Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân

Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân, cũng như cuốn hồi ký nổi tiếng Thế giới những ngày qua của Stefan Zweig, mang đến bầu khí quyển của không gian văn hóa Áo-Hung vô cùng đặc thù vào thời điểm bước ngoặt đầu thế kỷ 20. Và nếu Zweig tự nhìn nhận như một “người châu Âu” thì Márai Sándor khẳng định mình là một đại diện cho tầng lớp thị dân đang hình thành; ông đã đi vào ngóc ngách đời sống tinh thần của một giai tầng, ca ngợi những phẩm chất nhưng không quên chế giễu những điều nực cười của môi trường sống xung quanh. Stefan Zweig cũng xuất hiện thoáng qua trong cuốn hồi ký sâu sắc và đặc biệt của Márai Sándor. Không chỉ có thành phố nhỏ Kassa quê hương và thủ đô Budapest, Márai Sándor còn dẫn dắt chúng ta đi qua những đất nước ông từng có thời gian gắn bó: Đức, Pháp, Ý và Anh, với những nhận xét đằm thắm, sâu sắc nhưng cũng có lúc tinh quái đến gây sửng sốt. Chặng đời của ông cũng gắn liền với con đường trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của Hungary. Đọc cuốn hồi ký này, ta càng hiểu rõ con đường ấy nhiều chông gai đến mức nào. Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân đặc biệt hơn cả chính ở sự phô bày đầy chân thực và can đảm một tâm hồn phức tạp, không một chút toan tính giấu giếm hay “tô hồng” nào. Tính trung thực này khiến cuốn sách trở thành một hậu duệ xứng đáng của một dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, từ Thánh Augustin cho tới Jean-Jacques Rousseau, rồi Lev Tolstoy. Về Tác Giả: Márai Sándor họ Grosschmid, sinh ngày 11.4.1900, tại Kassa, Hungary, nay là Kocise thuộc nước Cộng hòa Slovakia. Năm 1923, Márai sang Paris, lưu lại năm năm. Năm 1926 ông bắt đầu hành trình dài ngày tìm hiểu vùng Cận Đông và viết cuốn Theo dấu chân các bậc thánh (Istenek nyomában), xuất bản năm 1927. Thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Márai là khoảng từ năm 1928 đến năm 1948, khi ông trở về sinh sống tại Hungary cùng vợ. Ông làm thơ, viết tiểu thuyết, dịch thuật, viết kịch bản và để lại gần một trăm đầu sách, trong đó có những tiểu thuyết nổi tiếng như Casanova ở Bolzano, Di sản của Eszte, Những ngọn nến cháy tàn, Nhật ký, Lời bộc bạch của một công dân… Márai cũng là bậc thầy của thể đoản văn, những suy niệm của ông bao giờ cũng mang âm hưởng triết lý, cô đọng. Márai được bầu là Viện sĩ Thông tấn năm 1942 và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Hungary năm 1945. Từ 1948, ông sống lưu vong tại Ý và Mỹ. Tác phẩm của Márai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ông được xếp trong số những nhà văn lớn nhất của châu Âu thế kỷ XX. “Và đến giây phút cuối cùng, cho tới khi còn được cầm bút viết nên con chữ, tôi muốn làm chứng rằng: đã có một thời và vài thế hệ mà ở đó trí tuệ đã ca khúc khải hoàn trước bản năng, và tin vào khả năng phản kháng của tinh thần… tôi đã thấy và đã nghe châu Âu, đã nghiệm sinh một nền văn hóa… liệu tôi có thể nhận được gì hơn từ cuộc đời?” - Márai Sándor Lời khen tặng dành cho tác phẩm: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn […] để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…” - Dober Valéria “Cuốn tiểu thuyết của Márai Sándor đơn giả là hoàn hảo. Nó đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới, hơn nữa chúng có thể hiểu được, chấp nhận được đối với những người bình thường, cả đến hôm nay, tám mươi năm sau khi nó ra đời.” - Oláh Tibor *** Tiếp nối dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, cuốn tiểu thuyết “Lời bộc bạch của một thị dân” là một trong những tác phẩm được đánh giá là quan trọng nhất của nhà văn Hungary vĩ đại thế kỷ XX - Márai Sándor. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thế giới thị dân giai đoạn mới hình thành với những chệch choạc ban đầu cùng không ít điều nực cười. “Lời bộc bạch của một thị dân “vừa là tiểu thuyết vừa có thể coi là một cuốn hồi ký của Márai Sándor. Ông viết về cuộc sống ở thành phố nhỏ Kassa của Hungary vào giai đoạn giai cấp tư sản thị dân bắt đầu hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ, với cả những chệch choạc của những bước tiến ban đầu và không ít điều lố lăng, nực cười. Nói như nhà phê bình văn học Hungary Oláh Tibor thì tác phẩm đã “đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới”. Cuốn sách dành một dung lượng lớn cho thời thơ ấu của nhân vật “tôi”, với những miêu tả cặn kẽ, sát thực; ẩn trong đó còn là cả những câu chuyện về các trạng thái tâm lý. Márai Sándor không bỏ qua cả những gì sâu kín, thậm chí là những suy nghĩ xấu xa. Cậu bé trong truyện lớn lên trong một gia đình tư sản gốc gác Saxon (Đức), có bố làm ngân hàng, khá sung túc. Gia đình cậu sống trong khu nhà xây để cho thuê đầu tiên tại thành phố, nơi cậu gắn bó máu thịt, trong tâm trí cậu chỉ có tòa nhà cho thuê này mới là “nhà mình”. Cậu bé có một tinh thần không yên ổn, có lúc bùng phát khiến cậu bỏ nhà đi không nguyên cớ. Sau đó, gia đình gửi cậu bé lên học nội trú ở thủ đô Budapest. Từ đây mở ra những miêu tả vô cùng chân thực về cuộc sống trong các trường học thời kỳ Áo-Hung, vừa nghiêm túc trang trọng vừa hà khắc và che giấu rất nhiều bí mật giữa thầy giáo và học trò, giữa người thế tục và các tu sĩ. Nhân vật trong cuốn sách lớn lên rồi ra nước ngoài, bắt đầu cuộc phiêu lưu đầy hoang mang của anh tại Đức rồi Pháp. Anh viết báo, đi làm phóng sự, giao tiếp với giới thượng lưu nhiều nước, quen biết nhiều nhân vật quan trọng, từng lâm vào cảnh túng bấn, khó khăn cùng cực, vợ anh từng lâm bệnh hiểm nghèo ở Paris trong cảnh quẫn bách. Sau những tháng ngày lênh đênh ở Ý và Anh, đến một ngày anh bỗng cảm thấy thôi thúc trở về cố hương, sống tại quê nhà, và khi ấy không điều gì có thể ngăn cản anh trở về. Dù vẫn vật lộn trong mớ bòng bong đầy hoang mang, nhưng giờ đây trong lòng anh đã dần hình thành một hướng đi, anh đã lờ mờ cảm thấy mình sẽ làm gì và sống ra sao tại quê hương. Márai miêu tả quá cụ thể nhiều con người, nhất là lại đưa ra nhiều nhận xét và chi tiết liên quan đến tôn giáo, chính trị nên Lời bộc bạch của một thị dân từng bị kiện, ấn bản chính thức sau này bị cắt đi không ít đoạn so với các ấn bản trước. Nhận định về tác phẩm này, nhà ngôn ngữ học Hungary Dober Valéria cho rằng: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho ta cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…”/. *** Đây được coi là một cuốn sách kinh điển, theo lẽ dĩ nhiên mình sẽ đánh giá nó là một quyển sách kinh điển. Những giá trị to lớn của nó sẽ không được mình nói ra, vì mình đâu có đủ trình độ thâm sâu đó. Sau đây là vài ý kiến cá nhân về tác giả, nhắc lại là cá nhân. Mà xét cho cùng, đâu ai đọc ngoài mình. Mình thích cách tác giả nhìn nhận về quá khứ thời niên thiếu, tức là quyển I, với những hồi ức, sự quan sát tỉ mỉ, toàn diện và vô cùng chân thực về thời đại và tầng lớp của ông. Mình thích mọi thứ ở chương I, con người, số phận, những câu chuyện, ngôi nhà, những lời thú nhận phũ phàng. Và óc quan sát ấy làm mình khâm phục. Mình không thể nhớ được mình ăn cái gì hồi bé, nó chỉ như những mảnh ghép chắp vá của kỷ niệm. Thế nên khi Marai Sandor vẽ ra một thời kỳ chi tiết đến kinh ngạc về những con người xung quanh ông, thậm chí từ việc đi vệ sinh cho đến những quyển sách họ vẫn hay đọc, rồi ngôi nhà ngày bé, cha mẹ ông, gia phả nhà ông, rồi câu chuyện bỏ nhà trốn đi khi mới lớn,... mình đã rất vui khi được đọc nó. Nhưng chương II là một câu chuyện khác, đó là khi tác giả đã bắt đầu lớn hơn với một thế giới rộng lớn hơn các thành phố nhỏ thơ ấu, những quan sát, vốn sống, những nhận xét sắc sảo về các thành phố, con người, dân tộc khác ở châu Âu vẫn rất đáng để đọc. Cái mà mình không thích chính là tác giả, tính cách, con người, nội tâm tác giả (nếu đây được coi là một quyển hồi ký), mình không thích con người đó. Mình chưa thấy ai lại vô lý như vậy. Anh ta thà ăn ở một nhà tế bần với những người nghèo khổ khác (cho dù gia đình anh ta cũng thuộc dạng trung lưu có tiền) còn hơn ăn chung với những người lao động ở khách sạn nơi ông bác làm việc. Anh ta không chịu đựng được việc mình bị phân chia cùng hạng với những người làm thuê, coi đó như một sự xúc phạm. Và anh ta đổ lỗi cho giai tầng của mình. Anh ta nói ghét những người người suốt ngày la cà ở những quán café, trong khi chính bản thân cũng là một người như thế. Trong quyển II, phân nửa những gì tác giả làm là đi vào một quán café văn chương, đốt tiền bạc, đọc báo và chẳng làm gì hết. Anh ta không bao giờ thừa nhận sự quan trọng của tiền bạc, đúng là suy nghĩ của những người sung túc và không chịu cúi mình mà thực tế lấy một ngày. Thậm chí khi đói kém, anh ta đi ăn ở một nhà tế bần, anh ta nhờ vả gia đình, thậm chí là để vợ nuôi. Mình không thích kiểu người đó. Với mình, tác giả chỉ cố gắng làm ra vẻ thoát tục, anh ta không chịu tầm thường bản thân bằng việc chịu sự chi phối của tiền bạc. Nghệ thuật và tài năng quan trọng hơn. Anh ta còn là một kẻ vô trách nhiệm hiếm thấy. Mình không thấy anh này mảy may hối hận về tuổi trẻ bồng bột khi anh ngủ với nhiều cô gái, thậm chí là dắt họ trốn khỏi chồng rồi bỏ rơi họ. Rồi anh ta lấy vợ, một người cùng giai tầng với mình, anh ta có lẽ cũng chẳng yêu cô ta. Những gì mình thấy khi họ miêu tả cuộc hôn nhân là sau một vài nỗ lực làm người chồng có trách nhiệm trong một thời gian ngắn, anh này tiếp tục bỏ đi café, bỏ đi nơi khác vài tháng, vài năm, bỏ về nhà trong khi vợ vẫn đang ở Paris. Khi cuộc hôn nhân ở bên bờ vực phá sản, anh ta để vợ về nhà và cho cô tự quyết định lấy, không thèm níu kéo, không hỏi thăm, không một lời nào hết, anh để cô đi, kết quả ra sao cũng được. Anh ta đi khắp nơi, từ châu Âu đến Trung Đông, nói là vì trách nhiệm của người chồng là viết văn kiếm tiền. Tất cả chỉ là ngụy biện, anh ta chỉ quan tâm đến sở thích, đến mơ ước của bản thân, còn cuộc sống nghèo khổ của vợ, mong muốn của cô ta, nó đâu có ý nghĩa như mong muốn của anh. Mình thấy tội cho cô vợ, nhưng cô này tự chọn lựa việc gắn bó với tác giả đến cuối đời nên mình không dám ý kiến nữa. Mỗi khi tác giả làm một việc gì sai, anh ta thường đổ lỗi cho bệnh tâm thần và sự cô đơn cần thiết của một nhà văn. Rõ ràng anh ta nhận thức được mình là một người chồng không ra gì nhưng anh ta không đủ dũng cảm để nhận trách nhiệm. Là một người Việt Nam, mình thấy khó thông cảm cho những con người phương Tây cố gắng đổ lỗi cho mọi thất bại của họ cho những bệnh tâm lý nào đó mà chỉ có Sigmund Freud mới hiểu được. Nào đó tâm thần, nào là những vết thương thời thơ ấu, họ đốt cả đống tiền cho bác sỹ tâm lý và chẳng làm điều gì để thay đổi nó hết. Tác giả viết rất nhiều về trách nhiệm của nghề báo, về người cầm bút và trách nhiệm của bản thân, điều này làm mình khá nực cười. Mình đoán là tác giả là một nhà văn có đạo đức, dù gì ông cũng là người nổi tiếng và những tác phẩm của ông đều chỉn chu và phô diễn một tài năng không thể phủ nhận. Nhưng cái cách tác giả bỏ nhà đi mà không thăm hỏi những người anh bỏ lại, cách anh ta bỏ rơi những cô gái, những bạn bè của anh, anh đi xa vợ, anh ta thích cô đơn, anh ta là kẻ không có quyền nói về trách nhiệm của con người. Với mình, quyển I là vàng, quyển II là sự thất vọng. Cá nhân mình thích những con người tài năng và kiêu ngạo chút cũng không sao, như Mourinho chẳng hạn. Nhưng tài năng của Marai Sandor không thể che lấp một cá nhân yếu đuối, ích kỷ, hoang tưởng và thậm chí nhẫn tâm của ông.  Nhưng ít nhất đây là một "lời bộc bach", mình đoán tác giả không cần một đứa như mình nhận xét tiêu cực và cách làm người của ông, người ta đã là một tác giả tầm vóc thế giới. Cái ông ta đưa ra là một góc nhìn từ cuộc sống và cho dù góc nhìn ấy đúng hay sai, nó cũng đặc biệt. Chỉ là mình không thích những người như vậy và mình chưa đủ chín chắn để giữ nó trong lòng. Và còn cả tính khoe mẽ từ những từ nước ngoài chen vào một câu văn nữa.   Mời các bạn đón đọc Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Lạc Lối Ở Birmingham
Những câu chuyện thiên nhiên diễm tuyệt, những câu chuyện về lòng nhân ái, tình người sống động ở Cambridge, Bermingham… tưởng chỉ có trong truyện cổ. Một Anh Quốc cổ kính, thâm trầm luôn mời gọi ta đi xuyên qua vẻ đẹp bề ngoài để chạm vào giá trị vô hình bên trong. Chuyện thầy trò, tình bạn tuyệt vời của những sinh viên quốc tế hay chuyện tinh thần con người xuyên thời gian, không gian được mô tả nhẹ nhàng, lay động, cuốn hút và lấp lánh trong cuốn sách này. *** Cuốn sách này là tập hợp những bài nhật ký, trải nghiệm du học Anh quốc đăng lần lượt trên trang Facebook của Nina Lê, được nhiều người quan tâm. Trước đây, đã có Dương Thụy, Ngô Thị Giáng Uyên… thành công với chủ đề này. Nina Lê cũng chia sẻ rằng, cô đã được truyền cảm hứng từ tác phẩm Dương Thụy ngay khi còn học trường quốc tế ở Sài Gòn; cũng từng mơ mộng về những khoảng trời du học đầy thi vị. Sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, gia đình có điều kiện kinh tế tốt, được học phổ thông tại một trường quốc tế, 15 tuổi thì có học bổng đi du học Anh… Đọc qua lời giới thiệu về tác giả, bạn đọc trẻ sẽ nói rằng, đây là một xuất phát điểm quá “đỉnh”. Còn độc giả lớn tuổi thì dễ nghĩ rằng: “Lại một tiểu thư thế hệ bơ sữa”. Nghĩa là, vậy thì quá êm đềm nhung lụa, có gì “góc cạnh” để nói? Vậy mà trong hành trang du học của cô gái thuộc “thế hệ bơ sữa” ấy lại không ít những trăn trở. Cô đang gánh một sứ mệnh được gọi là “công dân toàn cầu, bước ra thế giới”, đang mang theo kỳ vọng của gia đình về một tương lai khác, phải thích ứng ở một nền giáo dục khác. Thế hệ ấy cứ ngỡ thiếu vắng những nồng ấm tình cảm, đứt gãy với các giá trị truyền thống từ tình thân, gia đình, quê hương…, nhưng đọc những trang viết của cô gái này, độc giả sẽ thấy hoàn toàn ngược lại. Từ đó, để hiểu và chia sẻ nhiều hơn với những băn khoăn của những người trẻ khi mà điều kiện thăng tiến luôn đi cùng với những hy sinh trong đời sống tinh thần, kể cả phải một mình đương đầu với những khó khăn nơi xứ người… Làm sao để đơn độc bước ra thế giới bên ngoài mà không bị lạc lối? Những khung cảnh thiên nhiên diễm tuyệt, những câu chuyện về lòng nhân ái, tình người sống động ở Cambridge, Birmingham… tưởng chỉ có trong truyện cổ. Một Anh quốc cổ kính, thâm trầm luôn mời gọi ta đi xuyên qua vẻ đẹp bề ngoài để chạm vào giá trị vô hình bên trong. Chuyện thầy trò, tình bạn tuyệt vời của những sinh viên quốc tế hay chuyện tình thân con người xuyên thời gian, không gian được mô tả nhẹ nhàng, lay động, cuốn hút và lấp lánh trong cuốn sách này. Mỗi câu chuyện là một sự gợi ý đầy cởi mở, thú vị. Đây có thể xem là những trang viết trải nghiệm du học có màu sắc du ký đầy mới mẻ của một thế hệ khác, rất khác với những gì độc giả trong nước từng đọc ở Dương Thụy hay Ngô Thị Giáng Uyên. Một cuộc dấn thân thú vị, không thiếu những gập ghềnh, cô đơn, nhưng cũng đầy say mê! Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, PHƯƠNG NAM BOOK *** Viết cuốn sách này, con kính tặng cho ba Hà và mẹ Châu. Có câu nói, món quà tuyệt nhất ba mẹ có thể cho con cái chính là gốc rễ và đôi cánh. Cám ơn ba mẹ đã chắp cho con đôi cánh vững chắc để bay giữa đất trời mênh mông, và truyền cho con sự am hiểu về nét đẹp văn hóa của cội nguồn. Dù con có bay đi đến phương trời nào, con sẽ luôn nhớ mình là ai, nhớ cái gốc gác đã tạo nên cốt cách bên trong con! Mời các bạn đón đọc Không Lạc Lối Ở Birmingham của tác giả Nina Lê.
Mùi Hương Trầm
Trải dài từ Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa,... trên thực địa, với núi Linh Thứu, vườn Lộc Uyển, Lâm-tì-ni, Lhasa, thành phố Varanasi,... mỗi dấu chân du hành không mang lấy cái chộn rộn của xu thế du lịch điểm đến phổ biến đương thời, mà hướng người đọc đi vào những "con đường đá trên núi" của sự chậm rãi chiêm nghiệm, sự thấy của đôi mắt bên trong. Con đường thực tế trong thế giới ngổn ngang và con đường tâm thức lấy những kinh văn, tri thức làm trung tâm luôn tìm cách đi đến hợp nhất.   Dấu chân du hành của Nguyễn Tường Bách trong Mùi hương trầm không chỉ mời gọi người đọc khám phá thực địa, mà còn gợi mở sự chứng ngộ, khai mở một cảm quan minh triết. *** Đúng ngày Tết dương lịch 1.1.1989 tôi hăm hở lên đường đi Ấn Độ. Dù lúc đó đã sống hai mươi năm ở nước ngoài, tôi vẫn thấy xa lạ với xứ sở huyền bí này. Ngày xưa dù chưa sống xa nhà, tôi đã có ý niệm về Pháp, về Mỹ, về Canada. Hồi đó tôi đã thích nền văn hóa phương Tây, đã yêu văn chương tiếng Pháp, đã biết lối sống Mỹ. Còn Ấn Độ là gì đối với tôi? Đó là quê hương của Gandhi[1], một vùng bán đảo rộng lớn với Hy-mã lạp sơn, với Hằng Hà đầy cát. Tôi biết Ấn Độ chỉ giản đơn như thế, nhưng điều đậm nét trong tôi là, đây là một xứ sở huyền hoặc, hầu như được bọc trong một tấm màn thần thoại. Những tài danh của Ấn Độ mà tôi biết thường là những nhà văn nhà thơ như Tagore hay Krishnamurti, các vị đó xem ra cũng rất huyền bí. Còn các nhà đạo học, dù đó là Phật Thích-ca hay các đạo sĩ, tất cả đối với tôi có tính hoang đường nhiều hơn thực tại. Và dù các vị đó có thật đi nữa thì họ quá cao xa đối với tôi. Lên đường đi Ấn Độ, tôi chỉ là một người Việt Nam làm công cho một công ty sản xuất máy phát điện ở Đức, làm nhiệm vụ mà ngày nay người ta gọi là tiếp thị, có cái vai trò sales manager đi bán một món hàng hết sức trần thế. Tôi nhớ lại một anh bạn tuổi lớn hơn mình nhiều, anh có tiếng là thầy bói ngoại cảm. Một ngày nọ xa xưa, anh nhìn tôi cười nửa đùa nửa thật: “Chú em kiếp trước làm thầy tu bên Ấn Độ”. Tôi nghe xong lòng không lấy gì thú vị, làm vua chúa thì may ra. Không, làm sao tôi mà là thầy tu được, tôi còn ham rượu thịt, còn ham vui chơi. Tôi càng không phải là người Ấn Độ, nếu không sống tại Việt Nam, tôi chỉ thích sống ở châu Âu văn minh và cổ kính. Máy bay từ châu Âu đến Delhi thường hạ cánh lúc nửa đêm, giờ địa phương. Ngày đó Pan Am còn là một hãng hàng không uy tín của Mỹ, cạnh tranh với Lufthansa của Đức tranh nhau chở khách đi Ấn Độ. Thời đó tôi chưa hiểu sao có nhiều khách đi Ấn Độ, khách làm ăn có, khách du lịch có. Ngày đó tôi đâu biết, đó là một thị trường khổng lồ cho dân làm ăn và một lịch sử vô song cho người du lịch. Ở sân bay Delhi của Ấn Độ có một thứ mùi nửa lạ nửa quen làm tôi chú ý. Mùi này hai mươi năm qua tôi chưa từng hít thở lại. “Eau de javel”! Thì ra cái thứ mùi để chùi rửa vệ sinh của những ngày xa xưa trong thời thơ ấu của tôi nay vẫn được sử dụng tại sân bay quốc tế này. Mùi này tôi đã quên rất lâu, xứ Đức không có, Việt Nam ngày nay cũng không, không ngờ nơi đây vẫn thông dụng. Ngày nay mỗi lần đến Ấn Độ tôi đều chuẩn bị để hít thở mùi này, thứ mùi gây cho tôi cảm giác vừa khó chịu vừa dễ chịu. Khó chịu là chỉ những nơi dơ bẩn ta mới biết đến nó và dễ chịu là sự yên tâm dù sao cũng có ai đó lo cho sự vệ sinh ở đây. Tôi ngồi gọn trong ghế bành nghe người ta nói tiếng Anh. Đồng nghiệp người Đức của tôi nói tiếng Anh rất dễ nghe, có lẽ thứ tiếng Anh của tôi cũng có cái giọng như thế. Đó là một thứ tiếng Anh giọng Đức, thứ tiếng Anh hay bị chê cười trên thế giới. Người ta gọi đó là tiếng Anh của Kissinger vì nhà chính trị này sinh tại Đức, sống lâu ở Mỹ nhưng vẫn nói thứ giọng “quê mùa” này. Còn tiếng Anh của Ấn Độ là một thứ tiếng Anh lạ lùng, tôi nghe không hiểu gì cả. Tôi nhớ mình thích tiếng Anh của người Hồng Kông vì tiếng Anh của họ dễ hiểu, thanh quản và phát âm của họ xem ra giống của tôi. Tôi vốn sợ thứ tiếng Anh của người Úc và của người Mỹ vì khó hiểu nhưng có đến Ấn Độ mới thấy có thứ khó hiểu hơn. Điệu bộ cử chỉ của người Ấn cũng khác, họ hay dùng bàn tay để “minh họa” cho lời nói. Bàn tay của họ cứ lật qua lật lại theo nội dung câu chuyện. Tôi phải làm việc hàng tuần trong cái xứ đầy mùi lạ, tiếng lạ, phòng ốc chật chội này ư? Văn phòng đại diện của chúng tôi tại Delhi thuộc loại tầm cỡ nhưng phòng ốc hết sức hạn chế. Tại sao người ta thuê tuyển nhiều người như thế, bàn nọ kê sát bàn kia, nhân viên hàng tá làm gì cho hết ngày giờ? Sau này tôi mới biết họ có nhiều người là để giúp việc cho chúng tôi, có những tea boy chỉ chuyên bưng trà rót nước, những công việc mà tại phương Tây chúng tôi phải tự làm. Dễ chịu thay. Chỉ sau một ngày, tôi đã nhờ một cô gái đi copy văn bản. Bất ngờ thay, cô ta lắc đầu. Tôi đang tự hỏi tại sao cô này từ chối lời yêu cầu nhã nhặn của mình thì đã thấy cô nhặm lẹ cầm giấy tờ chạy đi làm việc. Thì ra cái lắc đầu của người Ấn Độ chính là cử động gật đầu của ta. Còn khi họ từ chối thật thì đầu họ cũng lắc cách khác. Đối với tôi lúc nào họ cũng lắc đầu cả. Khó hiểu thay, những người Ấn Độ! Từ văn phòng chúng tôi nhìn ra là công trường Nehru đầy người. Đó là chỗ bán cam bán chuối, bến đợi xe bus, xe hàng rang hạnh nhân đậu phộng, chỗ sửa xe taxi, bến đậu xe “túc-túc”, nơi của khỉ làm trò… Cuộc sống ở đây xem ra vừa vội vã vừa chậm chạp. Trên công trường Nehru đó hàng trăm người ngồi chơi sưởi nắng xem ra không có gì làm, hôm nay là một ngày mùa đông. Xung quanh họ là những người ăn mặc hết sức nghiêm túc theo kiểu người Anh đang vội vã rảo bước, họ tìm kiếm điều gì trong xứ sở nghèo nàn này? Về sau tôi biết thêm Ấn Độ là một xứ sở của những hình ảnh đối chọi. Đường sá đầy xe cộ với mùi xăng khét lẹt làm tôi nhớ Việt Nam. Taxi của họ là những chiếc xe nội hóa cũ kỹ với cái tên vang dội “Ambassador” mà bốn bánh xe thường mòn nhẵn làm chúng tôi e ngại, mỗi chuyến đi là một trò chơi ít nhiều rủi ro, nhất là khi gặp trời mưa. Thế nhưng đã quen cách đi liều của mình và thấy đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm Ấn Độ của tôi cũng chưa có ai mang vết tích gì trên người nên tôi yên tâm tự nhủ đời người có số. Chỉ vài ngày sau khi đến Ấn Độ người ta đã biết đây là một xứ sở mang nặng đầu óc tôn giáo. Trong taxi tài xế thắp nhang liên tục, họ khẩn cầu một vị thần nào bảo hộ cho họ, cho họ nhiều khách và ít tai nạn. Ngoài đường các đàn bò đi đứng nằm ngồi xem ra rất tự nhiên thoải mái, tài xế lái xe thường rất hấp tấp nhưng khi gặp chúng đều kiên trì chờ đợi, không có một tiếng còi. Ra khỏi Delhi vài cây số là đã xanh một màu cây cối, ở đây cơ man nào là khỉ. Theo người Ấn, chúng là hậu thân đáng thương của đời làm người, là cha mẹ anh em ngày trước, chúng được đối đãi bình đẳng và sống chung với người. Ngày nọ tôi đến làm việc tại một cơ quan chuyên trách “kiểm tra chất lượng” của bộ phận turbine. Đó là một tòa nhà nhỏ nằm trong một khu vườn lầy lội sau cơn mưa. Vừa bước xuống xe, một con heo rừng từ đâu đâm đầu chạy đến. Tôi vội thót lên xe, đóng cửa đánh rầm. Sau đó hỏi ra nó chỉ là một heo nhà tầm thường nhưng chạy nhảy nhiều quá nên có cái bụng thon của một con heo rừng lực sĩ. Tại Ấn Độ, thời gian lưu trú nhiều tuần cho phép tôi học nghe tiếng họ nói, học nhìn cách họ làm để giải quyết công việc của mình và khám phá nhiều điều lớn lao hơn. Xuất phát từ một cấu trúc xã hội có tính đẳng cấp, người Ấn Độ rất khó thân cận. Lạ thay, đối với thú vật thì họ gần gũi mà đối với người thì họ xa cách. Hình như mỗi người Ấn Độ khi gặp người khác, việc đầu tiên là họ định nghĩa ai hơn ai, về đẳng cấp huyết thống ai ưu việt hơn ai. Đi Ấn Độ hàng chục lần, tôi kết luận rằng đó là một xứ sở của sự phân biệt giai cấp. Người giàu có thì hợm hĩnh khinh người, người nghèo khổ thì yên phận chịu đựng. Những người mà tôi gặp và làm việc đều là kỹ sư hay thương nhân, họ thuộc thành phần có học và có tiền, trong nội bộ xã hội, họ coi khinh người khác, đối với chúng tôi ở nước ngoài đến thì họ e dè và phức tạp. Đối với người nước ngoài, người Ấn Độ vừa có mặc cảm tự ti vừa tự tôn. Họ biết rất rõ bán đảo bao la của mình là một cái nôi văn hóa và học thuật của loài người. Cuộc đời của nhiều vĩ nhân nước họ là những bó đuốc soi đường cho hậu thế. Nền văn minh, triết lý và tôn giáo của họ là nền tảng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, kể cả của Âu Mỹ và Trung Quốc. Thế nhưng nước họ ngày nay thuộc loại lạc hậu nhất, đời sống dân chúng khốn khổ nhất. Họ có cái đau khổ của một nhà quí tộc khánh kiệt. Cho nên khi một người nước ngoài đứng trước mặt họ, họ lúng túng không thể định nghĩa ai hơn ai kém. Và khi gặp chúng tôi, kẻ đi bán một thiết bị hiện đại, họ càng lúng túng. Vì trình độ kỹ thuật còn non, họ phải đi mua; nhưng vì là khách hàng họ thấy mình được o bế. Thế thì ai hơn ai thua, xem ra họ rất thắc mắc. [1] Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948), lãnh tụ tranh đấu giành độc lập của Ấn Độ. Mời các bạnd dón đọc Mùi Hương Trầm của tác giả Nguyễn Tường Bách.
Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn
Ảnh viện không đơn thuần là nơi làm dịch vụ ghi chép hình ảnh, nơi diễn ra những giao dịch nhất thời giữa những người cần ảnh với thợ chụp ảnh, đó là một kho tàng ký ức về con người và nơi chốn, một nguồn dữ liệu nhân học, nhân trắc học, xã hội học, sử liệu cộng đồng. Nhưng đó lại có thể không hơn gì một đống tro tàn sau những bể dâu thời cuộc. Ký ức một ảnh viện Sài Gòn hay Câu chuyện Viễn Kính có thể xem như một dự án du khảo được tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên thực hiện trong suốt gần một năm. Cuốn sách hơn 220 trang là một câu chuyện đồ sộ về nhiếp ảnh, những hình ảnh quý giá một thời vàng son lẫn cay đắng của lịch sử. Ông Đinh Tiến Mậu, nhân vật chính của câu chuyện – chủ hiệu ảnh Viễn Kính tiếng tăm của Sài Gòn, kể về sản nghiệp của một đời thợ ảnh cứ như không có chuyện vậy, nhẹ tênh, phẳng phiu, liền lạc. Như chẳng có chuyện gì, tay thợ ảnh ấy từng trở thành chứng nhân của lịch sử hay có ảnh đăng trên những trang báo hàng đầu. Như chẳng có chuyện gì, ảnh viện của ông là chỗ chụp chân dung của các ngôi sao hàng đầu làng giải trí miền Nam. Nguyễn Vĩnh Nguyên là tác giả của nhiều tựa sách hay, được bạn đọc yêu thích như: Đà Lạt một thời hương xa (NXB Trẻ 2016), Những thành phố trôi dạt (Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn 2017), Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách (NXB Trẻ 2015) và hàng loạt cuốn tạp văn, truyện ngắn khác. Đặc biệt, với tác phẩm Đà Lạt một thời hương xa anh đã đạt giải Sách hay 2017, hạng mục Phát hiện mới. *** Review Phạm Huyền Trang:   Tôi rất thích nhìn ngắm những hình ảnh của một thời xưa cũ đặc biệt là những tư liệu liên quan đến thành phố Sài Gòn. Và tôi đã tìm thấy tất cả những điều ấy qua cuốn sách của nhà văn, nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên với cái tên "Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn - Câu Chuyện Viễn Kính". Những ai quan tâm đến nhiếp ảnh Sài Gòn chắc đều không thấy xa lạ với hiệu ảnh Viễn Kính. Đó là một cửa hiệu của "thợ ảnh" Đinh Tiến Mậu được mở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) của Sài Gòn từ năm 1963. Trái ngược với nhiều người hay quan trọng những danh xưng như "nghệ sĩ nhiếp ảnh" hay "nhiếp ảnh gia", Đinh Tiến Mậu chỉ luôn nhận mình là "thợ ảnh". Ấy thế mà những bức ảnh lưu lại của ông đều cho thấy những khoảnh khắc thần sầu của những người đẹp vang danh một thuở hay những khung hình tuyệt đẹp của "hòn ngọc viễn đông". Cuốn sách chỉ đơn giản là những lời kể rời rạc của Đinh Tiến Mậu về những con người của Sài Gòn những ngày quá vãng hay những câu chuyện xung quanh nghề nghiệp của ông. Vậy nhưng nó đủ sức khơi gợi hình ảnh và không khí cả một đô thị sầm uất những năm trước 1975. Đó là Thẩm Thúy Hằng - "người đẹp Bình Dương" với vẻ đẹp bất tử trong tà áo dài bà Nhu sang trọng, quý phái. Là ca sĩ Diễm Thúy đẹp gợi cảm với "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang". Là nghệ sĩ cải lương Thanh Nga nền nã trong chiếc áo dài cổ cao, đeo vòng ngọc trai, với những ngón tay thanh mảnh nâng niu một nhành hoa nhỏ. Đúng như Nguyễn Vĩnh Nguyên khẳng định “Những bức chân dung thách thức thời gian ấy vẫn toát lên sinh khí của một thời kỳ văn hóa đô thị giàu có và tươi đẹp”. Giai nhân không đơn giản chỉ là "người đẹp", họ còn là người lưu giữ cái đẹp vượt thời gian của cả một vùng văn hóa. *** Ảnh viện không đơn thuần là nơi làm dịch vụ ghi chép hình ảnh, nơi diễn ra những giao dịch sòng phẳng nhất thời giữa những người cần ảnh với thợ chụp ảnh, đó là một kho tàng ký ức về con người và nơi chốn, một nguồn dữ liệu nhân học, nhân trắc học, xã hội học, sử liệu cộng đồng. Nhưng đó lại có thể không hơn gì một đống tro tàn sau những bể dâu thế cuộc. Từ lâu, người viết cuốn sách này bị cái thế giới của những ảnh viện truyền thống mê hoặc, dẫn dụ đi vào nhiều mảnh sử cá nhân thú vị qua những tấm ảnh, bộ ảnh cũ xưa trong cuộc hành trình tìm kiếm ký ức đô thị. Tôi có thể đứng hàng giờ nhìn những người thợ ảnh tỉ mỉ chấm từng nét li ti để tạo ra một mảng tối trên bức chân dung khiến bóng hình tiền nhân quá vãng trở nên “có thần”. Tôi cũng thầm nể phục người làm buồng tối loay hoay như những phù thủy pha chế chất hiện hình để dung nhan người xưa hiện lên rõ nét trên nền giấy ảnh mới… Người đã chết hay người còn sống. Tuổi trẻ và tuổi già. Khung cảnh còn và mất. Tất cả. Dòng thời gian trôi qua khốc liệt dưới bàn tay tỉ mẩn của họ. Liệu có thể tiếp cận cuộc đời họ theo một cách thức nào đó? Câu hỏi trở thành một mối day dứt, một món nợ khi tôi gặp ông – nhân vật của cuốn sách này. Báo chí đương thời gọi ông là nhà nhiếp ảnh, nhiếp ảnh gia, nghệ sĩ nhiếp ảnh – những danh hiệu cao quý – bởi loạt chân dung ông thực hiện và gìn giữ nhan sắc Sài Gòn một thuở. Nhưng không ít lần tôi thấy ông lúng túng trước đám đông khi được hỏi về quan điểm nghệ thuật, lý thuyết nhiếp ảnh và các vấn đề có vẻ hệ trọng khác. Tôi lại gặp ở ông sự lúng túng tương tự trong quá trình ba tháng tiếp cận, lấy chất liệu cho cuốn sách mỏng này. Với nhiều người, hẳn có chút hụt hẫng. Nhưng với tôi, đó là niềm hứng thú hạnh ngộ. Trong thời buổi mọi danh hiệu, thành tích có thể dễ dàng được phong tặng, tôi quý những con người bình thản nói rằng, họ không chịu trách nhiệm về những lời phong tặng hay định kiến từ người khác. Trong thời buổi vô số người muốn mình trỗi vượt trên đám đông, tôi nể phục những người chọn sự bình thường, làm chủ đời sống và sống hài hòa với cộng đồng. Trong thời buổi ai cũng có thể tự xưng tụng, bày tỏ quan điểm nọ kia, từ chính trị, tư tưởng đến văn hóa nghệ thuật, tôi ngưỡng mộ người tự nhận mình là một thị dân bình thường. K_008-1 Nhưng viết về một người bình thường không hề là chuyện đơn giản. Bởi dù muốn dù không, cái bình thường ấy cũng không tránh khỏi việc diễn giải bằng hệ thống nọ, thuyết luận kia (đời sống vốn là một rừng hệ quy chiếu!). Tôi chọn giải pháp kể chuyện tuyến tính, có những chương ghi chép lời kể của nhân vật để tạo ra sắc thái khách quan, tự nhiên nhất có thể. Hai phần đầu sách, thiết nghĩ, cũng cần điểm qua vắn tắt về lịch sử phát minh bộ môn nhiếp ảnh, cuộc du hành của nhiếp ảnh phương Tây vào Việt Nam và tư duy “nghệ nhân - làng nghề” trong đời sống mỹ thuật truyền thống của người Việt từ xa xưa đến đầu thế kỷ XX; chuyện những “nhà chụp ảnh” đầu tiên ở Huế, Hà Nội, Sài Gòn. Phần 3 là câu chuyện nghề ảnh từ Lai Xá đến Sài Gòn, “lộ trình” mà nhân vật của cuốn sách – một cậu bé quê Lai Xá đi qua. Phần giữa cuốn sách là giọng kể của nhân vật, thuật lại chuyện học nghề ảnh ở Hà Nội, Sài Gòn rồi khởi nghiệp tại Chợ Lớn. Việc trung thành sự thật, theo sát lời kể là nguyên tắc đầu tiên. Và điều này không ít lần khiến người viết gặp khó khăn vì nhân vật nay đã tuổi cao sức yếu, có những chi tiết nhầm lẫn và cả những vùng mờ ký ức, khó tường tận. Chưa kể, có những điều thuộc về quá vãng, một thời kỳ mà để thích ứng thực tế, người ta đã phải cố quên đi nhiều thứ quý giá thuộc về đời sống tinh thần, và, lâu ngày thì cái cố quên đã trở nên lãng quên thật. May sao, người bạn đời của ông cũng đã giúp tôi một phần trong việc phục dựng vài mẩu chuyện gia đình và hiệu ảnh, dù không hoàn toàn. Nhưng hẳn là cuốn sách này không chỉ dừng lại ở câu chuyện thăng trầm của một hiệu ảnh. Nó ngầm mang một tham vọng lớn hơn, khi độc giả nhận ra vào những phần cuối, câu chuyện chính biến Sài Gòn được đặt bên cạnh cái nhìn “bình thường” của anh thợ ảnh; những thay đổi thế cuộc tạo ra sang chấn đối với cuộc sống người bình dân trong xã hội, dù có lúc lẽ ra anh ta đã có thể là nhân chứng cho một sự kiện, một bước ngoặt trong lịch sử thành phố hay từng ở khoảng cách rất gần những yếu nhân… Bởi là người bình thường, anh ta không bước vào những đại tự sự, càng không dự phần vào những sự kiện hệ trọng, mà âm thầm kiếm sống bằng cái nghề một cách chuyên nghiệp, rồi như bao nhiêu thợ ảnh, nghệ nhân khác trên đất nước này, anh ta vô tình lưu giữ một kho tàng hình ảnh cộng đồng, hơn thế, những dung nhan mà cộng đồng một thời ái mộ. Hai phần cuối sách là hành trình trở lại thực tại đầy dung dị nhẹ nhõm. Như đi hết một vòng tròn sự nghiệp, ông Viễn Kính – Đinh Tiến Mậu – trở về với tư cách chính của mình, sự hiện diện của ông trong Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá, là một thợ ảnh, một nghệ nhân đúng nghĩa. Xoay quanh câu chuyện của ông Đinh Tiến Mậu, ít nhiều tôi có chạm đến những tên tuổi lẫy lừng trong một số lãnh vực của xã hội Sài Gòn cũ. Không cách nào khác, những mảnh chuyện rời rạc, sự dính líu của họ đến trục chính câu chuyện hy vọng sẽ gợi phần nào không khí đời sống tinh thần của miền Nam trước năm 1975. Kể lại lịch sử một ảnh viện trong một đô thị lớp lớp phế hưng là một việc làm khó khăn nhưng rất cụ thể trong cuộc kiếm tìm ký ức đô thị nói chung. Một hành trình không dài, người viết cuốn sách này tin rằng, không hề đơn độc. Rất mong được sự đón nhận, đồng cảm, góp ý, gợi ý của quý độc giả. Tác giả Sài Gòn, tháng 6-2017 Mời các bạn đón đọc Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Đà Lạt, Một Thời Hương Xa
Đà Lạt được kiến tạo từ những cuộc du hành văn hóa trong quá khứ. Đà Lạt từng là không gian văn hóa đô thị có sức hấp dẫn riêng, nơi gặp gỡ của những khát vọng tri thức lớn, điểm đến của những hành trình sáng tạo đầy lý tưởng. Tất cả đặc biệt cô đọng trong giai đoạn hai mươi năm mà tác giả cuốn sách này chọn khảo sát - một quá khứ gần - nhưng dường như đang đứng trước nguy cơ bị phủ lấp, xóa nhòa bởi bụi thời gian… Nhân vật, sự kiện, hiện tượng văn hóa được phục dựng lại bằng ghi chép điền dã khảo cứu, kết nối tư liệu và những kiến giải riêng. Quá khứ được đồng hiện trên nền văn phongvừa bay bổng vừa giàu chiêm nghiệm, định hình một lối văn với Đà Lạt, của riêng Đà Lạt. Với cuốn du khảo này, Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là người lữ khách của vùng trời sương khói riêng tư nữa, mà là một nhà du hành, tri hành đường dài, dấn bước trong đơn độc về miền quá khứ với khát khao được chìm đắm vào tâm hồn của đô thị thời hoàng kim. Món quà dành cho những người yêu và thực lòng muốn hiểu giá trị Đà Lạt! *** Nhà văn, nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên vừa ra mắt tập sách Đà Lạt một thời hương xa (Du khảo văn hóa Đà Lạt 1954 - 1975) - công trình được anh thực hiện với một tình yêu 
Đà Lạt sâu đậm. Chia sẻ với công trình của Nguyễn Vĩnh Nguyên, dịch giả Trần Đức Tài - một cư dân gắn bó với Đà Lạt bấy lâu nay - cho biết: “Đọc Đà Lạt một thời hương xa trong dòng chảy miên man của ký ức, vừa đối chiếu, vừa bổ sung, thật là một du hành thú vị ngược thời gian. Nhất là khi ngồi trong một quán cà phê vắng lặng đọc một mình. Tôi đọc hết cuốn sách trong hai lần ngồi quán cà phê nương náu cho qua những cơn mưa dầm”. Sinh ra từ tham vọng của người Pháp, Đà Lạt là một thành phố bẩm sinh đã ngược đời. Giữa cao nguyên hoang vu đột ngột mọc lên một thành phố không hề theo quy luật tự nhiên là từ thôn làng phát triển dần dần thành đô thị. Thoắt một cái, những gì tinh hoa nhất của văn minh phương Tây ào ạt tụ về giữa rừng rú. Đà Lạt trong tinh thần đã và vẫn là một bí ẩn. Đà Lạt trong tâm thức mỗi người là một chân dung khác nhau. Những gì không còn tồn tại nhưng luôn được nghe nhắc đến qua những chuyện kể lại tản mác và khuếch tán qua hoài niệm lẫn tình cảm cá nhân luôn phủ lên Đà Lạt một màn sương huyền thoại. Nguyễn Vĩnh Nguyên đã cố gắng vén màn sương ấy qua nỗ lực sưu tầm tư liệu và thực địa. Đó là cách làm đúng nhưng không thể tránh khỏi hạn chế khách quan lớn nhất mà người nghiên cứu nào cũng gặp là điều kiện tiếp cận nguồn tư liệu gốc. Tư liệu càng dồi dào, đa chiều thì góc nhìn càng rõ. Những bài như bài viết về Nhất Linh hay về môi trường giáo dục chẳng hạn, là những bài thành công theo hướng này. Ngoài sưu khảo và thực địa, phục dựng theo kiểu văn học cũng là kỹ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng khéo léo khi gặp trở ngại về nguồn tư liệu hay nhân chứng đối chiếu. Những bài như bài viết về Linda Lê và bài về bước khởi hành âm nhạc của Lê Uyên - Phương... là những bài hay theo hướng này. Do đó, cuốn sách là tập hợp những bài rời xoay quanh cái trục Đà Lạt hơn là một nghiên cứu có hệ thống nhất quán. Đúng như tác giả đã nêu trên bìa sách, Đà Lạt một thời hương xa là những chuyến du khảo văn hóa về miền đất mộng. Mỗi chuyến hành trình “đi tìm thời gian đã mất” là một tâm cảnh khác nhau, lúc tỉnh táo, lúc ngất ngây, thôi thúc bằng món nợ tình cảm và tinh thần của riêng tác giả với thành phố này. Đọc trên tinh thần đó, tôi nghĩ đây là cuốn sách sẽ có sức sống lâu, được nhiều người đọc. Bởi có ai không si tình Đà Lạt! Nhưng Đà Lạt của “một thời hương xa” thật sự đã xa vời vợi. *** Review Phạm Huyền Trang: Trong những ngày này, mảnh đất Đà Lạt dậy sóng vì khu Hòa Bình bị quy hoạch dỡ bỏ. Nhiều người trực tiếp bày tỏ những tiếc nuối, day dứt khi một thành phố thơ mộng, êm đềm như vậy rồi cũng dần đánh mất hồn cốt, cũng bị phá nát. Trong những người ấy, chắc chắn có nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên- một người dành rất nhiều công sức, tâm huyết để yêu và viết về mảnh đất này. "Đà Lạt một thời hương xa" là một công trình du khảo của anh về thành phố ngàn hoa trong giai đoạn 1954 - 1975. Nó thật sự là một món quà quý giá dành cho những người yêu Đà Lạt của thời quá vãng. Sách chia làm ba phần chính là Du hành thời gian, Không gian đã mất và Phụ lục (chủ yếu dành để giới thiệu về giáo dục, kiến trúc và thị trưởng Đà Lạt giai đoạn ấy). Đúng như lời giới thiệu ở bìa bốn, cuốn sách đưa tôi vào vùng "khí quyển tinh thần" của Thành phố thông qua những nhân vật tên tuổi từng gắn bó mật thiết với Đà Lạt: Nhất Linh, Nguyễn Bạt Tụy, Phạm Duy, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương... Đây chính là phần tôi thích nhất trong cuốn sách, bởi không chỉ được hiểu thêm về những tháng ngày sống tại nơi đây của những nghệ sĩ, nhà nghiên cứu ấy mà còn được tận mắt thấy những thủ bút của họ, gồm cả thơ- nhạc- họa... ( Những trang viết về cuộc tình Phạm Duy- Lệ Lan, Trịnh Công Sơn- Dao Ánh, Lê Uyên- Phương... thật sự rất thú vị). Chẳng phải ngẫu nhiên mà những người nổi tiếng khi ấy là chọn Đà Lạt làm một nơi an trú. Như lời khẳng định của Tòa thị chính Đà Lạt mà tác giả đã trích dẫn "Đà Lạt là một nơi vừa để nghỉ ngơi, vừa để làm việc. Đà Lạt không ngừng phát triển và trong tương lai, trong một nước Việt Nam độc lập, Đà Lạt tràn đầy triển vọng". Có đọc về những tháng ngày sôi nổi mà êm đềm ấy, mới hiểu vì sao mà nhiều người mến yêu Đà Lạt đến vậy, và những gì chúng ta vẫn thường ca ngợi về Đà Lạt của hôm nay, thực sự chỉ như một lớp phấn lòe loẹt trát lên khuôn mặt của cô gái đẹp nhưng đã đi qua thời xuân sắc. Sách in cực kỳ đẹp, chỉ hai tone màu đen- trắng với khá nhiều hình ảnh tư liệu và cả bản đồ du lịch Đà Lạt khi ấy. Cứ ngỡ gần 400 trang sách, lại thêm một cuốn ra đời trước đó (Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách), Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đủ đểtrải lòng. Vậy mà mới đây, anh lại vừa ra thêm cuốn sách "Đà Lạt bên dưới sương mù" và một cuốn in chung với nhiều tác giả mang tên "Miền sương khói". Tôi không biết, thời hiện đại, có còn người nào yêu thành phố này nhiều hơn anh nữa không. Hỏi thế, chứ biết điều ấy chẳng quan trọng. Những gì quá đẹp mà không được trân trọng, nâng niu và gìn giữ đúng như những gì nó xứng đáng được hưởng thì sẽ gây cho ta cái cảm giác xót xa ấy thôi...   Mời các bạn đón đọc Đà Lạt, Một Thời Hương Xa của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.