Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Trắng - Romain Gary

Ra đời trong bối cảnh tại Mỹ đang diễn ra những cuộc bạo động phản đối nạn phân biệt chủng tộc, Chó Trắng còn đi xa hơn thế. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm dựa trên câu chuyện có thật về quãng thời gian chú chó Batka xuất hiện trong cuộc đời Romain Gary, để rồi sau đó ông đau đớn nhận ra: chú chó thông minh, hiền dịu, “rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục” của mình lại là một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Chó trắng mở đầu với hình ảnh một chú chó xám, giống béc giê Đức, tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh, khoảng bảy năm tuổi đi theo Sandy - chú chó dòng Đan Mạch - của Romain Gary về nhà. Và như thế, chú chó Batka vô tình bước vào cuộc đời của nhà văn, mau chóng chiếm được tình yêu của ông. Gắn bó với chú chó là vậy, Romain Gary đau đớn khi phát hiện ra rằng Batka là một con Chó Trắng - một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Không muốn giải quyết đời chú bằng một mũi tiêm thuốc độc, Romain Gary quyết tâm “chữa” cho Chó Trắng. Nhưng rồi Batka sẽ ra sao khi rơi vào tay một người huấn luyện da đen? Với Chó Trắng, Romain Gary gửi đến người đọc câu chuyện về người da đen Mỹ, về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Với Romain Gary, viết không giúp tìm ra câu trả lời, nhưng viết giúp giải tỏa nỗi đau trước sự ngu ngốc của con người.  *** Romain Gary, Sinh ngày 8-5-1914 tại Vilnius, Litva, Romain Gary lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ. Ông chuyển đến sống tại Nice, Pháp, năm 14 tuổi. Sau khi theo học ngành Luật, ông đăng ký gia nhập Không quân Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan chỉ huy và từng được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Với tiểu thuyết đầu tay Giáo dục châu Âu, ông được Giải thưởng phê bình năm 1945, trùng với thời điểm ông bắt đầu sự nghiệp tại Bộ Ngoại giao Pháp. Được cử đến Sofia (Bulgaria), Bern (Thuỵ Sỹ), New York (Mỹ), La Paz (Colombia) để làm việc, song Romain Gary vẫn không ngừng viết. Tiểu thuyết Les racines du ciel (Cội rễ bầu trời) đoạt giải Goncourt năm 1956, là một bức tranh toàn cảnh về đời sống một nước thuộc địa của Pháp ở vùng châu Phi xích đạo.  Năm 1961, ông rời bỏ ngành Ngoại giao. Sau tập truyện ngắn Gloire à nos illustres pionniers (Vinh quang cho những người tiên phong vĩ đại) (1962) và tiểu thuyết châm biếm Lady L. (1963), ông chuyển sang viết những câu chuyện phiêu lưu như: La comédie américaine (Vở hài kịch nước Mỹ) và Adieu Gary Cooper (Vĩnh biệt Gary Cooper) (1969),La danse de Gengis Cohn (Điệu nhảy của Gengis Cohn) (1967), La tête coupable (Cái đầu tội lỗi) (1968), Charge d'âme (Nhiệm vụ tinh thần) (1977).  Gary bắt đầu để lộ nỗi sợ tuổi già và sự hết thời của mình trong cuốn Au-delà de cette limite votre ticket n’est plus valable (Phía bên kia giới hạn tấm vé của anh không còn giá trị nữa) (1975) và Clair de femme (Sự thật về phụ nữ) (1977). Sau cái chết bi kịch của nữ diễn viên Jean Seberg, người là vợ ông từ năm 1962 đến 1970, ông viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng mang tên Les cerfs volants (Những cánh diều) không lâu trước khi ông tự vẫn vào năm 1980 ở Paris. Ông để lại chúc thư nêu rõ ông từng ẩn mình dưới cái tên Émile Ajar để viết các tiểu thuyết như Gros Câlin (Âu yếm) (1974), La vie devant soi (Cuộc sống trước mặt) - giải Goncourt năm 1975, Pseudo (Bút danh) (1976),L'angoisse de roi Salomon (Nỗi sợ của vua Salomon) (1979), đánh dấu sự cách tân trong bút pháp của ông.  Là một nhân cách đa diện: nhà văn, nhà ngoại giao, nhà làm phim, phi công thời chiến, Romain Gary thú nhận mình thích diễn những vai nhập nhằng khó hiểu; thích làm người điểu khiển rối, nắm trong tay những sợi dây điều khiển nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ xa để đánh giá được hiệu ứng mà ông tạo ra. Ông đã đẩy trò tung hứng ảo thuật lên tới mức tự tạo ra một phiên bản khác của chính mình - Émile Ajar, và trở thành nhà văn duy nhất hai lần nhận giải Goncourt, dưới hai cái tên khác nhau. *** Đó là con chó xám với một mụn hạt cơm bên phía phải mõm trông như cái nốt ruồi và một túm lông hung quanh mũi, khiến nó trông giống lão nghiện thuốc lá thâm căn cố đế trên tấm biển của hiệu Con chó hút thuốc, một quán rượu có bán thuốc lá ở Nice, không xa trường trung học thời nhỏ của tôi. Nó dõi theo tôi, đầu hơi ngả về một bên, ánh nhìn căng thẳng và chăm chú, lối nhìn của bọn chó hoang bị thu nhốt lại một chỗ trông chừng ta đi qua với một hy vọng đầy lo sợ và không thể chịu nổi. Nó có bộ ức của gã đô vật, và nhiều lần về sau khi con Sandy già của tôi trêu chọc nó, tôi thấy nó đẩy lùi kẻ quấy rầy chỉ bằng sức mạnh của lồng ngực, như một chiếc xe ủi. Đấy là một con chó béc giê Đức. Nó bước vào cuộc sống của tôi ngày 17 tháng Hai năm 1968 ở Beverly Hills, nơi tôi vừa đến đoàn tụ với vợ là Jean Seberg, trong lần quay một bộ phim. Hôm đó, một trận mưa rào quá cỡ như phần lớn những hiện tượng thiên nhiên ở Mỹ mỗi khi chúng ra tay ập xuống Los Angeles, trong vài phút biến nơi đây thành đô thị ao hồ nơi những chiếc Cadillac bị giáng truất bò đi thật thảm hại, bì bõm trong nước; thành phố mang cái dáng vẻ chẳng hợp lề thói tí nào của những thứ nhằm dùng vào việc khác hẳn, mà các nhà siêu thực từ lâu đã khiến chúng ta quen thuộc rồi. Tôi lo lắng cho con chó Sandy của mình, ngày hôm trước nó đã làm một cuộc chạy rông của anh chàng độc thân ở phía Sunset Strip và bây giờ vẫn chưa về. Sandy cho đến năm bốn tuổi vẫn còn là trai tân, nhờ ảnh hưởng của môi trường vốn chú trọng đạo đức của gia đình chúng tôi, nhưng một ả chó ở Doheny Drive đã khiến nó cuống cuồng lên. Bốn năm giáo dục tư sản và những tôn chỉ mẫu mực bị vứt vèo qua cửa sổ. Con chó này vốn bản chất thật thà, dễ tin, không được trang bị tốt để đương đầu với môi trường điện ảnh Hollywood. Chúng tôi đã mang từ Paris đến toàn bộ cái vườn thú thường ngày của chúng tôi. Có con mèo Miến Điện, Bruno, và cô bạn gái Thái Lan của nó, tên là Maï; thực ra Maï là một con mèo đực, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng tôi luôn coi nó là một cô nàng, hẳn là vì nó có hàng kho mơn trớn dịu dàng mà nó ban phát cho chúng tôi xả láng. Còn có một mụ mèo già chuyên ở máng xối, Bippo, yếm thế và hoang dã, sẵn sàng cào cho anh một phát khi anh định vuốt ve mụ ta; một con chim tu-căng, Billy-Billy, mà chúng tôi nuôi từ hồi ở Colombia, và tôi vừa mới đem cho vườn thú riêng của Jack Carruthers ở San Fernando Valley, một con trăn tuyệt đẹp dài đến bảy mét, có biệt danh là Pete Kẻ Siết cổ, mà tôi đã bắt gặp trên đường trong rừng ở Colombia, cùng thời với con chim tu-căng. Tôi đành chia tay Pete vì các bạn tôi từ chối chăm nó khi, phải cái thói lang bạt của kẻ mà cái thân xác trong đó anh ta bị nhốt gây ra những cơn khủng hoảng của bệnh sợ chỗ kín, tôi đột ngột bỏ chạy từ lục địa này sang lục địa khác, đi tìm một ai hay một cái gì đó khác, cũng chẳng biết là cái gì. Thôi thì tốt hơn là tôi nên nói ngay là tôi chẳng tìm ra được cái gì khác trong các cuộc chạy đuổi của mình cả, ngoài thứ xì gà khá kỳ lạ ở Madras, một trong những bất ngờ lớn và đẹp của đời tôi. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm con trăn của tôi. Tôi vào trong khu đất rào đặc biệt mà Jack Carruthers dành cho nó vì quý trọng các nhà văn. Tôi ngồi xếp bằng, trước mặt nó, và chúng tôi nhìn nhau rất lâu, ngạc nhiên, sửng sốt vô hạn, mỗi bên đều bất lực không cắt nghĩa được chút nào về những gì đã xảy đến cho mình và làm cho bên kia được chia sẻ đôi chút hiểu biết rút ra từ kinh nghiệm của mình. Mang kiếp trăn hay kiếp người là một nỗi bất hạnh khiến ta ngơ ngác đến mức nỗi hốt hoảng được chia sẻ này trở thành mối tình bằng hữu thật sự. Đôi lúc Pete lấy tư thế hình tam giác - bọn trăn không quấn lại thành cục tròn, chúng dựng thân lên thành hình thước thợ; lúc đó tôi có cảm giác bằng cách ấy nó làm một dấu hiệu gì đấy mà tôi cần diễn giải. Từ đó, tôi biết được tư thế hình thước thợ đối với con trăn là tư thế tự vệ, trước một mối hiểm nguy, và như thế tôi biết rằng Pete Kẻ Siết cổ và tôi quả có một điều chung: cẩn trọng cao độ trong các quan hệ với con người. Tầm trưa, trong khi nước ồ ạt tuôn trên các đại lộ, tôi nghe thấy một tiếng sủa giọng trung đẹp mà tôi đã quá biết và đi ra mở cửa. Sandy là con chó vàng cao lớn, chắc hẳn là hậu duệ rất gián tiếp một dòng chó Đan Mạch xa xôi nào đó, nhưng do mưa và bùn, bộ lông nó đã bắt màu sô cô la nghiền. Nó đứng ở cửa, đuôi cụp, mõm sát đất, dùng tài năng dối trá tuyệt hảo để ra bộ chịu tội, xấu hổ và có dáng đứa con hư trở về nhà. Không biết bao nhiêu lần tôi bảo nó là không được lê lết ngoài đường ban đêm; sau khi đã đưa ngón tay dọa nó và mắng đi mắng lại nó mấy lần là bad dog tôi đã sẵn sàng tận hưởng trọn vẹn cái vai trò lãnh chúa cùng ông chủ được sùng bái và kính sợ, kẻ nắm uy quyền tuyệt đối của mình, thì con chó của tôi kín đáo quay đầu lại để chỉ cho tôi biết rằng không chỉ có mỗi hai chúng tôi. Quả là nó đã dẫn về một cậu bạn tình cờ gặp ngoài đường. Đó là một con béc giê Đức lông xám, chừng sáu hay bảy năm tuổi, con vật đẹp đẽ tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh. Tôi để ý nó không có vòng cổ, điều hiếm thấy ở một con chó nòi. Tôi cho anh chàng đểu của mình vào nhà, nhưng con béc giê Đức không bỏ đi, và mưa to đến nỗi bộ lông ướt dính chặt vào da khiến nó trông giống con hải cẩu. Nó vẫy đuôi, dựng hai tai lên, mắt long lanh linh lợi, với vẻ chờ đợi căng thẳng của lũ chó đang đón một cử chỉ quen thuộc hay một mệnh lệnh. Rõ ràng là nó chờ một lời mời, đòi cái quyền được cho trú ẩn vẫn khắc ghi bao đời nay trong quan hệ giữa con người với bạn hữu đang hoạn nạn. Tôi mời nó vào. Khá dễ biết tính cách một con chó, trừ với giống doberman*, ở giống này tôi luôn gặp những phản ứng bất ngờ. Con chó xám khiến tôi chú ý ngay vì tâm trạng vui vẻ của nó. Vả lại, ai đã từng sống chung với loài chó đều biết rằng khi một con tỏ ra mến một con khác, thì gần như ta luôn có thể tin đánh giá của nó. Con Sandy của tôi tính rất ôn hòa, và cảm tình tự phát của nó dành cho anh chàng khổng lồ được cứu khỏi cơn mưa rào này là sự tiến cử tốt nhất đối với tôi. Tôi điện thoại cho Hội bảo vệ động vật báo là tôi đã đón nhận một con béc giê Đức lang thang, báo số điện thoại của tôi, phòng trường họp chủ nó xuất hiện, và tôi nhẹ lòng khi nhận thấy vị khách của mình rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục. Những ngày tiếp sau đó, tôi có nhiều người đến thăm, và con béc giê mà tôi đặt tên là Batka - trong tiếng Nga có nghĩa là Bố cưng, hay là Lão to sụ - được các bạn tôi rất thích, sau khi đã qua phút e sợ đầu tiên. Ngoài cái ức đ vật và cái mõm to đen sì, quả là Batka còn có bộ răng nanh giống như sừng của loài bò tót nhỏ mà ở Mexico người ta gọi là Machos. Tuy nhiên nó rất hiền dịu; nó hít hít các vị khách để nhận dạng rồi sau đó, ngay từ cái vuốt ve đầu tiên, bắt tay, bằng cách đưa chân ra cho khách như muốn bảo họ: “Tôi biết là tôi có vẻ hung tợn, nhưng tôi rất tử tế.” Ít ra thì đó cũng là cách tôi diễn giải những cố gắng của nó để làm yên lòng các vị khách của tôi, nhưng dĩ nhiên một người viết tiểu thuyết dễ bị nhầm về bản chất con người và sự vật hơn người khác, vì anh ta tưởng tượng ra họ. Tôi luôn tưởng tượng về những người tôi gặp trong đời hay sống gần tôi. Đối với một kẻ tưởng tượng chuyên nghiệp, điều ấy dễ hơn và đỡ mệt. Anh chẳng cần phải tốn thì giờ tìm hiểu những người thân của mình, chăm chú đến họ, thật sự chú tâm đến họ. Anh bịa ra họ. về sau, khi gặp điều bất ngờ, anh giận họ kinh khủng: họ đã lừa dối anh. Tóm lại, họ không xứng đáng với tài năng của anh. Chẳng ai đòi lại con chó, và tôi thấy nó đã trở nên một thành viên quen thuộc của gia đình tôi. Ngôi nhà của tôi ở Arden vốn sẵn có bể bơi, và công ty bảo dưỡng mỗi tháng hai lần cử người đến kiểm tra bộ phận lọc nước. Một buổi chiều, tôi đang ngồi viết, bỗng ở phía bể bơi có tiếng gầm dài rồi tiếp sau là những tiếng sủa giật từng hồi, nhanh và giận dữ mà bọn chó sủa để báo hiệu có kẻ lạ lẻn vào và chúng sắp tấn công ngay lập tức trong vài giây tới. Thường thì đó chỉ là lối nói trong ngôn ngữ loài chó cái câu tương đương với câu nói trong ngôn ngữ của chúng ta: “Hãy giữ tôi lại không thì tôi gây tai họa đến nơi đây này”, nhưng ở những con chó giữ nhà được huấn luyện tốt thì đó chẳng phải là chuyện làm ra vẻ bề ngoài. Tôi chưa từng biết thứ gì gây căng thẳng thần kinh hơn là những cơn kịch phát bất ngờ và hung dữ ấy mà mục đích là chôn đứng chân anh tại chỗ, trong khi chờ dịp tốt hơn. Tôi chạy ra sân. Bên kia hàng rào sắt là anh chàng làm công người da đen đến kiểm tra bộ phận lọc nước bể bơi, còn Batka thì lao ra phía cổng chính, bọt sùi đầy mõm, trong cơn thù hận tột đỉnh kinh hoàng đến nỗi con Sandy trung hậu của tôi vừa bò vừa rên hư hử lẩn vào một bụi cây và biến thành tấm thảm chân giường. Anh da đen đứng sững, tê liệt vì sợ. Chẳng phải chuyện đùa. Con béc giê hiền từ của tôi, luôn nhã nhặn với khách khứa của chúng tôi, đã biến thành cơn thịnh nộ súc sinh, tìm lại được trong đáy họng nó những tiếng hú của loài ác thú đang đói trông thấy thịt mà không với tới được. Có một điều gì đó thật hết sức đáng nản lòng và gây bối rối trong cái cách thay đổi đột ngột của một con vật hiền lành anh tưởng đã hiểu rõ thành con thú tàn bạo và chừng như hoàn toàn khác. Đây là sự biến đổi thật sự về bản chất, gần như là về tầm vóc, một trong những khoảnh khắc nặng nề khi những sắp xếp nhỏ nhặt vốn đã làm anh yên lòng và những phạm trù quen thuộc vỡ vụn tan tành. Kinh nghiệm khiến người ta phải nản lòng dành cho những kẻ chuộng các niềm tin chắc chắn. Bỗng nhiên tôi đối mặt với hình ảnh một thú tính khởi nguyên, nấp kín trong lòng tự nhiên, mà người ta thích quên đi sự có mặt ngầm của nó giữa hai lần bộc lộ chết người. Cái mà ngày trước người ta gọi là chủ nghĩa nhân ái luôn bị mắc kẹt trong cái song đồ đó, giữa tình thương lũ chó và sự kinh tởm tính chất chó má. Tôi cố kéo con Batka lại và bắt nó vào nhà, nhưng quả là nó có ý thức nghĩa vụ, cái con khốn kiếp ấy. Nó không cắn tôi, nhưng hai bàn tay tôi đầy những nước bọt, và nó giật ra khỏi tôi, lao về phía cổng, nhe nanh ra. Anh da đen đứng bên kia cổng, dụng cụ cầm ở tay. Đó là một chàng trai trẻ. Tôi nhớ rất rõ nét mặt anh ta, bởi đây là lần đầu tiên tôi thấy một người da đen đứng trước sự căm thù thú tính. Anh ta có cái vẻ buồn thường thấy trên một số khuôn mặt người khi họ sợ. Trong chiến tranh, tôi thường thấy vẻ mặt ấy ở các bạn trong phi đội của tôi. Tôi nhớ hôm trước ngày phải thực hiện một nhiệm vụ bay là sát mặt đất đặc biệt nguy hiểm, đại tá Fourquet đã bảo tôi: “Trông cậu buồn thế, Gary.” Lúc đó tôi sợ. Tôi bảo anh thanh niên đi đi, bỏ chuyện súc bể bơi tuần này. Ngày hôm sau lại tái diễn cảnh tượng ấy với người làm công của công ty Liên hiệp Miền Tây mang đến cho tôi một bức điện tín. Buổi chiều, mấy người bạn đến thăm chúng tôi và, mặc dầu tôi lo lắng, Batka đã đón tiếp họ hết sức thân tình. Họ là người da trắng. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là người làm công của Liên hiệp Miền Tây cũng là người da đen.   Mời các bạn đón đọc Chó Trắng của tác giả Romain Gary.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trở Lại Tìm Nhau - Guillaume Musso
24 tiếng từ cõi chết trở về, liệu anh có kịp để tìm lại tình yêu? Mười năm năm trước, Ethan Whitaker đã rũ bỏ mọi thứ: người bạn thân từ nhỏ, vị hôn thê và cuộc sống tẻ nhạt nơi công trường. Anh đang khát khao trở thành người khác, có mọi thứ khác hẳn với nhịp điệu buồn tẻ, nghèo nàn hàng ngày. Anh bỏ đi đúng vào ngày sinh nhật, khi người bạn và người yêu đang chờ anh nơi điểm hẹn, thời điểm cô gái trẻ Marisa nôn nóng gặp anh báo một tin vui. Không một lần trở lại. Nhiều năm sau đó, Ethan đã trở thành một vị bác sĩ tâm lý tên tuổi. Anh giàu có và hơn thế nữa, đã gặp được tình yêu của đời mình, Céline Paladino, nữ tiếp viên hàng không. Anh đã từng có những quyết định điên rồ nhất để chớp lấy cơ hội gặp cô. Anh đã từng nghĩ mình là người hạnh phúc nhất song lại bị giày vò với ý nghĩ phải xa cô bằng mọi giá. Một cuộc chia tay đã diễn ra buồn bã như nó phải thế. Và năm năm đã trôi qua cùng trái tim không hề nguôi ngoai. Ethan Whitaker lúc này đã trở thành người khác, hệt như mơ ước ngông cuồng của chàng trai nghèo khó ngày nào. Anh đã thực hiện lời hứa với bản thân, hình ảnh của Ethan xuất hiện trên tờ Thời báo New York cùng cái tít rõ kêu “Vị bác sĩ tâm lý quyến rũ nước Mỹ”. Anh là khách mời bản tin buổi sáng của kênh truyền hình NBC nổi tiếng. Anh đã có một cuộc sống giàu sang cùng chiếc du thuyền sang trọng neo dọc con sông Hudson… Nhưng bên trong, Ethan Whitaker là một người trống rỗng, anh giấu diếm bí mật về vụ chơi bài Poker bị thua với số tiền đặt cửa là 2 triệu đô-la. Mọi thứ rồi sẽ nhàn nhạt trôi qua, khi Ethan là nạn nhân của chính bản thân anh. Ước mơ bất chợt dấy lên hồi trẻ đã khiến anh cắt rời quá khứ để theo đuổi tham vọng. Sự liều lĩnh mang lại cho anh cả tiền bạc, tên tuổi và tình yêu. Nhưng nó cũng khiến Ethan chợt mất tất cả, kể cả mạng sống của mình. Trong Trở lại tìm nhau, Ethan cứ lần lượt quay trở lại 24 giờ cuối cùng. Anh có thêm cơ hội nữa để sống lại ngày định mệnh ấy. Anh đã nhận ra cô con gái mình bỏ rơi nay đang tìm đến bố. Anh đã tới đám cưới của Céline để chứng kiến tim mình đập trong nhói đau. Anh đã đối diện với cái chết tức tưởi giữa đường. Và anh sẽ làm gì nếu được quay trở lại? Với cách dựng truyện độc đáo khiến độc giả lần lượt trải qua những tâm trạng trái ngược, sự hồi hộp được dồn nén, thôi thúc – Trở lại tìm nhau mang đến một thông điệp sống, thông điệp yêu cho những ai đang còn trẻ. Bạn luôn nghĩ rằng mình có nhiều thời gian cùng những cơ hội vàng phía trước, đôi khi bạn sẽ bẵng quên những điều giản dị đang có… ............ “Cách dựng truyện độc đáo và tài tình, mộ tphong cách có thể nhận ra giữa vô vàn những ngòi bút khác, những nhân vật cá tính, tất cả đều có trong tác phẩm của Musso” – Métro *** Hãy tưởng tượng... Thành phố New York. Sự sôi động của Quảng trường Thời đại. Những tiếng kêu hét, tiếng cười, âm nhạc. Mùi bắp rang bơ, bánh mì kẹp xúc xích, khói. Ánh đèn nê ông, những màn hình lớn, những biển hiện sáng choang nơi mặt tiền các tòa nhà chọc trời. Tắc nghẽn giao thông, xe taxi, tiếng còi hụ của xe cảnh sát và tiếng còi inh ỏi. Và rồi đám người đang đè bẹp tất thảy, đnag chen lấn xô đẩy. Làn sóng bất tận khách du lịch, những người bán hàng trái phép và lũ móc túi. Anh là một trong vô vàn hạt cát của đám đông đó. Anh hai mươi ba tuổi. Trên vỉa hè, vị hôn thê và người bạn thân nhất của anh đang tản bộ trước anh hai mét. Nàng tên là Marisa. Hai người hẹn hò nhau từ năm đầu cấp ba và đám cưới được dự định tổ chức vào cuối tháng này. Với Jimmy thì sự gắn bó còn lâu hơn nữa; hai người đã lớn lên cùng nhau tại khu công nhân ở phía Nam thành phố Boston. Tối nay là sinh nhật anh. Để anh vui, hai người đã tổ chức chuyến đi dạo ở Manhattan này và cả ba đã từ Boston phóng lên đây trong một chiếc xe Mustang xập xệ. Anh mới hai mươi ba tuổi, nhưng đối với anh, cuộc sống có vẻ như đã được khuôn định sẵn và không hy vọng. Phải nói là khi anh chào đời, các bà tiên đã không đứng vây xung quanh nôi. Cha mẹ anh đã lao động vất vả cả đời nhưng cũng không đủ để trả tiền ăn học cho anh, nên khi học xong tú tài, anh đã bắt đầu làm việc tại các công trường cùng với Jimmy. Cuộc sống thường nhật của anh là các bao xi măng, dàn giáo, là mồ hôi và những lời chửi mắng của đốc công. Giải trí ư? Làm vài vại bia sau giờ làm, đưa Marisa đi siêu thị, mỗi tuần chơi bowling hai lần với đám bạn. Hơi lơ đễnh một chút, đầu óc trên mây trên gió và bị thôi miên bởi ánh đèn, anh để kệ cho dòng người cuốn đi. Trên màn hình đang nhấp nháy những đoạn quảng cáo các loại xe hơi mà anh sẽ không bao giờ được cầm lái, những chiếc đồng hồ đeo tay xịn giá gấp mười lần lương của anh, những áo xống dành cho các phụ nữ thanh tao sẽ không bao giờ hạ cố liếc anh. Tương lai ư? Sẽ là một đám cưới không tình yêu say đắm, hai hoặc ba đứa nhóc ra đời, cày như điên để trả khoản vay bất động sản được dùng vào việc mua một chái nhà mà anh sẽ không thích. Và anh sẽ lại tiếp tục chơi bowling, uống bia, làm việc cùng với Jimmy nhưng không hề thực sự để tâm vào công việc đó. Anh mới hai mươi ba tuổi đầu mà đã bị phết dính chặt vào một cuộc sống không tương xứng với anh. Đã từ lâu, anh cảm thấy khác với thế giới xung quanh mình. Không phải anh khinh thường gia đình hay bè bạn. Chuyện này hoàn toàn khác, anh cảm thấy nhục nhã vì nghèo khó và đó là nỗi nhục thường trực. Chuyện đó chả tác động gì đến Marisa lẫn Jimmy, hai người vẫn thích nhắc đi nhắc lại: "Có thể chúng ta nghèo, nhưng ít ra chúng ta cũng hạnh phúc". ... Mời các bạn đón đọc Trở Lại Tìm Nhau của tác giả Guillaume Musso.
Nữ Sinh - Dazai Osamu
Sau “Tà dương” và “Thất lạc cõi người”, chúng tôi xin được giới thiệu đến quý độc giả một tác phẩm tiêu biểu nữa của Dazai là “Nữ sinh” cùng với năm truyện ngắn xuất sắc khác. Hầu hết các truyện trong tuyển tập đều có nhân vật chính là nữ với những miêu tả tâm lý hết sức tinh tế và cao sang. Không những thành công với thể loại tự truyện (tư tiểu thuyết), Dazai còn chứng tỏ bản lĩnh bậc thầy của mình trong việc am hiểu tâm lý phụ nữ xứ Phù Tang. Qua tác phẩm của Dazai, tâm hồn Nhật Bản; vốn kiềm nén và khép kín, có thể hiện cũng rất cô đọng, như thơ Haiku, như kịch No, như phim của Ozu; lại được chuyên chở qua ngôn ngữ của văn chương một cách dịu dàng nhưng không kém phần mãnh liệt. Truyện “Nữ sinh” được dịch từ nguyên tác “Nữ sinh đồ” (女生徒) trong tập truyện ngắn “Nữ sinh” (女生徒) do Nhà xuất bản Kadokawa (角川文庫) tái bản có sửa chữa lần thứ năm năm Bình Thành 21 (2009). Tác phẩm này được đăng tải lần đầu tiên trên tạp chí “Văn học giới” số tháng 4 năm 1939. Dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết thành một truyện vừa xuất sắc nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ. Tác phẩm khắc họa rất thành công tâm lý bi quan hay trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì với một văn phong vô cùng tinh tế. Chính vì vậy, ngay từ khi ra đời, tác phẩm được giới văn nghệ thời bấy giờ, tiêu biểu là văn hào Kawabata Yasunari vô cùng tán thưởng. Đến năm sau, 1940, tác phẩm được giải nhì của giải thưởng văn học Kitamura Tokoku[1]. Tác phẩm đã được tái bản rất nhiều lần và luôn được các độc giả nữ yêu thích cho đến nay. Bản thân tập nhật ký của Ariake đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cũng như “Nữ sinh”, sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lý phụ nữ của Dazai một lần nữa được thể hiện qua truyện “Nữ tác gia”. Tâm lý của một cô gái nuôi mộng văn chương hiện ra thật sinh động và thú vị vô cùng. Là chứng nhân của cuộc thế chiến tàn khốc và là nạn nhân của thời cuộc, Dazai đã đưa những trải nghiệm cay đắng của mình vào tác phẩm. Truyện ngắn “Tờ tiền giấy” nói về sự đảo điên của cuộc thế chiến nhưng vẫn có một tia sáng ấm áp nhỏ nhoi của tình người. Qua hai tác phẩm “Một ngày trọng đại” và “Người vợ” những tâm tình của người phụ nữ Nhật Bản trong ngày mở màn cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, hay khi bị chồng phản bội đều hiện ra hết sức chân thật. Riêng truyện “Một chuyến đi” nói về nhà văn Kasai, một chân dung tự họa của Dazai, qua đó chúng ta thấy được phần nào sự cố gắng của tác giả trong việc theo đuổi văn chương, nhiều khi không phải vì đam mê mà còn vì sinh kế nữa. Như vậy là sau ba năm ròng rã đọc và dịch Dazai, chúng tôi đã giới thiệu đến quý độc giả những tác phẩm chính yếu, xuất sắc nhất của ông, cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Chỉ riêng một số thư từ, vài truyện ngắn khác như “Kỷ niệm” (思い出), “Vợ của Villon” (ヴィヨンのつま) và vở kịch “Pháo hoa mùa đông” (冬の花火) là chưa được dịch và giới thiệu. Hy vọng những tác phẩm đó sẽ được bổ sung đầy đủ khi ấn hành tuyển tập tác phẩm của Dazai trong tương lai. Nagoya, tháng 9 năm 2012 Hoàng Long *** Truyện “Người vợ” được dịch từ nguyên tác “Osan” (おさん) trong tập truyện ngắn “Nữ sinh” (女生徒) do Nhà xuất bản Kadokawa (角川文庫) tái bản có sửa chữa lần thứ năm năm Bình Thành 21 (2009), từ trang 215 đến trang 236. Nguyên văn Osan là tên người vợ của Kamiji (紙治) trong vở tuồng “Joururi” (浄瑠璃) “Tự sát đôi ở Amijima” (Shinjuten no Amijima - 心中天の網島), được dựa trên câu chuyện có thật. Kamiji vốn là một thợ buôn giấy ở Tenma Osaka, qua lại thân mật với một cô du nữ tên Koharu (小春), bị dằn vặt giữa nàng với người vợ trinh thục Osan, cuối cùng cùng với Koharu tự sát đôi ở chùa Daichouji (大長寺)ở Amijima Mời các bạn đón đọc Nữ Sinh của tác giả Dazai Osamu.
Những Công Chúa Prada - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** “Thôi đi!” Marina gắt Travis. Travis đã thế càng dí sát camera vào mặt cô hơn. Marina thè lưỡi vào ống kính, “Đang bận muốn chết đây này!” Cô đang bù đầu bù cổ thiết kế giày cho cuộc triển lãm cuối năm; mặt mũi nhợt nhạt không son phấn cũng chẳng mascara; tóc vàng xổ tung vì không xong việc, ấy thế mà Travis - bạn trai của Sinead - lại còn cứ quay phim, mà quay mọi khoảnh khắc rã rời mới khổ. “Tớ là ruồi-trên-tường mà!” Travis bảo Marina. “Truyền hình thực tế nó phải thế!” “Để người ta yên với chứ!” Frankie rên rỉ. Travis đã lẵng nhẵng bám theo bọn cô 24/24 suốt hai tuần qua, hết lăm lăm máy quay kỹ thuật số vào mặt Frankie trong lúc cô đang trang điểm để chụp ảnh thời trang, lại chộp lúc cô đang lả lướt trên sàn catwalk ở McCartney và Manolos. “Nhìn đây nhìn đây,” Travis gọi Frankie trong buồng thay đồ chật hẹp ngay lúc cô đang nhét mình vào một bộ Donna Karan [1] xanh rực rỡ. Frankie xỉa thẳng ngón tay về phía anh chàng. “Quá duyên!” Travis phá ra cười, rà máy quay lại gần hơn nữa. “Làm lại đi, Frankie! Những lúc nổi cáu trông em thật hấp dẫn!” “Tắt cái đó ngay!” Sinead thở dài. Cô ngồi thu cả hai chân lên ghế xô-pha nhà Travis sau một ngày phờ phạc trên giảng đường. Chỉ còn hai tuần nữa là tới cuộc Triển lãm Năm Nhất, thế mà giờ cô vẫn còn phải vật vã thuyết phục đám giáo viên hướng dẫn rằng những gì cô trình bày với họ thực sự là nghiêm túc. “Ý em là sao... không một mảnh vải á?” thầy Tristan Fox cau mày. “Dạ, không vải, không da thú, không trang sức - chỉ mỗi tranh vẽ trên cơ thể,” Sinead khẳng định. Từ lâu cô đã nung nấu ý định vẽ lên chính cơ thể mình những hoa văn thần kỳ bằng màu lá móng cùng các loại màu thiên nhiên khác. Xong xuôi, Travis sẽ chụp hình cô, và những bức ảnh đó sẽ được trưng bày trong cuộc triển lãm. “Em nên nhớ đây là đại học Thời Trang !” thầy Tristan nhắc nhở. “Thế thì sao ạ? Chẳng phải vẽ trên cơ thể là nền móng để ngành thời trang phát triển sao thầy? Xăm mình đấy, xỏ khuyên đấy...” Sinead tin chắc là mình đúng, và cuối cùng thầy Tristan đành phải nhượng bộ. “Sao anh cứ quay em mãi thế?” giờ thì Sinead bắt đầu cáu với Travis. Cô giấu gương mặt vào hai bàn tay. Travis cứ lẵng nhẵng bám theo cô khắp nhà, thậm chí còn vào cả buồng tắm, tới mức cô phải đóng sầm cửa lại trước mũi anh chàng. “Vì em đẹp,” Travis nịnh. Từ những đường chỉ tay, đến đôi môi trông như hờn dỗi, đến mái tóc vàng mềm mại. Chiếc máy quay phim của Travis mê mệt đến từng chi tiết. “Thôi, thôi ngay đi!” Sinead gắt. Nhưng mặc cho cô lấy gối che mặt, Travis vẫn tiếp tục ghi hình. ... Mời các bạn đón đọc Những Công Chúa Prada của tác giả Jasmine Oliver.
Ngày Mai Không Hẹn Trước - Debbie Macomber
"Thậm chí những độc giả khó tính nhất cũng sẽ tích cực ủng hộ những phụ nữ trong câu chuyện tràn đầy niềm hy vọng này trong lúc len lén chùi nước mắt và thầm bay bổng với những giấc mơ riêng.” - Booklist Ngày mai không hẹn trước thả một mảnh ghép bí hiểm vào tấm kính vạn hoa của Vịnh Cedar: Đang bằng lòng với cuộc sống êm đềm, Grace Sherman đột ngột bị ném vào vòng xoáy bi kịch đầy khiêu khích, khi người bạn tình của nàng bỗng dưng biến mất như một kẻ lẩn trốn trách nhiệm sau đêm ái ân vụng trộm. Đau khổ, nhớ tiếc và trên hết là tổn thương, nàng quyết đi tìm cho ra sự thực. Trong lúc ấy, cách Grace không xa, Justine và Seth đang giằng co trong mối quan hệ lơ lửng của họ. Seth có thể khiến Justine mê muội dưới nụ hôn của mình, chàng sẵn sàng luồn đôi bàn tay ma quỷ vào khắp ngóc ngách trên thân thể nóng bỏng của người yêu, nhưng cũng sẵn sàng dứt bỏ đỉnh cao hoan lạc khi nàng chỉ coi chàng là sự thoả mãn nhất thời. Con người dễ bị cuốn theo những ham muốn phù phiếm, liệu họ có thức tỉnh đúng lúc để đi đến tận cùng tình yêu đích thực của mình... *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debbie Macomber “Thật thú vị khi phát hiện ra một nhà văn không hề dựa vào tình dục và những hành động báng bổ để viết nên những câu chuyện hấp dẫn tuyệt vời.” – G.Schmorleizt, một độc giả ở California đã vượt qua chứng trầm cảm nhờ đọc tiểu thuyết “Tiểu thuyết lãng mạng của Debbie Macomber rất mới lạ vì cách phát triển đầy thực tế, nhẹ nhàng và mãnh liệt của câu chuyện. Nó vươn mình trong thế giới tình yêu, một thế giới cho phép sự say mê, đắm đuối phát triển thành một thứ gì đó tồn tại mãi mãi và đủ đặc biệt để vượt qua mọi khó khăn thử thách!...” – CrystalRiviers.com “Những cuốn sách trong loạt truyện về Vịnh Cedar của Macomber giống như một hộp bánh nướng Krispy Kreme: nhừ và mịn nhưng cực kỳ ngon và càng ăn càng nghiện.” – Publishers Weekly “Đôi khi lối kể chuyện của Macomber khiến người ta trào nước mắt, có lúc lại khiến người ta mỉm cười.” – Newport News, VA, Daily Press *** Grace Sherman đang ngồi trong văn phòng luật sư, trân trối nhìn tờ đơn xin ly hôn. Cô con gái lớn Maryellen đi cùng chị để xem có giúp gì được cho mẹ không. Grace tự nhủ rằng chuyện này cần phải giải quyết một cách thẳng thắn và cởi mở, thế là chị đi đến quyết định. Chị đã sẵn sàng chấm dứt cuộc hôn nhân này, sẵn sàng bù đắp lại những khoảng thời gian đã mất. Mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu... Vậy mà đến khi cầm bút lên, chị lại thấy tay mình ngập ngừng. Thật lòng mà nói, Grace không mong muốn chuyện này xảy ra, thế nhưng Dan đã không cho chị một lối thoát nào khác. Cách đây năm tháng, khoảng tháng Tư gì đó, người chồng đã chung sống với chị gần ba mươi sáu năm tự nhiên mất tích. Ngày hôm trước mọi chuyện vẫn còn yên lành, nhưng hôm sau anh ta đã đi biệt dạng. Rõ ràng Dan đã có sự lựa chọn từ trước nên không để lại một lời nhắn nhủ hay giải thích nào. Thậm chí cho đến giờ phút này, Grace vẫn thấy khó mà tin nổi tại sao người chồng mà mình đã cùng đầu ấp tay gối, người đàn ông mà chị vô cùng yêu thương, và đã có chung hai mụn con gái lại nỡ lòng hành động tàn nhẫn đến như vậy. Ví thử không còn được Dan yếu thương nữa thì Grare lại có thể chấp nhận được. Chị sẽ giải thoát cho anh mà vẫn có thể ngẩng cao đầu với vẻ tự hào và sự độ lượng mà không hề cảm thấy cay đắng. Ví như Dan vật vã khổ sở trong mối quan hệ hôn nhân này, Grace cũng vui vẻ giải phóng cho anh tự do đi tìm hạnh phúc với người phụ nữ khác. Nhưng điều Grace không thể tha thứ chính là nỗi đau Dan đã chất đầy lên vai những người trong gia đình, cho những cô con gái đáng yêu của họ, đặc biệt là Kelly. Dan đã biến mất ngay sau khi Kelly và Paul báo tin mừng cho cả nhà. Trải qua bao nhiêu năm mong đợi mỏi mòn, cuối cùng Kelly cũng đã mang bầu. Dan xúc động biết bao, và Grace cũng thế. Đứa trẻ này sẽ là đứa cháu đầu tiên của họ sau ngần ấy tháng ngày chờ đợi. Kelly lúc nào cũng gần gũi với bố. Vậy mà bỗng dưng Dan biến mất, đúng vào thời khắc quan trọng trong cuộc đời con bé và khiến nó đau khổ thế này. Kelly đã khẩn này Grace hoãn lại vụ ly dị, cô cố thuyết phục mẹ rằng bố sẽ trở về trước khi bé Tyler ra đời. Rằng khi ấy, chắc chắc Dan sẽ có lý do chính đáng và sẽ giải thích ngọn ngành mọi chuyện. Nhưng Dan vẫn bặt vô âm tín, chẳng hề có tin tức gì hết, khiến Grace rơi vào trạng thái đầy rẫy nghi ngờ, băn khoăn thắc mắc và cả giận dữ điên cuồng trong những tuần liên tiếp sau đó. Khi không thể chịu đựng thêm được nữa, Grace đã thuê Roy McAfee, một cảnh sát đáng tin cậy hiện đang hành nghề thám tử tư, Roy đã lập tức tiến hành việc tìm kiếm. Anh ta tin chắc Dan phải để lại dấu vết gì đó trên các giấy tờ và anh ta đúng. Tình tiết mà Roy tìm thấy đã gây cho Grace một cứ sốc mạnh. Một năm trước, Dan mua một chiếc xe moóc và thanh toán bằng tiền mặt. Grace không hiểu Dan kiếm đâu ra số tiền này và cũng chẳng biết gì về chiếc xe đó cả. Chị chưa bao giờ nhìn thấy nó và cũng chưa hề nghe chồng đả động đến lần nào. Dan giấu giếm chiếc xe trong suốt ngần ấy tháng trời mà Grace chẳng biết gì, và bây giờ nó ở đâu chị cũng không biết. Trước những bằng chứng liên tiếp như vậy, Grace càng có lý do để củng cố nghi ngờ của mình. Chị nghi Dan đã dùng chiếc xe này lén lút trốn đi với một người đàn bà khác. Hồi cuối tháng năm, đã có người trông thấy anh ta. Grace linh cảm rằng chính chồng mình đã dàn dựng màn xuất hiện ngắn ngủi đó, như thể chế giễu, thách đố chị tìm ra anh ta. Đó là một ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời Grace. ... Mời các bạn đón đọc tập thứ hai của bộ sách Chuyện tình Vịnh Cedar: Ngày Mai Không Hẹn Trước của tác giả Debbie Macomber.