Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh

“Không lâu sau lần đầu gặp Warren Buffet vào năm 1991, tôi có hỏi về cuốn sách quản trị kinh doanh yêu thích nhất của ông. Không mất đến nửa giây suy nghĩ, ông trả lời: ‘Đó là Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh của John Brooks, tôi sẽ gửi cho cậu cuốn của mình.’ Đến nay đã hơn hai mươi năm kể từ ngày Warren cho tôi mượn cuốn sách đó ‒ và hơn bốn mươi năm kể từ khi nó được xuất bản lần đầu tiên ‒ Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh vẫn là cuốn sách quản trị kinh doanh hay nhất mà tôi từng đọc.”  Bill Gates Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh với 12 câu chuyện thú vị và không kém phần kịch tính về những sự kiện nổi tiếng tại Phố Wall này sẽ vén màn những âm mưu cũng như bộc lộ bản chất thất thường của thế giới tài chính. Xuyên suốt cuốn sách là những báo cáo chi tiết và sắc sảo của John Brooks, dù đó là sự kiện thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1962, thất bại của một công ty môi giới danh tiếng, hay nỗ lực táo bạo của các ngân hàng Mỹ nhằm cứu vãn đồng bảng Anh. Sau tất cả, những câu chuyện này vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự để giúp chúng ta nắm bắt được tính phức tạp của đời sống kinh doanh. Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh thực sự là những phân tích tài chính sống động và xuất sắc nhất từ trước đến nay. *** THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - một thước phim phiêu lưu dài tập chiếu ban ngày của giới thượng lưu - sẽ không phải là thị trường chứng khoán nếu không có những thăng trầm trong đó. Bất kỳ ai trên ngồi ghế lãnh đạo từng say mê truyền thuyết về Phố Wall hẳn đã nghe đoạn đối đáp mà người ta đồn là của J. P. Morgan1 (lớn) khi một người bạn ngây thơ của ông đã mạo muội hỏi nhân vật vĩ đại này về việc liệu thị trường sẽ diễn biến như thế nào. Morgan trả lời tỉnh queo: “Lên-xuống rồi lại xuống-lên!”. Và còn nhiều những đặc thù đặc trưng khác. Bên cạnh những lợi thế và bất lợi kinh tế của những giao dịch chứng khoán - lợi thế: tạo ra một dòng chảy tự do về vốn để trang trải cho việc mở rộng sản xuất; bất lợi: tạo ra một con đường quá đỗi dễ dàng để cho những người cả tin, thiếu thận trọng và kém may mắn vuột mất đi số tiền của mình - sự phát triển những giao dịch này đã tạo ra một hệ thống hành vi xã hội, toàn diện với các tập quán, ngôn ngữ cùng những phản ứng có thể dự đoán được trước từng sự kiện cụ thể. Ngoạn mục nhất là ở tốc độ bung nở hết cỡ của hệ thống hành vi này sau sự kiện Sở giao dịch chứng khoán trọng yếu đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1611, trên một khoảng sân không mái che ở Amsterdam và mức độ mà hệ thống này duy trì (tất nhiên, cùng với những biến thể của nó) trên Sở giao dịch chứng khoán New York vào thập niên 1960. Chứng khoán Mỹ ngày nay là một tổ chức khổng lồ liên quan tới hàng triệu km đường dây điện báo riêng, các máy tính có thể đọc và sao chép niêm giám điện thoại thành phố Manhattan trong ba phút và hơn 20 triệu cổ đông, dường như đối lập hoàn toàn với cảnh tượng một nhúm người Hà Lan đội mưa cò kè mua bán với nhau hồi thế kỷ XVII. Nhưng những biểu hiện trên hiện trường thì vẫn giống nhau. Thật trùng hợp là sàn chứng khoán đầu tiên là một phòng thí nghiệm, nơi người ta khám phá ra những phản ứng mới của con người và Sở giao dịch chứng khoán New York cũng giống như vậy, một “ống nghiệm” xã hội học, muôn đời đóng góp vào quá trình tự giác ngộ về bản thân của loài người. Hành vi của những người Hà Lan tiên phong trong kinh doanh chứng khoán được khéo léo ghi chép lại trong cuốn sách có tựa đề Confusion of Confusions (Rắc rối của những rắc rối của tác giả Joseph de la Vega, một nhà đầu cơ tại thị trường Amsterdam, được xuất bản lần đầu năm 1688 và vài năm trở lại đây được trường Kinh doanh Harvard dịch và tái bản bằng tiếng Anh. Về phần những nhà đầu tư và môi giới chứng khoán của Mỹ ngày nay, với những đặc tính giống như tất cả những nhà kinh doanh chứng khoán khác song thường bị thổi phồng trong những giai đoạn khủng hoảng, ta có thể làm sáng tỏ hành vi của họ bằng việc xem xét những hoạt động của họ trong suốt tuần cuối cùng của tháng 5 năm 1962, thời điểm mà thị trường chứng khoán trải qua những biến động mạnh. Vào thứ Hai, ngày 28 tháng 5, chỉ số Dow-Jones trung bình của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu (từ năm 1897, từng giao dịch cổ phiếu mới bắt đầu được tính toán cụ thể) giảm tới 34,95 điểm hay nói cách khác, giảm kỷ lục nhất so với bất kỳ ngày giao dịch nào khác (trừ ngày 28 tháng 10 năm 1929 với mức sụt giảm 38,33 điểm). Khối lượng giao dịch ngày 28 tháng 5 là 9.350.000 cổ phiếu, đạt mức doanh thu trong ngày lớn thứ bảy trong lịch sử thị trường chứng khoán. Vào thứ Ba ngày 29 tháng 5, sau một buổi sáng đáng báo động khi hầu hết các cổ phiếu tụt giảm xuống mức thấp hơn nhiều so với mức giá lúc đóng cửa của buổi chiều thứ Hai, thị trường bất ngờ đổi hướng, tăng vọt đến mức kinh ngạc, và kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow-Jones tăng khá cao, tận 27,03 điểm, tuy chưa phải là mức phá kỷ lục. Mức tăng gần chạm kỷ lục của ngày thứ Ba này nằm ở khối lượng giao dịch: 14.750.000 cổ phiếu được trao tay, bổ sung thêm vào kỷ lục doanh-số-một-ngày lớn nhất từng có, chỉ đứng sau ngày 29 tháng 10 năm 1929 với hơn 16 triệu cổ phiếu được giao dịch. (Sau này, vào những năm 1960, 10 triệu, 12 triệu, hay thậm chí 14 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày là phổ biến. Kỷ lục năm 1929 bị phá vỡ vào ngày 1 tháng 4 năm 1968 và trong mấy tháng tiếp sau đó, kỷ lục mới liên tiếp được thiết lập). Sau đó, vào thứ Năm ngày 31 tháng 5 (trước đó là thứ Tư, cả nước Mỹ nghỉ làm việc vì lễ Tưởng niệm chiến sĩ hi sinh nơi chiến trận) là vừa hoàn tất chu trình ấy; chỉ số Dow-Jones trung bình tăng 9,40 điểm trên tổng số 10.710.000 cổ phiếu được giao dịch (khối lượng lớn thứ năm trong lịch sử chứng khoán), nhỉnh hơn số điểm trước khi bắt đầu xảy ra toàn bộ tình trạng kích động. Cuộc khủng hoảng chỉ kéo dài ba ngày nhưng ai cũng biết, phần “khám nghiệm tử thi2” sẽ còn kéo dài mãi sau đó. Một trong những quan sát mà de la Vega đúc rút về các thương nhân Amsterdam là: Họ “rất khôn khéo bịa ra lý do” để lý giải cho sự tăng hay giảm giá đột ngột của cổ phiếu và chắc chắn các chuyên gia Phố Wall cần vận hết trí tuệ mới có thể lý giải vì sao ngay giữa một năm thịnh vượng như thế, thị trường đột nhiên tụt dốc thảm hại tới mức lập kỷ lục thứ hai trong lịch sử tính tới thời điểm đó. Bên cạnh những giải thích này, mà đứng đầu là việc Tổng thống Kennedy thẳng tay dập tắt kế hoạch tăng giá của ngành thép - thì không thể tránh khỏi việc các cuộc “khám nghiệm tử thi” thường so sánh ngày 28 tháng 5 năm 1962 với ngày 29 tháng 10 năm 1929. Riêng con số về biến động giá cả và khối lượng giao dịch cũng đủ để người ta đi đến sự so sánh này, cho dù hai ngày kinh hoàng tồi tệ nhất trong hai tháng ấy không hề trùng nhau theo lối ma mị hay có điềm báo trước như một số người nghĩ. Nhưng thật ra phải thừa nhận, nếu so sánh hai ngày này, người ta sẽ thấy thuyết phục trước những điểm tương phản hơn là những điểm tương đồng. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1962, những quy định về phương thức giao dịch và những hạn chế về vay tín dụng đối với khách mua cổ phiếu đã khiến cho người ta khó lòng - nếu không nói là không thể - nướng sạch tiền vào chứng khoán. Tóm lại, hình dung của de la Vega về thị trường chứng khoán Amsterdam vào những năm 1680 - ông gọi nó là “ổ cờ bạc” mặc dù rõ ràng là ông yêu nó - gần như không mấy phù hợp với thị trường New York trong thời kỳ 33 năm giữa hai lần sụp đổ. Vụ sụp đổ năm 1962 không phải đến mà không báo trước, dù rất ít nhà quan sát đọc được chính xác những cảnh báo ấy. Ngay thềm năm mới, cổ phiếu đã bắt đầu sụt giảm dần đều và tốc độ này leo thang đến đỉnh điểm: tuần giao dịch trước đó - từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 25 tháng 5 - trở thành tuần tồi tệ nhất của Sở giao dịch kể từ tháng 6 năm 1950. Vào sáng thứ Hai ngày 28 tháng 5, các nhà môi giới và nhà buôn chứng khoán đã có lý do để suy tư. Cổ phiếu đã chạm đáy chưa? Hay sắp chạm? Nhìn lại thì thấy có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau. Tờ tin Dow-Jones (cung cấp tin tức tài chính tâm điểm cho người đặt báo dài hạn qua máy telex) phản ánh sự lo ngại nhất định trong khoảng thời gian từ lúc tờ này bắt đầu phát tin lúc 9 giờ cho tới khi Sàn giao dịch bắt đầu mở cửa lúc 10 giờ. Băng tin rộng ‒ cách người ta thường gọi bản tin Dow-Jones in theo chiều dọc giấy khổ 15×0,6cm để phân biệt với băng tin báo giá của Sở giao dịch được in theo chiều ngang và chỉ dài 1,9cm) ‒ bình luận rằng, nhiều nhà kinh doanh chứng khoán cuối tuần bận rộn với việc gửi yêu cầu đến các khách hàng mua chịu, hiện sở hữu những cổ phiếu đang xuống giá, cần bổ sung thế chấp ngay. Bản tin này nhận xét, việc bán tống bán tháo vội vã giống tuần trước đó là “hành động đã nhiều năm nay xa lạ với Phố Wall”. Bản tin này tiếp tục đưa ra một số tin thương mại đáng khích lệ như công ty Westinghouse mới nhận được một hợp đồng Hải quân mới. Tuy nhiên, như de la Vega đã nói, “trong thị trường chứng khoán, những tin tức [kiểu như vậy] thường chẳng mang lại ý nghĩa gì cả”; trong tình thế hiện tại, tâm trạng nhà đầu tư mới là điều đáng nói. Tâm trạng này càng trở nên rõ nét chỉ trong vài phút sau khi thị trường mở cửa. Lúc 10 giờ 11 phút, băng tin thông báo “lúc mở cửa, giá cổ phiếu hỗn hợp và giao dịch nhộn nhịp vừa phải”. Đây là một thông tin mang tính chấn an vì “hỗn hợp” có nghĩa là vừa có tăng vừa có giảm và nói chung một thị trường sụt giá, sẽ ít rủi ro hơn khi khối lượng giao dịch chỉ ở mức vừa phải chứ không quá lớn. Nhưng niềm an ủi này chỉ kéo dài chớp nhoáng vì đến 10 giờ 30 phút, băng tin của Sở giao dịch (đăng tin tức về giá và khối lượng cổ phiếu của mỗi giao dịch diễn ra trên sàn) không những đăng các mức giá cũ, thấp hơn, với tốc độ tối đa 500 ký tự/phút mà còn đăng trễ tận sáu phút. Sự chậm trễ của băng tin cho thấy rõ ràng, chiếc máy đã không thể bắt kịp với những giao dịch đang diễn ra tít mù. Thường thì khi một giao dịch trên sàn của Sở giao dịch hoàn tất, một nhân viên của Sở sẽ ghi lại chi tiết lên một mẩu giấy và gửi nó qua một ống khí nén tới một căn phòng trên tầng 5 của tòa nhà; từ đây, một nhân viên nữ sẽ đánh máy mẩu giấy vào máy điện báo để truyền đi. Quãng thời gian chờ hai đến ba phút từ khi có giao dịch trên sàn và khi giao dịch xuất hiện trên băng tin được Sở giao dịch xem là bình thường; khái niệm “trễ” chỉ được sử dụng để mô tả bất kỳ một sự trì hoãn nào khác ngoài hai đến ba phút đấy tính từ khi tờ phiếu bán hàng lên được đến tầng 5 và được chiếc máy điện báo dung nạp được nó (de la Vega phàn nàn là Sở giao dịch không cẩn thận khi dùng từ “trễ”). Băng tin thường xuyên xảy ra tình trạng “trễ” một vài phút vào những ngày giao dịch tấp nập nhưng từ năm 1930, khi loại máy điện báo thịnh hành vào năm 1962 được lắp đặt, những vụ trễ lớn cực kỳ hiếm khi xảy ra. Ngày 24 tháng 10 năm 1929, khi băng tin bị trễ 246 phút, máy đang in với tốc độ 285 ký tự/phút; từ tháng 5 năm 1962 trở về trước, khoảng trễ lớn nhất từng xảy ra trên chiếc máy mới là 34 phút. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh của tác giả John Brooks.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Các Nhà Sáng Lập - Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance
Các nhà kinh tê học hiện nay đều có nguồn gốc của họ Kinh tế học là một khoa học trẻ tuổi. Những nhà sáng lập ra nó là nhhững người cận đại, việc dạy nó thành một môn chuyên nghiệp chỉ mới khioảng một thế kỷ nay.  Năm 1795, Quốc ước lập ra một chức giáo sư về kinh tế chính trị học ở Trường Sư phạm, chức đó được giao cho Alexandre Vandermonde. Nhưng theo một lời đồn về lịch sử, chính J-B. Say là người khai trương thật sự của việc giảng dạy kinh tế học ở Pháp với giáo trình của ông ở Athénee (A-v- tê-nê) năm 1815-1816, rồi ở Trường Đại học Quốc gia về kỷ thuật và nghề nghiệp năm 1819; Say còn được xác nhận năm 1831 với việc bổ nhiệm ông vào College de France. Chỉ dến năm 1877 nước Pháp mới mở rộng các chức giáo sư Kinh tế học ra tất cả các khoa Luật trong nước.  Không có sự nhập môn nào về kinh tế học tốt hơn việc lướt qua lịch sử các tư tưởng kinh tế. Cách đi ấy cho phép ngược lại nguồn gốc của các khái niệm; nó đem lại cho người ta cả nguồn gốc lẫn cách sử dụng các khái niệm đó. Bằng cách đó mỗi người có thể tìm thấy những nhà sáng lập ra dòng họ tư tưởng của mình. "Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các nhà kinh tế học, giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình nắm đưọc chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành-những qui tắc khoa học. Không có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cửu lịch sử kinh tế học [ ] , nó đem lại phòng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhưòng cần thiết về phưong pháp luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế hợc. Ngoài ra, đó còn là một phòng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay không ( ) Cần hiểu rõ những gì mình thừa kế được còn hơn là tưởng tượng ra một di sản bị giấu kín ỏ một góc tối nào đó và ở một thử tiếng nước ngoài nào đó".  M. Blaug, tư tưởng kinh tế, Económica, 1987.  Thứ tự xuất hiện của các nhà kinh tế học lớn là rất có ý nghĩa. Mỗi người có những quan hệ với những người đi trước nào đó, dưới dấu hiệu tiếp nối hay đoạn tuyệt Mancur Olson thừa nhận một cách rõ ràng món nợ trí tuệ của mình đối với những nhà lý luận đi trước :  "Tôi có thói quen dẫn lời Newton nói rằng nếu ông có thể nhìn thấy xa hơn những ngưòi khác, thì đó là vì ông đứng lên trên vai của những vị khổng lồ. Nếu Newton đã có thể nói như vậy vào thế kỷ XVII, thì chắc chắn nhà kinh tế học hôm nay cũng chỉ có thể tự coi mình đứng ở vị trí ấy, cho dù tầm hiểu biết cá nhân của mình rộng lớn tới mức nào. Thật ra, anh ta là kẻ kế thừa của một số nhà tư tưởng thiên tài được thừa nhận, như Smith, Ricardo, Mili, Marx, Walras, Wicksell , Marshall và Keynes, cũng như hàng trăm người thông minh, cả nam lẫn nữ, đã tạo ra một công trình quí giá. Trên thực tế, nếu các vị khổng lồ của kinh tế học đã tự mình đứng lên trên vai những ngưòi tiền bối của họ, thì nhà kinh tế học hôm nay cũng đứng trên đỉnh cao của một kim tự tháp mênh mông của những tài năng". Vinh quang và suy thoái của các dân tộc, Bonnel, 1983.  Các tư tưỏng kinh tế là những chân vòm ở trên hiện thực Các tư tưởng kinh tế của quá khứ không phải chỉ là để cho các nhà kinh tế học tương lai tập sự, chúng còn tác động tới hiện thực bằng hai kênh :  - Các tác nhân kinh tế thường xuyên có một tác động dự báo và tiên đoán. Chỉ cần một dự báo đáng lo ngại được đưa ra là các tác nhân kinh tế tác động dự báo theo đó, bằng cách ngăn cản nó xuất hiện hoặc, trái lại, tạo thuận lợi cho nó được thực hiện.  - Việc nghiên cứu những vận động của thị trường chứng khoán hay những cơ chế lạm phát cho thấy rằng các khoa học kinh tế phải tính đến những ý kiến kinh tế hàng ngày của các tác nhân Thông tin và những tri thức kinh tế có thật hay giả định tác động tới hiện thực như vậy - "Cai trị là lựa chọn" : những người cai trị phải có một thứ khuôn đọc về kinh tế để hành động : "Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng lớn hơn điều ngưòi ta thường tưỏng. Nói đúng ra, thế giới gần như chỉ được hưóng dẫn bởi những tư tưỏng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ Những người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thương giới thật ra đều chắt lọc từ những không tưỏng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án nào đó". J. M. Keynes, Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ, 1936. Mời các bạn đón đọc Các Nhà Sáng Lập của tác giả Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance.
Chuyến Đi Bão Táp - Những Câu Chuyện Chưa Kể Về Hành Trình Thống Trị Thế Giới Của Uber - Adam Lashinsky
Uber là một trong những doanh nghiệp thú vị và gây nhiều tranh cãi nhất thế giới, vì ý tưởng đi chung xe thông minh, tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và cả những cáo buộc nặng nề trước quyết tâm theo đuổi thành công bằng mọi giá của CEO Travis Kalanick. Bất chấp tầm quan trọng của công ty này với nền kinh tế và cuộc cách mạng trong ngành vận tải, cũng như trận chiến giành quyền thống trị toàn cầu của Kalanick với giới quan chức chính quyền và các công ty taxi trên khắp thế giới, câu chuyện đầy đủ về Uber vẫn chưa từng được kể. Đây là câu chuyện mà những người khởi xướng các công ty khởi nghiệp, giám đốc các doanh nghiệp truyền thống, độc giả yêu thích công nghệ, những tài xế và người sử dụng dịch vụ gọi xe sẽ bị hút vào qua từng trang sách. Trong Chuyến đi bão táp, Adam Lashinsky – cây bút kỳ cựu của Fortune sẽ vén tấm màn tăng trưởng chóng mặt của Uber từ xuất phát điểm khó khăn đến những kế hoạch mở rộng dịch vụ dựa trên nền tảng và mạng lưới sẵn có của công ty. Uber đang chiến đấu với các đối thủ và nhà cầm quyền khắp nơi trên thế giới để chiếm lĩnh thị trường; họ đã đối mặt với những cuộc biểu tình ở các thành phố lớn như Paris, Rio de Janeiro và Mumbai. Họ đã đối đầu và thất bại trong cuộc chiến đắt đỏ và hao tâm tổn trí với Didi ở thị trường Trung Quốc. Uber cũng tuyển những kỹ sư từ các viện nghiên cứu hàng đầu để phát triển chiếc xe tự hành có khả năng thay thế những tài xế mà họ đã nỗ lực để tuyển dụng. Uber là tiêu đề chính trên các mặt báo mỗi ngày nhưng còn rất nhiều điều về quá khứ và tương lai của công ty này mà chúng ta chưa biết. Lashinky sẽ kể cho chúng ta câu chuyện Uber qua cuốn sách giàu thông tin, được nghiên cứu kỹ lưỡng về công nghệ làm gián đoạn thị trường và vị CEO có tầm nhìn xa nhưng cũng đầy táo tợn. *** UBER Câu chuyện về một huyền thoại trong bình minh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Nguyễn Cảnh Bình Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Công ty Cổ phần Sách Alpha UBER không còn xa lạ với người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ ở các đô thị lớn. Nhưng đó là một công ty còn rất trẻ. Chỉ trong vòng 7 năm kể từ ngày ra đời tại Mỹ, đến nay Uber đã có mặt tại hơn 50 quốc gia và hàng trăm thành phố trên toàn thế giới, dịch vụ Uber giúp giải quyết một nhu cầu lớn của xã hội dựa trên nền tảng (platform) tích hợp nhiều yếu tố công nghệ cho mối quan hệ giữa người có nhu cầu đi xe và xe có thể vận chuyển. Nhờ công nghệ, Uber giúp tiết kiệm chi phí cho người đi xe và người lái xe Uber, giúp tiết kiệm thời gian, góp phần giảm ùn tắc giao thông, tối ưu hóa các nguồn lực xã hội, và hơn thế, còn làm hình mẫu cho nhiều ứng dụng và mô hình khởi nghiệp khác. Là một công ty kinh doanh mạng lưới giao thông vận tải dựa trên ứng dụng, Uber có trụ sở tại San Francisco, California, Mỹ và tính đến tháng 8 năm 2017, Uber được định giá khoảng 70 tỷ USD. Không chỉ vậy, sự thành công của Uber đã mở đầu một trào lưu mới: một nền kinh tế chia sẻ. Nhưng đằng sau câu chuyện đó, Uber còn là chủ đề của các cuộc kiện cáo, biểu tình đang diễn ra tại rất nhiều nơi trên thế giới từ các tài xế taxi, công ty taxi truyền thống và chính quyền địa phương. Họ tin rằng đó là một doanh nghiệp taxi bất hợp pháp với các hoạt động kinh doanh không công bằng với các hãng taxi truyền thống. Nhưng bất chấp tất cả những điều đó, đây chắc chắn là cuốn sách quan trọng dành cho tất cả các doanh nhân, nhà đầu tư cũng như những người quan tâm đến sự phát triển của công nghệ ứng dụng và tương lai của xã hội loài người. Khác với nhiều huyền thoại và hiểu lầm về những người khởi nghiệp và cả về Uber, cuốn sách cung cấp những thông tin chân thực, hữu ích và có giá trị cho cả doanh nhân và nhà đầu tư khi bắt đầu khởi nghiệp. Đó chính là câu chuyện về một trong những công ty khởi nghiệp thành công nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng chóng mặt. Cuốn sách kể về hành trình của Travis Kalanick và Garrett Camp, khi họ vất vả gọi một chiếc taxi trong cơn bão tuyết ở Paris. Cũng chính tại nơi đó, ý tưởng về một ứng dụng gọi xe trên chiếc điện thoại thông minh trở nên rõ ràng đối với họ – và Uber ra đời. Hành trình phát triển của Uber, giống như nhan đề cuốn sách, là một chuyến đi bão táp đầy rẫy những khó khăn, trở ngại xuất hiện trên mỗi chặng đường. Và cũng chỉ mới đây thôi, Kalanick đã phải rời khỏi chiếc ghế CEO vì sức ép từ nhiều phía, nhưng thành tựu lớn nhất, sản phẩm thành công nhất của họ: UberX – một chiếc xe nhỏ gọn với sự trợ giúp của công nghệ đã trở nên hữu ích đối với con người. Cuốn sách cũng kể về những thất bại của Uber ở nhiều nơi trên thế giới, như tại Trung Quốc, đó là một thảm hoạ đắt giá khiến Uber thiệt hại hàng tỷ USD. Nhưng bất chấp những điều đó, Uber đã cố gắng để trở thành công ty công nghệ trong ngành kết nối vận tải có giá trị nhất thế giới. Nhưng Uber cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng và gánh chịu nhiều phản đối trên toàn thế giới khi làm đảo lộn ngành dịch vụ taxi truyền thông có lịch sử hàng thế kỷ. Ngay tại Việt Nam, Uber cũng gây ra tổn thất cho những hãng taxi truyền thống như Mai Linh, Vinasun… nhưng nó cũng là nguồn khích lệ lớn lao cho những bạn trẻ mới khởi nghiệp, và cho nhiều doanh nghiệp đang nỗ lực sáng tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Dù là cuốn sách viết về một thương hiệu, một công ty khởi nghiệp nhưng Chuyến đi bão táp giống như một cuốn tiểu sử về Kalanick – người đồng sáng lập nên Uber. Cuốn sách tiết lộ những góc cạnh chưa từng được khai thác có thể sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi như Kalanick là người sáng tạo hay một tay cơ hội, một người làm việc nhóm hay một kẻ bắt nạt, cứng đầu hay thực dụng, một viên kim cương thô hay một tên côn đồ vô lương tri? Cuốn sách vô cùng hấp dẫn và có rất nhiều điều đáng để chúng ta học hỏi Uber cũng như Kalanick, con người quyết liệt đằng sau bánh lái công ty toàn cầu này. Mời các bạn cùng đọc và có được cảm nhận cũng như những câu trả lời cho riêng mình. Công nghệ sẽ mang lại những thay đổi lớn lao cho cuộc sống con người, và trong buổi bình minh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, sự hình thành và phát triển của Uber cũng như những ứng dụng của khoa học và công nghệ vào cuộc sống trở nên hấp dẫn, lôi cuốn tất cả chúng ta.   Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bão Táp - Những Câu Chuyện Chưa Kể Về Hành Trình Thống Trị Thế Giới Của Uber của tác giả Adam Lashinsky.
Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh
Bắt đầu kiểm chứng ý tưởng kinh doanh: Bởi có quá nhiểu doanh nhân và nhà đổi mới thực hiện ý tưởng một cách vội vã vì chúng trông thật tuyệt vời với các bài thuyết trình, tạo cảm giác tuyệt vời với các bảng tính và vô cùng hấp dẫn với kế hoạch kinh doanh…chỉ sau này mới học được rằng tầm nhìn của họ hóa ra là ảo giác. Nâng cao kỹ năng kiểm chứng của bạn: Khi bạn đã rất quen thuộc với quá trình kiểm chứng ý tưởng kinh doanh. Bạn đã đọc tất cả các cuốn sách về chủ đề này. Bạn đã chạy một số dự án và xây dựng các sản phẩm khả thi tối thiểu. Bây giờ bạn muốn nâng cấp trò chơi và tang cường kỹ năng kiểm chứng của bạn. Mở rộng quy mô kiểm chứng trong tổ chức của bạn: Bạn được giao nhiệm vụ hệ thống hóa và mở rộng các hoạt động kiểm chứng trong tổ chức. Bạn có kinh nghiệm với chủ đề này và đang tìm kiếm những tư duy thực tế, hiện đại, để mang đến cho các nhóm trong toàn tổ chức của bạn. *** Bộ sách Binh Pháp Cho Doanh Nghiệp gồm có: Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh Tạo Lập Mô Hình Kinh Doanh Thiết Kế Giải Pháp Giá Trị Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại Mời các bạn đón đọc Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh của tác giả David J Bland & Alex Osterwalder.
Bậc Thầy Giao Dịch, Cứ Thích Là Bán
Tất cả mọi người dù có làm nghề gì chăng nữa cũng đều phải dựa vào bán hàng. Các chính trị gia muốn thu hút sự quan tâm của bạn để có được một phiếu bầu từ bạn. Diễn giả hy vọng thuyết phục thính giả rằng phương pháp của anh ta là đứng đắn. Nhân viên muốn thăng tiến phải bán cho ông chủ giá trị của mình đối với công ty. Huấn luyện viên phải bán ý tưởng chiến thắng trận đấu cho đội của mình. Đại lý bất động sản phải thuyết phục bạn mua nhà hoặc đưa cho anh ta các thông tin về bất động sản muốn bán. Người môi giới cho vay thế chấp lại muốn bạn tái cấp tài chính lần thứ ba. Nhân viên tín dụng muốn bạn đầu tư vào quỹ đầu tư tương hỗ của ngân hàng. Bồi bàn thì chào bán món ăn đặc biệt trong ngày. Nhân viên bán quần áo muốn bạn mua bộ vét kèm thêm ba áo sơ mi cùng hai cà-vạt, và đồng thời cũng muốn bạn đăng ký làm thẻ tín dụng của trung tâm thương mại. Hoạt động bán hàng sẽ tồn tại mãi mãi và ai cũng phải dùng đến kĩ năng này. Những người có khả năng bán hàng thuyết phục và chốt giao dịch là người có cuộc sống tốt nhất, cho dù họ làm nghề gì. Với Bậc thầy giao dịch, cứ thích là bán, cuốn sách tuyệt vời được viết về đề tài bán hàng trong vòng 50 năm qua thực sự cần thiết đối với những người mong muốn biến giấc mơ thành thiện thực. *** Bán hàng tác động tới tất cả mọi người trên hành tinh. Khả năng bán hàng, thuyết phục, thương lượng và tạo tin tưởng sẽ tác động tới mọi lĩnh vực trong cuộc sống của bạn, và quyết định bạn sẽ làm chủ cuộc sống của mình tốt tới mức nào. Bất kể chức danh hoặc địa vị trong gia đình, xã hội, vai trò trong công ty, đội nhóm của bạn là gì, bạn vẫn phải thuyết phục người khác tin vào điều bạn nói. Khi đó, chính là bạn đang bán hàng. Kĩ năng bán hàng được mọi người sử dụng hàng ngày, không ngoại trừ ai. Bán hàng không chỉ là một công việc hay nghề nghiệp, mà nó còn là điều kiện cần thiết để mỗi cá nhân tồn tại và giàu có. Mức độ thành công trong cuộc sống của bạn phụ thuộc vào khả năng bạn bán cho người khác những điều bạn tin tưởng. Bạn phải biết cách thương lượng và khiến người khác đồng ý với mình. BẬC THẦY GIAO DỊCH, CỨ THÍCH LÀ BÁN, đúc kết với những kinh nghiệm dày dặn qua rất nhiều thất bại của triệu phú, ông vua bán hàng Grant Cardone sẽ giúp bạn thương lượng, thuyết phục người khác một cách dễ dàng và đạt được điều mình mong muốn. Hãy bắt đầu rèn luyện để trở thành BẬC THẦY GIAO DỊCH và nắm lấy cơ hội của cuộc đời mình ngay từ hôm nay nhé ! Thông tin tác giả: Grant Cardone là một chuyên gia đào tạo bán hàng quốc tế và là tác giả bán chạy nhất của thời báo New York với những cuốn sách và chương trình đã ảnh hưởng tích cực đến hàng trăm ngàn người và tổ chức trên toàn thế giới. Xuất hiện thường xuyên trên Fox, Grant, CNBC, CNN, Bloomberg, Huffington Post, Wall Street Journal và hơn 700 chương trình phát thanh trên toàn nước Mĩ. Ông đã thuyết trình trong 25 năm về các đề tài bán hàng, thành công, tài chính, bất động sản và tạo động lực. Với năng lượng dồi dào, khiếu hài hước, bước chân mạnh mẽ của ông khiến khán giả thích thú, hấp dẫn và bị lôi cuốn. Tác giả cũng tham gia nhiều hoạt động cộng đồng và nhận được nhiều giải thưởng cho các nỗ lực của ông từ Thượng viện Hoa Kỳ, quốc hội Hoa Kỳ, Miami, Florida, Quân đội Hoa Kỳ và nhiều cơ quan khác. Mời bạn đón đọc Bậc Thầy Giao Dịch Cứ Thích Là Bán của tác giả Grant Cardone & Nguyễn Linh (dịch).