đã trông thấy.  Chiều nay, tôi đến thư viện thành phố gần nhất đấy và tìm thấy cả nửa tá sách nói về mộng mị và ảo tưởng. Tôi lấy làm hổ thẹn, đọc những sách này vì tôi không tin dị đoan. Nhưng lại tự nhủ nếu một thanh củi, một phần nguyên liệu, có thể biến thành nhiệt năng trước mắt tôi, thành lửa, thành tro và sức nóng, thì tại sao một hình hài sống động, một trí óc sáng suốt, một tâm hồn giàu tình cảm và lòng vị tha lại không thể hiện dưới mắt tôi với một hình thể khác. Cứ như vậy tôi đi sâu vào cuộc phiêu lưu, đi tìm người tôi yêu.  Diên Tôn chàng ơi, anh có còn sống thật không? ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Sau Cùng của tác giả Pearl S. Buck.