Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tù Nhân Của Nhà Nước - Nhật Ký Bí Mật Của Triệu Tử Dương

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ bốn mươi mốt* của tủ sách SOS2, cuốn Hồi Ký Triệu Tử Dương (Prisoner of the State – the Secret Journal of Zhao Ziyang (Tù Nhân của Nhà nước – Nhật ký Bí mật của Triệu Tử Dương)) do Bao Pu, Renee Chiang và Adi Ignatius dịch và Lời tựa của Roderick MacFarquhar được Simon & Schuster xuất bản năm 2009. Triệu Tử Dương là chính trị gia, kỹ trị gia xuất sắc của Trung Quốc trong thế kỷ thứ thứ hai mươi và có công lớn trong cải cách kinh tế của Trung Quốc. Ông và Hồ Diệu Bang (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc-ĐCSTQ) đã là hai cách tay đắc lực của Đặng Tiểu Bình trong việc đoạn tuyệt và xoá bỏ các chính sách tai hoạ của Mao. Nhưng cả hai đã bị Đặng phế truất vì đã không thực hiện những quyết định chính trị tàn khốc của Đặng. Triệu tử Dương, Bí thư thứ hai của Tỉnh uỷ Quảng Đông đã thử khoán đất cho hộ gia đình ở đó trong năm 1962, cùng một số lãnh đạo địa phương khác, theo sáng kiến thực sự của một số nông dân để thoát khỏi tai hoạ của các công xã nhân dân của Mao. [Ông Kim Ngọc ở Việt Nam có chính sách tương tự năm 1966 tại Vĩnh Phúc]. Ông đã là Bí thư thứ nhất của ĐCSTQ ở tỉnh Quảng Đông (1965), rồi bị Cách mạng Văn hoá thanh trừng. Sau đó được phục chức và đã hoạt động ở những địa phương khác nhau. Ông đã làm Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Tỉnh Tứ Xuyên từ cuối 1975 và tại tỉnh có 100 triệu dân với nền nông nghiệp đang trên bờ phá sản này ông đã cho khoán đất cho hộ nông dân một cách đại trà, và chỉ trong vài năm đã đạt những kết quả hết sức ngoạn mục và danh tiếng của ông đã được nhiều người biết đến. Tháng Chín 1980 ông đã trở thành Thủ tướng Trung Quốc và là Thủ tướng trong hơn 6 năm. Sau khi Tổng Bí thư Hồ Diệu Bang bị Đặng cho là quá khai phóng về mặt chính trị và bị hạ bệ tháng Giêng năm 1987, Triệu đã trở thành Quyền Tổng Bí thứ rồi Tổng Bí thư tại Đại hội lần thứ 13 của ĐCSTQ tháng Mười cùng năm. Chủ trương cải cách giá sai lầm của ĐCSTQ trong năm 1988 đã làm cho uy tín của Triệu bị sứt mẻ. Ngày 15-4-1989 Hồ Diệu Bang, người đã rất quý trọng và khoan dung giới trí thức, qua đời tại Bắc Kinh và cái chết của ông đã kích các sinh viên và trí thức tổ chức các buổi tưởng niệm. Các buổi tưởng niệm Hồ Diệu Bang dần dần đã bị sự phản ứng của phe cứng rắn trong ĐCSTQ kích leo thang thành các cuộc biểu tình sinh viên rầm rộ tại quảng trường Thiên An Môn, thậm chí chiếm quảng trường. Sự cố đã xảy ra không chỉ ở Bắc Kinh mà ở cả nhiều thành phố lớn khác. Cảnh tượng tương tự như ở quảng trường Thiên An Môn khi đó đã lặp lại trong Mùa Xuân Arab 2011 như tại Quảng trường Tahir ở Cairo Ai Cập, hay tại Quảng trường Maidan ở Kiev, Urcaina năm 2014, một trong những dấu hiệu điển hình của việc huy động cho dân chủ hoá sôi động (đầy sự kiện-eventful democratization) mà Donatella della Porta đã phân tích sâu sắc trong cuốn, Huy động cho Dân chủ–So sánh 1989 và 2011của bà (cuốn thứ 40 của tủ sách SOS2). Các cơ chế huy động, lan truyền cũng như leo thang mà Donatella della Porta phân tích kỹ cũng có thể thấy rất rõ trong tường thuật và những phân tích của Triệu Tử Dương về các sự kiện Thiên An Môn trong hồi ký của ông. Triệu Tử Dương đã chủ trương giải quyết các cuộc biểu tình sinh viên một cách ôn hoà dựa trên những nguyên tắc thuyết phục, đối thoại và chỉ trừng phạt những kẻ vi phạm luật mà ông nói rõ là đập phá, cướp bóc, đánh người, đốt phá và đột nhập. Trong khi đó Đặng Tiểu Bình và các Đảng viên lão thành theo đường lối cứng rắn đã quyết định thiết quân luật, đưa quân đội vào dẹp tan các cuộc biểu tình sinh viên. Triệu đã từ chối việc tham gia ra quyết định này và từ chối thực hiện nó. Kết quả là ông đã bị Đặng Tiểu Bình cách chức và bị quản thúc tại gia trong gần 16 năm cho đến khi ông chết ngày 17-1-2005. Trong tình trạng bị quản thúc tại gia, theo sự thúc giục của một số bạn thân, ông đã bí mật ghi âm lại những suy nghĩ của mình (hay đọc lại những ghi chép trước đó của ông vào băng ghi âm). Những cuốn băng này đã được tuồn sang Hong Kong và nội dung của chúng chính là cuốn sách này. Hồi ký của ông được xuất bản bằng tiếng Hoa và tiếng Anh năm 2009, kỷ niệm 20 năm vụ Tàn sát Thiên An Môn. Bản dịch này dựa vào bản tiếng Anh. Rất tiếc tôi không biết tiếng Hoa và không có bản tiếng Hoa nên rất có thể bản dịch này không lột tả được hết ý hay sắc thái của hồi ký của Triệu Tử Dương vì sự tam sao thất bản qua hai lần dịch. Tôi không rõ các tổ chức nghiên cứu Trung Quốc hay các nhà nghiên cứu Trung Quốc của Việt Nam, ngoài cuốn ghi chép của Tôn Phượng Minh về Những câu Chuyện của Triệu Tử Dương khi bị Giam lỏng mà chắc chắn đã được dịch nhưng không được xuất bản, đã có dịch cuốn hồi ký này chưa. Cuốn ghi chép của Tôn Phượng Minh được xuất bản năm 2007 cũng tại Hong Kong, 2 năm trước cuốn Hồi ký của Triệu Tử Dương. Người viết lời nói đầu cho bản tiếng Hoa, Đỗ Đạo Chánh đã có một cuộc phỏng vấn với The New York Times về cuốn hồi ký này cũng đáng tham khảo. Nếu cuốn Hồi ký này chưa được dịch ra tiếng Việt trong suốt 10 năm qua thì quả là việc rất đáng tiếc. Trong khi những sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình bày bán tràn lan tại Việt Nam, thì hai cuốn sách này về Triệu Tử Dương chưa thể đến tay bạn đọc hay những nhà nghiên cứu Việt Nam. Thiếu cách nhìn đa chiều có thể khiến tư duy chúng ta (về Trung Quốc) bị méo mó. Chính vì thế tôi cho việc đưa bản dịch này đến tay bạn đọc và các nhà nghiên cứu, nhất là các chính trị gia, các đảng viên của ĐCSVN cũng như các nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam là quan trọng, để giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều và tìm hiểu kỹ hơn về Trung Quốc. Cuốn Hồi ký này chỉ nhắc đến khoảng thời gian Triệu đã lên làm lãnh đạo chóp bu ở Trung Quốc, tức là khoảng 7-8 năm cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông với tư cách nhà lãnh đạo quốc gia và những suy nghĩ sau này của ông về cải cách chính trị khi ông đã bị giam lỏng. Nó giúp chúng ta hiểu kỹ hơn về quá trình cải cách kinh tế của Trung Quốc, về sự đấu đá nội bộ liên miên trong đội ngũ chóp bu của ĐCSTQ, về việc Đặng Tiểu Bình ngồi xổm trên pháp luật và các quy định của chính ĐCSTQ để áp đặt ý chí của mình như thế nào, về các mánh khoé trị nhau, hay mánh khoé của bản thân Triệu để qua mặt những người bảo thủ chống cải cách trong ĐCSTQ bằng cách dùng các uyển ngữ khác nhau như “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” để biện minh cho các chính sách thị trường tự do của ông hoặc bằng việc sử dụng, trích dẫn các đoạn phát biểu trong quá khứ của chính các lão thành bảo thủ đó để có được sự ủng hộ hay bớt sự chống đối của họ đối với những ý tưởng cải cách táo bạo của ông. Những ý tưởng và phân tích của ông về hội nhập kinh tế, về tận dụng thương mại quốc tế (về “hai đầu kéo dài ra nước ngoài” thực sự là ý tưởng sinh ra công nghiệp gia công), về phát triển từ từ, về phát triển vùng duyên hải, về đối phó với tham nhũng, thậm chí về cải cách chính trị bị chết non của Trung Quốc (kể cả ý tưởng “quốc hữu hoá quân đội” tức là quân đội phải tách khỏi các đảng phái chính trị) là có tính đột phá và rất đáng chú ý và có tính gợi mở cũng như tính thời sự với các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam. Cuốn sách cũng cho thấy Triệu là một người thực tiễn và rất ham học hỏi. Ông học hỏi từ chính người dân về việc khoán đất cho hộ gia đình từ đầu những năm 1960. Ông đã học từ bốn con Hổ Á châu, kể cả từ Hong Kong và Đài Loan, học từ khắp nơi (thậm chí cả Việt Nam như Tôn Phượng Minh đã nhắc đến trong cuốn sách của ông). Những ấn tượng của ông về sự phát triển nông nghiệp ở Anh, Pháp, Hy Lạp và Thuỵ Sĩ trong cuộc công du nước ngoài khi ông còn làm việc ở tỉnh Tứ Xuyên đã giúp sự hiểu biết của ông trong việc đưa ra những chính sách lớn. Những thay đổi về tư duy của ông được kể một cách rất chân thực và rất đáng để các lãnh đạo Việt Nam học tập, thay cho những cuộc đi học tập nước ngoài cưỡi ngựa xem hoa hay đi theo “chính sách” trước khi về hưu rất không hiệu quả và vô cùng tốn kém cho ngân sách. Tất nhiên với con mắt ngày nay, một số ý tưởng của Triệu chẳng có gì mới hay đột phá cả, nhưng đặt chúng vào đúng bối cảnh Trung Quốc lúc đó chúng ta càng kính trọng sự hiểu biết và sự táo bạo của ông vì chính ông đã tạo ra một số “sự đột phá” đó. Những suy nghĩ ngớ ngẩn về cải cách giá và cách làm trái khoáy đối với cải cách giá của giới lãnh đạo chóp bu của Trung Quốc cách đây hơn 30 năm quả thực là khó tưởng tượng được với con mắt ngày nay. Điều đáng trân trọng ở Triệu Tử Dương là ông đã thú nhận những sai lầm ngớ ngẩn đó và phân tích về cách có thể cần phải làm. Không chỉ sai lầm này mà nhiều sai lầm khác hay sự thiếu hiểu biết khác được ông công nhận đã chứng tỏ nhân cách hết sức đáng tẩn trọng của Triệu, một người chính trực. Giả như cả Hồ Diệu Bang lẫn Triệu Tử Dương đã không bị Đặng Tiểu Bình phế bỏ và họ tìm được cách để Đặng ủng hộ thì có lẽ Trung Quốc đã khác rất xa với bây giờ, với nền kinh tế chắc chắn phát triển hơn, lành mạnh hơn và có lẽ đã đi theo con đường dân chủ thực sự. Đáng tiếc, chế độ độc đoán, độc tài của Trung Quốc đã ngày càng được củng cố. 30 năm sau vụ Tàn Sát Thiên An Môn những ý tưởng cải cách chính trị còn nửa vời của Triệu Tử Dương vẫn chỉ là những ý tưởng. Với sự nắm quyền của Tập Cận Bình Trung Quốc ngày càng hung hăng khiến cả thế giới phải lo ngại. Chủ nghĩa Marx-Lenin Tư tưởng Mao Trạch Đông ở Trung Quốc trên thực tế đã bị vứt vào sọt rác, nhưng về mặt tu từ học vẫn được dùng và Tập ngày càng sử dụng các phương pháp đó để cổ vũ tư tưởng Tập Cận Bình, mà thực sự là chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Trong bối cảnh hiện nay khi chủ nghĩa độc đoán, dân tuý đang lên và phong trào dân chủ đang có vẻ gặp những thách thức mới ở chính cái nôi của dân chủ như ở Hoa Kỳ, Anh và Tây Âu, sẽ không ít người, nhất là một số trong giới lãnh đạo Việt Nam, thiên về đường lối cứng rắn kiểu Đặng Tiểu Bình (bất chấp hắn là kẻ đã ra lệnh quân đội “dạy cho Việt Nam một bài học” trong năm 1979). Công nghệ đã thay đổi, xã hội đã thay đổi và các nhà dân chủ phải thay đổi tư duy của mình để thích ứng với hoàn cảnh mới để bảo vệ các giá trị dân chủ, để củng cố dân chủ. Những phân tích của Triệu Tử Dương về đường tới dân chủ của Trung Quốc cũng có thể gúp chúng ta tin, như ông cuối cùng đã tin, rằng chế độ dân chủ nghị viện kiểu Tây phương (sẽ phải thay đổi cho phù hợp với công nghệ và xã hội) là chế độ tốt nhất được biết đến cho tới nay và phải là mục tiêu kiên định của chúng ta. Các nhà lãnh đạo Việt Nam và các đảng viên ĐCSVN rất nên học theo cách tư duy của Triệu Tử Dương hơn là của Đặng Tiểu Bình. Tất nhiên, Triệu với tư cách nhà lãnh đạo quốc gia ông chú tâm đến sự thay đổi từ phía lãnh đạo. Nhân dân Trung Quốc, chắc hẳn cũng mong muốn các nhà lãnh đạo thay đổi, nhưng họ phải khác với Triệu, người chỉ mong ĐCSTQ phải đạt sự đột phá, người dân phải chủ động thúc đẩy và thậm chí ép lãnh đạo phải thay đổi. Đấy là cách nhìn toàn diện hơn. Theo tinh thần ấy, chúng ta người dân Việt Nam cũng mong muốn ĐCSVN thay đổi theo kiểu Triệu mong muốn đối với ĐCSTQ, nhưng nhân dân Việt Nam phải chủ động hơn, phải “thực thi dân quyền” trên tinh thần xây dựng và gợi ý cho chính quyền phải làm gì, tức là chủ động thực hiện các quyền hiến định của mình mà không chờ bất cứ ai “cho phép” cả (vì xét về lợi ích, khuyến khích thì họ hiếm khi nào tự nguyện làm việc đó và như thế thực sự là họ vi phạm hiến pháp hay nói nhẹ hơn không làm đúng trách nhiệm của họ trong việc tạo môi trường pháp lý để người dân thực hiện các quyền hiến định của mình), mà chúng ta phải liên tục lên tiếng, góp ý, hành động và gây sức ép 24/7 để buộc ĐCSVN phải thay đổi. Việc tìm hiểu Trung Quốc giúp chúng ta hiểu chính mình hơn, biết những sự giống nhau và khác nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có thể học những cái hay và nhất là tránh những cái dở của họ, và của các nước khác, là hết sức quan trọng trong sự phát triển đất nước. Và cuốn Hồi ký của Triệu Tử Dương có thể giúp chúng ta hiểu Trung Quốc hơn cũng như hiểu chúng ta hơn. Chính vì thế, cuốn sách có thể rất bổ ích cho các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu chính trị và kinh tế, các nhà hoạt động, các sinh viên, các nhà báo và tất cả những ai quan tâm đến Trung Quốc, đến dân chủ hoá tại Việt Nam. Như các biên tập viên cuốn sách này đã nói rõ [những phần trong dấu ngoặc vuông] là của họ, không phải của Triệu; tôi cũng mạn phép đưa {vài lời trong ngặc} để giúp làm rõ hơn văn bản hay chú thích của cuốn sách; các chú thích đánh số dưới trang là của người dịch, các chú thích khác (đánh dấu sao* hay dấu† hoặc dấu khác) là của các biên tập viên. Tôi đã cố gắng để bản dịch được chính xác và dễ đọc, tuy nhiên do hiểu biết có hạn lại không dịch được từ nguyên bản tiếng Hoa nên bản dịch không tránh khỏi sai sót, mong các bạn góp ý để hoàn thiện và rất mong được hợp tác với những người khác để có bản dịch tốt hơn để truyền đạt trọn vẹn hơn các ý tưởng của một người Trung Quốc Vĩ đại, Triệu Tử Dương.    Hà Nội 14-4-2019 Nguyễn Quang A   Mời các bạn đón đọc Tù Nhân Của Nhà Nước - Nhật Ký Bí Mật Của Triệu Tử Dương của tác giả Triệu Tử Dương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùi Hương Trầm
Trải dài từ Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa,... trên thực địa, với núi Linh Thứu, vườn Lộc Uyển, Lâm-tì-ni, Lhasa, thành phố Varanasi,... mỗi dấu chân du hành không mang lấy cái chộn rộn của xu thế du lịch điểm đến phổ biến đương thời, mà hướng người đọc đi vào những "con đường đá trên núi" của sự chậm rãi chiêm nghiệm, sự thấy của đôi mắt bên trong. Con đường thực tế trong thế giới ngổn ngang và con đường tâm thức lấy những kinh văn, tri thức làm trung tâm luôn tìm cách đi đến hợp nhất.   Dấu chân du hành của Nguyễn Tường Bách trong Mùi hương trầm không chỉ mời gọi người đọc khám phá thực địa, mà còn gợi mở sự chứng ngộ, khai mở một cảm quan minh triết. *** Đúng ngày Tết dương lịch 1.1.1989 tôi hăm hở lên đường đi Ấn Độ. Dù lúc đó đã sống hai mươi năm ở nước ngoài, tôi vẫn thấy xa lạ với xứ sở huyền bí này. Ngày xưa dù chưa sống xa nhà, tôi đã có ý niệm về Pháp, về Mỹ, về Canada. Hồi đó tôi đã thích nền văn hóa phương Tây, đã yêu văn chương tiếng Pháp, đã biết lối sống Mỹ. Còn Ấn Độ là gì đối với tôi? Đó là quê hương của Gandhi[1], một vùng bán đảo rộng lớn với Hy-mã lạp sơn, với Hằng Hà đầy cát. Tôi biết Ấn Độ chỉ giản đơn như thế, nhưng điều đậm nét trong tôi là, đây là một xứ sở huyền hoặc, hầu như được bọc trong một tấm màn thần thoại. Những tài danh của Ấn Độ mà tôi biết thường là những nhà văn nhà thơ như Tagore hay Krishnamurti, các vị đó xem ra cũng rất huyền bí. Còn các nhà đạo học, dù đó là Phật Thích-ca hay các đạo sĩ, tất cả đối với tôi có tính hoang đường nhiều hơn thực tại. Và dù các vị đó có thật đi nữa thì họ quá cao xa đối với tôi. Lên đường đi Ấn Độ, tôi chỉ là một người Việt Nam làm công cho một công ty sản xuất máy phát điện ở Đức, làm nhiệm vụ mà ngày nay người ta gọi là tiếp thị, có cái vai trò sales manager đi bán một món hàng hết sức trần thế. Tôi nhớ lại một anh bạn tuổi lớn hơn mình nhiều, anh có tiếng là thầy bói ngoại cảm. Một ngày nọ xa xưa, anh nhìn tôi cười nửa đùa nửa thật: “Chú em kiếp trước làm thầy tu bên Ấn Độ”. Tôi nghe xong lòng không lấy gì thú vị, làm vua chúa thì may ra. Không, làm sao tôi mà là thầy tu được, tôi còn ham rượu thịt, còn ham vui chơi. Tôi càng không phải là người Ấn Độ, nếu không sống tại Việt Nam, tôi chỉ thích sống ở châu Âu văn minh và cổ kính. Máy bay từ châu Âu đến Delhi thường hạ cánh lúc nửa đêm, giờ địa phương. Ngày đó Pan Am còn là một hãng hàng không uy tín của Mỹ, cạnh tranh với Lufthansa của Đức tranh nhau chở khách đi Ấn Độ. Thời đó tôi chưa hiểu sao có nhiều khách đi Ấn Độ, khách làm ăn có, khách du lịch có. Ngày đó tôi đâu biết, đó là một thị trường khổng lồ cho dân làm ăn và một lịch sử vô song cho người du lịch. Ở sân bay Delhi của Ấn Độ có một thứ mùi nửa lạ nửa quen làm tôi chú ý. Mùi này hai mươi năm qua tôi chưa từng hít thở lại. “Eau de javel”! Thì ra cái thứ mùi để chùi rửa vệ sinh của những ngày xa xưa trong thời thơ ấu của tôi nay vẫn được sử dụng tại sân bay quốc tế này. Mùi này tôi đã quên rất lâu, xứ Đức không có, Việt Nam ngày nay cũng không, không ngờ nơi đây vẫn thông dụng. Ngày nay mỗi lần đến Ấn Độ tôi đều chuẩn bị để hít thở mùi này, thứ mùi gây cho tôi cảm giác vừa khó chịu vừa dễ chịu. Khó chịu là chỉ những nơi dơ bẩn ta mới biết đến nó và dễ chịu là sự yên tâm dù sao cũng có ai đó lo cho sự vệ sinh ở đây. Tôi ngồi gọn trong ghế bành nghe người ta nói tiếng Anh. Đồng nghiệp người Đức của tôi nói tiếng Anh rất dễ nghe, có lẽ thứ tiếng Anh của tôi cũng có cái giọng như thế. Đó là một thứ tiếng Anh giọng Đức, thứ tiếng Anh hay bị chê cười trên thế giới. Người ta gọi đó là tiếng Anh của Kissinger vì nhà chính trị này sinh tại Đức, sống lâu ở Mỹ nhưng vẫn nói thứ giọng “quê mùa” này. Còn tiếng Anh của Ấn Độ là một thứ tiếng Anh lạ lùng, tôi nghe không hiểu gì cả. Tôi nhớ mình thích tiếng Anh của người Hồng Kông vì tiếng Anh của họ dễ hiểu, thanh quản và phát âm của họ xem ra giống của tôi. Tôi vốn sợ thứ tiếng Anh của người Úc và của người Mỹ vì khó hiểu nhưng có đến Ấn Độ mới thấy có thứ khó hiểu hơn. Điệu bộ cử chỉ của người Ấn cũng khác, họ hay dùng bàn tay để “minh họa” cho lời nói. Bàn tay của họ cứ lật qua lật lại theo nội dung câu chuyện. Tôi phải làm việc hàng tuần trong cái xứ đầy mùi lạ, tiếng lạ, phòng ốc chật chội này ư? Văn phòng đại diện của chúng tôi tại Delhi thuộc loại tầm cỡ nhưng phòng ốc hết sức hạn chế. Tại sao người ta thuê tuyển nhiều người như thế, bàn nọ kê sát bàn kia, nhân viên hàng tá làm gì cho hết ngày giờ? Sau này tôi mới biết họ có nhiều người là để giúp việc cho chúng tôi, có những tea boy chỉ chuyên bưng trà rót nước, những công việc mà tại phương Tây chúng tôi phải tự làm. Dễ chịu thay. Chỉ sau một ngày, tôi đã nhờ một cô gái đi copy văn bản. Bất ngờ thay, cô ta lắc đầu. Tôi đang tự hỏi tại sao cô này từ chối lời yêu cầu nhã nhặn của mình thì đã thấy cô nhặm lẹ cầm giấy tờ chạy đi làm việc. Thì ra cái lắc đầu của người Ấn Độ chính là cử động gật đầu của ta. Còn khi họ từ chối thật thì đầu họ cũng lắc cách khác. Đối với tôi lúc nào họ cũng lắc đầu cả. Khó hiểu thay, những người Ấn Độ! Từ văn phòng chúng tôi nhìn ra là công trường Nehru đầy người. Đó là chỗ bán cam bán chuối, bến đợi xe bus, xe hàng rang hạnh nhân đậu phộng, chỗ sửa xe taxi, bến đậu xe “túc-túc”, nơi của khỉ làm trò… Cuộc sống ở đây xem ra vừa vội vã vừa chậm chạp. Trên công trường Nehru đó hàng trăm người ngồi chơi sưởi nắng xem ra không có gì làm, hôm nay là một ngày mùa đông. Xung quanh họ là những người ăn mặc hết sức nghiêm túc theo kiểu người Anh đang vội vã rảo bước, họ tìm kiếm điều gì trong xứ sở nghèo nàn này? Về sau tôi biết thêm Ấn Độ là một xứ sở của những hình ảnh đối chọi. Đường sá đầy xe cộ với mùi xăng khét lẹt làm tôi nhớ Việt Nam. Taxi của họ là những chiếc xe nội hóa cũ kỹ với cái tên vang dội “Ambassador” mà bốn bánh xe thường mòn nhẵn làm chúng tôi e ngại, mỗi chuyến đi là một trò chơi ít nhiều rủi ro, nhất là khi gặp trời mưa. Thế nhưng đã quen cách đi liều của mình và thấy đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm Ấn Độ của tôi cũng chưa có ai mang vết tích gì trên người nên tôi yên tâm tự nhủ đời người có số. Chỉ vài ngày sau khi đến Ấn Độ người ta đã biết đây là một xứ sở mang nặng đầu óc tôn giáo. Trong taxi tài xế thắp nhang liên tục, họ khẩn cầu một vị thần nào bảo hộ cho họ, cho họ nhiều khách và ít tai nạn. Ngoài đường các đàn bò đi đứng nằm ngồi xem ra rất tự nhiên thoải mái, tài xế lái xe thường rất hấp tấp nhưng khi gặp chúng đều kiên trì chờ đợi, không có một tiếng còi. Ra khỏi Delhi vài cây số là đã xanh một màu cây cối, ở đây cơ man nào là khỉ. Theo người Ấn, chúng là hậu thân đáng thương của đời làm người, là cha mẹ anh em ngày trước, chúng được đối đãi bình đẳng và sống chung với người. Ngày nọ tôi đến làm việc tại một cơ quan chuyên trách “kiểm tra chất lượng” của bộ phận turbine. Đó là một tòa nhà nhỏ nằm trong một khu vườn lầy lội sau cơn mưa. Vừa bước xuống xe, một con heo rừng từ đâu đâm đầu chạy đến. Tôi vội thót lên xe, đóng cửa đánh rầm. Sau đó hỏi ra nó chỉ là một heo nhà tầm thường nhưng chạy nhảy nhiều quá nên có cái bụng thon của một con heo rừng lực sĩ. Tại Ấn Độ, thời gian lưu trú nhiều tuần cho phép tôi học nghe tiếng họ nói, học nhìn cách họ làm để giải quyết công việc của mình và khám phá nhiều điều lớn lao hơn. Xuất phát từ một cấu trúc xã hội có tính đẳng cấp, người Ấn Độ rất khó thân cận. Lạ thay, đối với thú vật thì họ gần gũi mà đối với người thì họ xa cách. Hình như mỗi người Ấn Độ khi gặp người khác, việc đầu tiên là họ định nghĩa ai hơn ai, về đẳng cấp huyết thống ai ưu việt hơn ai. Đi Ấn Độ hàng chục lần, tôi kết luận rằng đó là một xứ sở của sự phân biệt giai cấp. Người giàu có thì hợm hĩnh khinh người, người nghèo khổ thì yên phận chịu đựng. Những người mà tôi gặp và làm việc đều là kỹ sư hay thương nhân, họ thuộc thành phần có học và có tiền, trong nội bộ xã hội, họ coi khinh người khác, đối với chúng tôi ở nước ngoài đến thì họ e dè và phức tạp. Đối với người nước ngoài, người Ấn Độ vừa có mặc cảm tự ti vừa tự tôn. Họ biết rất rõ bán đảo bao la của mình là một cái nôi văn hóa và học thuật của loài người. Cuộc đời của nhiều vĩ nhân nước họ là những bó đuốc soi đường cho hậu thế. Nền văn minh, triết lý và tôn giáo của họ là nền tảng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, kể cả của Âu Mỹ và Trung Quốc. Thế nhưng nước họ ngày nay thuộc loại lạc hậu nhất, đời sống dân chúng khốn khổ nhất. Họ có cái đau khổ của một nhà quí tộc khánh kiệt. Cho nên khi một người nước ngoài đứng trước mặt họ, họ lúng túng không thể định nghĩa ai hơn ai kém. Và khi gặp chúng tôi, kẻ đi bán một thiết bị hiện đại, họ càng lúng túng. Vì trình độ kỹ thuật còn non, họ phải đi mua; nhưng vì là khách hàng họ thấy mình được o bế. Thế thì ai hơn ai thua, xem ra họ rất thắc mắc. [1] Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948), lãnh tụ tranh đấu giành độc lập của Ấn Độ. Mời các bạnd dón đọc Mùi Hương Trầm của tác giả Nguyễn Tường Bách.
Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn
Ảnh viện không đơn thuần là nơi làm dịch vụ ghi chép hình ảnh, nơi diễn ra những giao dịch nhất thời giữa những người cần ảnh với thợ chụp ảnh, đó là một kho tàng ký ức về con người và nơi chốn, một nguồn dữ liệu nhân học, nhân trắc học, xã hội học, sử liệu cộng đồng. Nhưng đó lại có thể không hơn gì một đống tro tàn sau những bể dâu thời cuộc. Ký ức một ảnh viện Sài Gòn hay Câu chuyện Viễn Kính có thể xem như một dự án du khảo được tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên thực hiện trong suốt gần một năm. Cuốn sách hơn 220 trang là một câu chuyện đồ sộ về nhiếp ảnh, những hình ảnh quý giá một thời vàng son lẫn cay đắng của lịch sử. Ông Đinh Tiến Mậu, nhân vật chính của câu chuyện – chủ hiệu ảnh Viễn Kính tiếng tăm của Sài Gòn, kể về sản nghiệp của một đời thợ ảnh cứ như không có chuyện vậy, nhẹ tênh, phẳng phiu, liền lạc. Như chẳng có chuyện gì, tay thợ ảnh ấy từng trở thành chứng nhân của lịch sử hay có ảnh đăng trên những trang báo hàng đầu. Như chẳng có chuyện gì, ảnh viện của ông là chỗ chụp chân dung của các ngôi sao hàng đầu làng giải trí miền Nam. Nguyễn Vĩnh Nguyên là tác giả của nhiều tựa sách hay, được bạn đọc yêu thích như: Đà Lạt một thời hương xa (NXB Trẻ 2016), Những thành phố trôi dạt (Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn 2017), Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách (NXB Trẻ 2015) và hàng loạt cuốn tạp văn, truyện ngắn khác. Đặc biệt, với tác phẩm Đà Lạt một thời hương xa anh đã đạt giải Sách hay 2017, hạng mục Phát hiện mới. *** Review Phạm Huyền Trang:   Tôi rất thích nhìn ngắm những hình ảnh của một thời xưa cũ đặc biệt là những tư liệu liên quan đến thành phố Sài Gòn. Và tôi đã tìm thấy tất cả những điều ấy qua cuốn sách của nhà văn, nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên với cái tên "Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn - Câu Chuyện Viễn Kính". Những ai quan tâm đến nhiếp ảnh Sài Gòn chắc đều không thấy xa lạ với hiệu ảnh Viễn Kính. Đó là một cửa hiệu của "thợ ảnh" Đinh Tiến Mậu được mở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) của Sài Gòn từ năm 1963. Trái ngược với nhiều người hay quan trọng những danh xưng như "nghệ sĩ nhiếp ảnh" hay "nhiếp ảnh gia", Đinh Tiến Mậu chỉ luôn nhận mình là "thợ ảnh". Ấy thế mà những bức ảnh lưu lại của ông đều cho thấy những khoảnh khắc thần sầu của những người đẹp vang danh một thuở hay những khung hình tuyệt đẹp của "hòn ngọc viễn đông". Cuốn sách chỉ đơn giản là những lời kể rời rạc của Đinh Tiến Mậu về những con người của Sài Gòn những ngày quá vãng hay những câu chuyện xung quanh nghề nghiệp của ông. Vậy nhưng nó đủ sức khơi gợi hình ảnh và không khí cả một đô thị sầm uất những năm trước 1975. Đó là Thẩm Thúy Hằng - "người đẹp Bình Dương" với vẻ đẹp bất tử trong tà áo dài bà Nhu sang trọng, quý phái. Là ca sĩ Diễm Thúy đẹp gợi cảm với "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang". Là nghệ sĩ cải lương Thanh Nga nền nã trong chiếc áo dài cổ cao, đeo vòng ngọc trai, với những ngón tay thanh mảnh nâng niu một nhành hoa nhỏ. Đúng như Nguyễn Vĩnh Nguyên khẳng định “Những bức chân dung thách thức thời gian ấy vẫn toát lên sinh khí của một thời kỳ văn hóa đô thị giàu có và tươi đẹp”. Giai nhân không đơn giản chỉ là "người đẹp", họ còn là người lưu giữ cái đẹp vượt thời gian của cả một vùng văn hóa. *** Ảnh viện không đơn thuần là nơi làm dịch vụ ghi chép hình ảnh, nơi diễn ra những giao dịch sòng phẳng nhất thời giữa những người cần ảnh với thợ chụp ảnh, đó là một kho tàng ký ức về con người và nơi chốn, một nguồn dữ liệu nhân học, nhân trắc học, xã hội học, sử liệu cộng đồng. Nhưng đó lại có thể không hơn gì một đống tro tàn sau những bể dâu thế cuộc. Từ lâu, người viết cuốn sách này bị cái thế giới của những ảnh viện truyền thống mê hoặc, dẫn dụ đi vào nhiều mảnh sử cá nhân thú vị qua những tấm ảnh, bộ ảnh cũ xưa trong cuộc hành trình tìm kiếm ký ức đô thị. Tôi có thể đứng hàng giờ nhìn những người thợ ảnh tỉ mỉ chấm từng nét li ti để tạo ra một mảng tối trên bức chân dung khiến bóng hình tiền nhân quá vãng trở nên “có thần”. Tôi cũng thầm nể phục người làm buồng tối loay hoay như những phù thủy pha chế chất hiện hình để dung nhan người xưa hiện lên rõ nét trên nền giấy ảnh mới… Người đã chết hay người còn sống. Tuổi trẻ và tuổi già. Khung cảnh còn và mất. Tất cả. Dòng thời gian trôi qua khốc liệt dưới bàn tay tỉ mẩn của họ. Liệu có thể tiếp cận cuộc đời họ theo một cách thức nào đó? Câu hỏi trở thành một mối day dứt, một món nợ khi tôi gặp ông – nhân vật của cuốn sách này. Báo chí đương thời gọi ông là nhà nhiếp ảnh, nhiếp ảnh gia, nghệ sĩ nhiếp ảnh – những danh hiệu cao quý – bởi loạt chân dung ông thực hiện và gìn giữ nhan sắc Sài Gòn một thuở. Nhưng không ít lần tôi thấy ông lúng túng trước đám đông khi được hỏi về quan điểm nghệ thuật, lý thuyết nhiếp ảnh và các vấn đề có vẻ hệ trọng khác. Tôi lại gặp ở ông sự lúng túng tương tự trong quá trình ba tháng tiếp cận, lấy chất liệu cho cuốn sách mỏng này. Với nhiều người, hẳn có chút hụt hẫng. Nhưng với tôi, đó là niềm hứng thú hạnh ngộ. Trong thời buổi mọi danh hiệu, thành tích có thể dễ dàng được phong tặng, tôi quý những con người bình thản nói rằng, họ không chịu trách nhiệm về những lời phong tặng hay định kiến từ người khác. Trong thời buổi vô số người muốn mình trỗi vượt trên đám đông, tôi nể phục những người chọn sự bình thường, làm chủ đời sống và sống hài hòa với cộng đồng. Trong thời buổi ai cũng có thể tự xưng tụng, bày tỏ quan điểm nọ kia, từ chính trị, tư tưởng đến văn hóa nghệ thuật, tôi ngưỡng mộ người tự nhận mình là một thị dân bình thường. K_008-1 Nhưng viết về một người bình thường không hề là chuyện đơn giản. Bởi dù muốn dù không, cái bình thường ấy cũng không tránh khỏi việc diễn giải bằng hệ thống nọ, thuyết luận kia (đời sống vốn là một rừng hệ quy chiếu!). Tôi chọn giải pháp kể chuyện tuyến tính, có những chương ghi chép lời kể của nhân vật để tạo ra sắc thái khách quan, tự nhiên nhất có thể. Hai phần đầu sách, thiết nghĩ, cũng cần điểm qua vắn tắt về lịch sử phát minh bộ môn nhiếp ảnh, cuộc du hành của nhiếp ảnh phương Tây vào Việt Nam và tư duy “nghệ nhân - làng nghề” trong đời sống mỹ thuật truyền thống của người Việt từ xa xưa đến đầu thế kỷ XX; chuyện những “nhà chụp ảnh” đầu tiên ở Huế, Hà Nội, Sài Gòn. Phần 3 là câu chuyện nghề ảnh từ Lai Xá đến Sài Gòn, “lộ trình” mà nhân vật của cuốn sách – một cậu bé quê Lai Xá đi qua. Phần giữa cuốn sách là giọng kể của nhân vật, thuật lại chuyện học nghề ảnh ở Hà Nội, Sài Gòn rồi khởi nghiệp tại Chợ Lớn. Việc trung thành sự thật, theo sát lời kể là nguyên tắc đầu tiên. Và điều này không ít lần khiến người viết gặp khó khăn vì nhân vật nay đã tuổi cao sức yếu, có những chi tiết nhầm lẫn và cả những vùng mờ ký ức, khó tường tận. Chưa kể, có những điều thuộc về quá vãng, một thời kỳ mà để thích ứng thực tế, người ta đã phải cố quên đi nhiều thứ quý giá thuộc về đời sống tinh thần, và, lâu ngày thì cái cố quên đã trở nên lãng quên thật. May sao, người bạn đời của ông cũng đã giúp tôi một phần trong việc phục dựng vài mẩu chuyện gia đình và hiệu ảnh, dù không hoàn toàn. Nhưng hẳn là cuốn sách này không chỉ dừng lại ở câu chuyện thăng trầm của một hiệu ảnh. Nó ngầm mang một tham vọng lớn hơn, khi độc giả nhận ra vào những phần cuối, câu chuyện chính biến Sài Gòn được đặt bên cạnh cái nhìn “bình thường” của anh thợ ảnh; những thay đổi thế cuộc tạo ra sang chấn đối với cuộc sống người bình dân trong xã hội, dù có lúc lẽ ra anh ta đã có thể là nhân chứng cho một sự kiện, một bước ngoặt trong lịch sử thành phố hay từng ở khoảng cách rất gần những yếu nhân… Bởi là người bình thường, anh ta không bước vào những đại tự sự, càng không dự phần vào những sự kiện hệ trọng, mà âm thầm kiếm sống bằng cái nghề một cách chuyên nghiệp, rồi như bao nhiêu thợ ảnh, nghệ nhân khác trên đất nước này, anh ta vô tình lưu giữ một kho tàng hình ảnh cộng đồng, hơn thế, những dung nhan mà cộng đồng một thời ái mộ. Hai phần cuối sách là hành trình trở lại thực tại đầy dung dị nhẹ nhõm. Như đi hết một vòng tròn sự nghiệp, ông Viễn Kính – Đinh Tiến Mậu – trở về với tư cách chính của mình, sự hiện diện của ông trong Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá, là một thợ ảnh, một nghệ nhân đúng nghĩa. Xoay quanh câu chuyện của ông Đinh Tiến Mậu, ít nhiều tôi có chạm đến những tên tuổi lẫy lừng trong một số lãnh vực của xã hội Sài Gòn cũ. Không cách nào khác, những mảnh chuyện rời rạc, sự dính líu của họ đến trục chính câu chuyện hy vọng sẽ gợi phần nào không khí đời sống tinh thần của miền Nam trước năm 1975. Kể lại lịch sử một ảnh viện trong một đô thị lớp lớp phế hưng là một việc làm khó khăn nhưng rất cụ thể trong cuộc kiếm tìm ký ức đô thị nói chung. Một hành trình không dài, người viết cuốn sách này tin rằng, không hề đơn độc. Rất mong được sự đón nhận, đồng cảm, góp ý, gợi ý của quý độc giả. Tác giả Sài Gòn, tháng 6-2017 Mời các bạn đón đọc Ký Ức Một Ảnh Viện Sài Gòn của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Đà Lạt, Một Thời Hương Xa
Đà Lạt được kiến tạo từ những cuộc du hành văn hóa trong quá khứ. Đà Lạt từng là không gian văn hóa đô thị có sức hấp dẫn riêng, nơi gặp gỡ của những khát vọng tri thức lớn, điểm đến của những hành trình sáng tạo đầy lý tưởng. Tất cả đặc biệt cô đọng trong giai đoạn hai mươi năm mà tác giả cuốn sách này chọn khảo sát - một quá khứ gần - nhưng dường như đang đứng trước nguy cơ bị phủ lấp, xóa nhòa bởi bụi thời gian… Nhân vật, sự kiện, hiện tượng văn hóa được phục dựng lại bằng ghi chép điền dã khảo cứu, kết nối tư liệu và những kiến giải riêng. Quá khứ được đồng hiện trên nền văn phongvừa bay bổng vừa giàu chiêm nghiệm, định hình một lối văn với Đà Lạt, của riêng Đà Lạt. Với cuốn du khảo này, Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là người lữ khách của vùng trời sương khói riêng tư nữa, mà là một nhà du hành, tri hành đường dài, dấn bước trong đơn độc về miền quá khứ với khát khao được chìm đắm vào tâm hồn của đô thị thời hoàng kim. Món quà dành cho những người yêu và thực lòng muốn hiểu giá trị Đà Lạt! *** Nhà văn, nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên vừa ra mắt tập sách Đà Lạt một thời hương xa (Du khảo văn hóa Đà Lạt 1954 - 1975) - công trình được anh thực hiện với một tình yêu 
Đà Lạt sâu đậm. Chia sẻ với công trình của Nguyễn Vĩnh Nguyên, dịch giả Trần Đức Tài - một cư dân gắn bó với Đà Lạt bấy lâu nay - cho biết: “Đọc Đà Lạt một thời hương xa trong dòng chảy miên man của ký ức, vừa đối chiếu, vừa bổ sung, thật là một du hành thú vị ngược thời gian. Nhất là khi ngồi trong một quán cà phê vắng lặng đọc một mình. Tôi đọc hết cuốn sách trong hai lần ngồi quán cà phê nương náu cho qua những cơn mưa dầm”. Sinh ra từ tham vọng của người Pháp, Đà Lạt là một thành phố bẩm sinh đã ngược đời. Giữa cao nguyên hoang vu đột ngột mọc lên một thành phố không hề theo quy luật tự nhiên là từ thôn làng phát triển dần dần thành đô thị. Thoắt một cái, những gì tinh hoa nhất của văn minh phương Tây ào ạt tụ về giữa rừng rú. Đà Lạt trong tinh thần đã và vẫn là một bí ẩn. Đà Lạt trong tâm thức mỗi người là một chân dung khác nhau. Những gì không còn tồn tại nhưng luôn được nghe nhắc đến qua những chuyện kể lại tản mác và khuếch tán qua hoài niệm lẫn tình cảm cá nhân luôn phủ lên Đà Lạt một màn sương huyền thoại. Nguyễn Vĩnh Nguyên đã cố gắng vén màn sương ấy qua nỗ lực sưu tầm tư liệu và thực địa. Đó là cách làm đúng nhưng không thể tránh khỏi hạn chế khách quan lớn nhất mà người nghiên cứu nào cũng gặp là điều kiện tiếp cận nguồn tư liệu gốc. Tư liệu càng dồi dào, đa chiều thì góc nhìn càng rõ. Những bài như bài viết về Nhất Linh hay về môi trường giáo dục chẳng hạn, là những bài thành công theo hướng này. Ngoài sưu khảo và thực địa, phục dựng theo kiểu văn học cũng là kỹ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng khéo léo khi gặp trở ngại về nguồn tư liệu hay nhân chứng đối chiếu. Những bài như bài viết về Linda Lê và bài về bước khởi hành âm nhạc của Lê Uyên - Phương... là những bài hay theo hướng này. Do đó, cuốn sách là tập hợp những bài rời xoay quanh cái trục Đà Lạt hơn là một nghiên cứu có hệ thống nhất quán. Đúng như tác giả đã nêu trên bìa sách, Đà Lạt một thời hương xa là những chuyến du khảo văn hóa về miền đất mộng. Mỗi chuyến hành trình “đi tìm thời gian đã mất” là một tâm cảnh khác nhau, lúc tỉnh táo, lúc ngất ngây, thôi thúc bằng món nợ tình cảm và tinh thần của riêng tác giả với thành phố này. Đọc trên tinh thần đó, tôi nghĩ đây là cuốn sách sẽ có sức sống lâu, được nhiều người đọc. Bởi có ai không si tình Đà Lạt! Nhưng Đà Lạt của “một thời hương xa” thật sự đã xa vời vợi. *** Review Phạm Huyền Trang: Trong những ngày này, mảnh đất Đà Lạt dậy sóng vì khu Hòa Bình bị quy hoạch dỡ bỏ. Nhiều người trực tiếp bày tỏ những tiếc nuối, day dứt khi một thành phố thơ mộng, êm đềm như vậy rồi cũng dần đánh mất hồn cốt, cũng bị phá nát. Trong những người ấy, chắc chắn có nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên- một người dành rất nhiều công sức, tâm huyết để yêu và viết về mảnh đất này. "Đà Lạt một thời hương xa" là một công trình du khảo của anh về thành phố ngàn hoa trong giai đoạn 1954 - 1975. Nó thật sự là một món quà quý giá dành cho những người yêu Đà Lạt của thời quá vãng. Sách chia làm ba phần chính là Du hành thời gian, Không gian đã mất và Phụ lục (chủ yếu dành để giới thiệu về giáo dục, kiến trúc và thị trưởng Đà Lạt giai đoạn ấy). Đúng như lời giới thiệu ở bìa bốn, cuốn sách đưa tôi vào vùng "khí quyển tinh thần" của Thành phố thông qua những nhân vật tên tuổi từng gắn bó mật thiết với Đà Lạt: Nhất Linh, Nguyễn Bạt Tụy, Phạm Duy, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương... Đây chính là phần tôi thích nhất trong cuốn sách, bởi không chỉ được hiểu thêm về những tháng ngày sống tại nơi đây của những nghệ sĩ, nhà nghiên cứu ấy mà còn được tận mắt thấy những thủ bút của họ, gồm cả thơ- nhạc- họa... ( Những trang viết về cuộc tình Phạm Duy- Lệ Lan, Trịnh Công Sơn- Dao Ánh, Lê Uyên- Phương... thật sự rất thú vị). Chẳng phải ngẫu nhiên mà những người nổi tiếng khi ấy là chọn Đà Lạt làm một nơi an trú. Như lời khẳng định của Tòa thị chính Đà Lạt mà tác giả đã trích dẫn "Đà Lạt là một nơi vừa để nghỉ ngơi, vừa để làm việc. Đà Lạt không ngừng phát triển và trong tương lai, trong một nước Việt Nam độc lập, Đà Lạt tràn đầy triển vọng". Có đọc về những tháng ngày sôi nổi mà êm đềm ấy, mới hiểu vì sao mà nhiều người mến yêu Đà Lạt đến vậy, và những gì chúng ta vẫn thường ca ngợi về Đà Lạt của hôm nay, thực sự chỉ như một lớp phấn lòe loẹt trát lên khuôn mặt của cô gái đẹp nhưng đã đi qua thời xuân sắc. Sách in cực kỳ đẹp, chỉ hai tone màu đen- trắng với khá nhiều hình ảnh tư liệu và cả bản đồ du lịch Đà Lạt khi ấy. Cứ ngỡ gần 400 trang sách, lại thêm một cuốn ra đời trước đó (Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách), Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đủ đểtrải lòng. Vậy mà mới đây, anh lại vừa ra thêm cuốn sách "Đà Lạt bên dưới sương mù" và một cuốn in chung với nhiều tác giả mang tên "Miền sương khói". Tôi không biết, thời hiện đại, có còn người nào yêu thành phố này nhiều hơn anh nữa không. Hỏi thế, chứ biết điều ấy chẳng quan trọng. Những gì quá đẹp mà không được trân trọng, nâng niu và gìn giữ đúng như những gì nó xứng đáng được hưởng thì sẽ gây cho ta cái cảm giác xót xa ấy thôi...   Mời các bạn đón đọc Đà Lạt, Một Thời Hương Xa của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký
Có lẽ hình ảnh Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (600-664) đi thỉnh kinh là một trong những hình ảnh gây nhiều ấn tượng sâu sắc và in sâu vào tâm thức của đa số người Việt Nam chúng ta nhất. Con người ấy đã vì pháp quên mình, cô thân chích ảnh, trải bao hiểm nguy, băng ngàn vượt suối, đến tận đất Phật, trong thời buổi đường đi chỉ là những lối mòn hoang sơ đầy bấc trắc, để tìm thầy học đạo suốt 17 năm trời, rồi thỉnh về nước 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Ấn Độ. Thế nhưng, ngoài công trình Tây hành cầu pháp, phiên dịch Kinh điển, Pháp sư còn để lại tập sử liệu rất đặc sắc, " Đại Đường Tây Vực Ký ". Trong tập bút ký này, Huyền Trang đã ghi chép về 138 nước, mà phần lớn Pháp sư đã từng đặt chân đến, rồi dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp, ghi chép rất cẩn thận. Nội dung tổng hợp cả tính Lịch sử, Địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước. Có thể nói đây là một tư liệu văn hiến rất trọng yếu dùng để nghiên cứu lịch sự Phật giáo, lịch sử giao lưu giữa các nước vùng Trung Á, Nam Á. ( Hoà thượng Thích Phước Sơn Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam )   Mục lục: Lời giới thiệu của hoà thượng Thích Phước Sơn Đôi nét về tác giả Trần Huyền Trang Nhà chú giải Nhuế Truyền Minh Giới thiệu những vấn đề xung quanh tác giả và tác phẩm " Đại Đường Tây Vực Ký " Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 1) Từ nước A Kỳ đến thuỷ thành Tô Diệp Nước A Kỳ Ni (AGNI) Nước Khuất Chi Nước Khuất Chi ( Tiếp 1) Nước Khuất Chi ( Tiếp 2) Nước Khuất Chi ( Tiếp 3) Nước Bạc Lộc Già Từ Lăng Sơn đến Đại Thanh Trì Thuỷ thành Tố Diệp Địa khu tốt lợi Tổng thuật Địa khu tốt lợi Thiên truyền Thánh Đát La Tư ............. Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 2) Tổng thuật nước Ấn Độ Danh xưng Ấn Độ Cương vực Đơn vị đo chiều dài Tuế thời Nhà ở, cung điện Y phục và trang sức Ăn uống Chữ viết Giáo dục ............ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 3) Nước Điểu Trượng Na và nước Bát lộ la Nước Điểu Trượng Na Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 1) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 2) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 3) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 4) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 5) ................ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 12) Nước Tào Cự Thác nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước tảo Củ Thác Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na ( Tiếp) Nước Đổ Hóa La Cổ Địa Nước An Đát La Phược Hoạt Quốc Năm nước: Mông Kiện, A Lợi Ni, Hạt La Hồ, Cật Lật Sắc Ma, Bát Lợi Hạt ............. Từ Đại Lưu sa trên đường đi về nước *** Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.   Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch. Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển “Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh” của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn “Huyền Trang” , nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy. Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy. Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau: “Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận.....” Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: “Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch” quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy. Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ” mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: “Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai” và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.   Mời các bạn đón đọc Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký của tác giả Trần Huyền Trang.