Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khi Loài Vật Lên Ngôi

Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết khôn ngoan, dí dỏm về bản chất man rợ của con người, và sa giông chỉ là một công cụ để biểu đạt cái ẩn dụ sâu sa ấy. Thuyền trưởng người Hà Lan, Đại úy Van Toch, trong một cuộc đi săn tìm ngọc trai, đã phát hiện ra những con sa giông khổng lồ, chỉ có thể được tìm thấy trên một hòn đảo gần Sumatra. Những người bản địa gọi chúng là “tapa”, hoặc "quỷ biển". Những con sa giông muốn ăn hàu nhưng chúng không thể tách vỏ được. Van Toch muốn ngọc trai nhưng rất khó khăn trong việc lặn sâu để bắt được hàu. Ngoài ra các loài động vật ăn thịt lớn như cá mập luôn là mối đe dọa với sa giông. Và chính từ đó, Van Toch đã nghĩ ra một phi vụ làm ăn, có thể xem là mấu chốt của mọi vấn đề. Vị thuyền trưởng bắt đầu cung cấp cho những con sa giông dao để chúng có thể tách hàu, và đâm cá mập. Hơn nữa, kế hoạch nhân rộng sa giông sang những vùng khác cũng bắt đầu được lan rộng. Thuyền trưởng Van Toch tìm thấy một người đầu tư tài chính, và bắt đầu từ đó những con sa giông được rao bán trên thế giới. Sa giông không chỉ thu gom ngọc trai và san hô, chúng con được thuê để làm tất cả những công việc dưới nước như xây đập, thủy điện, đê điều, kéo dài đường bờ biển... Khi Van Toch chết, công ty mang tên Salamander Syndicate đã được thành lập, và bắt đầu khai thác sa giông giống như một lực lượng lao động giá rẻ. Hàng tỷ con sa giông đã lan rộng đến tất cả các bờ biển và các quốc gia. Cuối cùng, con người và sa giông đã đi đến xung đột, để tranh giành địa bàn, tranh giành sự sống, và quyền lực. Karel Capek chính xác là một bậc thầy của thể loại hài hước đen. Ông đã biến tất cả mọi thứ âm mưu xấu xa thành một câu chuyện mang lại niềm vui thú vị. Ông chế giễu cách thủy thủ nguyền rủa sa giông, châm biếm sự thông minh, chợ đen, các doanh nhân, chủ nghĩa tư bản, Ki Tô giáo, nhà sưu tập, rượu, xu hướng và lý thuyết trong giáo dục, khai thác, một nhất thời, thời trang, chú thích, thói tham lam, đạo đức giả, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Phát xít, những người cố gắng để tiếp tục chương trình nghị sự của của chính họ. Ông chế giễu ô nhiễm, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, thói tự cao tự đại, ngụy biện, chiến tranh, những người giàu có, những câu lạc bộ phụ nữ, và đặc biệt là khoa học, những nghiên cứu, hội nghị, khám phá tranh luận dài dòng về loài sa giông.... đã khiến câu chuyện trở thành một bức tranh châm biến lý thú, vạch trần đầy đủ bộ mặt của xã hội, với một thứ văn chương sâu cay, hài hước, và thông minh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1936, “khi nó vẫn còn có thể cười vào Adolph Hitler”. Trong cuốn sách có nhiều đoạn thú vị về nước Đức. Ví dụ chi tiết  người Đức quyết định rằng con sa giông của họ là cấp trên, nhạt màu, đi bộ nhiều hơn xây dựng, và có những đặc tính vượt trội hơn hẳn sa giông ở nơi khác. Với thái độ khinh bỉ, họ mô tả những con sa giông Địa Trung Hải thoái hóa, còi cọc cả về thể chất và đạo đức, xem chúng là các con sa giông man rợ nhiệt đới, và hoàn toàn là loài sa giông cấp dưới. Khi loài vật lên ngôi hài hước, châm biếm, bất ngờ, súc tích. Với cách giới thiệu nhân vật mới, phong cách tự sự mở, trong hầu hết các chương, chỉ với một không khí châm biếm. Câu chuyện sa giông cũng có thể được xem là một câu chuyện ngụ ngôn cho những kinh nghiệm của nhiều dân tộc bị áp bức và những nạn nhân của chủ nghĩa thực dân, luôn bị yếu thế, nhưng cũng luôn có ý thức nỗ lực để được văn minh, để trở thành thành viên của xã hội da trắng châu Âu, chiếm đoạt các nghi lễ văn hóa, và tất nhiên là chế độ nô lệ. Đây là một cuốn sách, trong đó có đám đông, và cần được đọc bởi đám đông. Không có nhân vật chính trong Khi loài vật lên ngôi, thay vào đó câu chuyện được trình bày như một bài học lịch sử lâu dài mang tính giải trí. Người kể chuyện trích từ bài báo khoa học, các cuộc phỏng vấn, và những bài báo được sưu tập bởi ông Povondra. Povondra là một nhân vật khá xuyên suốt, và thú vị trong cuốn sách. Ban đầu ông cảm thấy rất tự hào rằng mình là một người có tác động to lớn quan trọng đến sự phát triển của lịch sử văn minh loài người, nhưng rồi đến cuối đời, lại chết trong nỗi ám ảnh tội lỗi về sự xuất hiện của sa giông tại dòng sông nơi quê hương mình. Capek tự hỏi mình: "Này anh, anh không thấy hối tiếc cho loài người hay sao?"  Ông tự đáp:" Lạy Chúa, hãy để tôi yên! Tôi biết làm sao bây giờ?" “Tôi nói cho anh biết: ngay cả lúc này, khi một phần năm châu Âu đã chìm dưới nước, anh có biết ai vẫn ngày đêm làm việc như điên cuồng trong các phòng thí nghiệm để cố sáng chế ra những máy móc và vật liệu phá hủy cho hiệu quả hơn không? Anh có biết ai vẫn cho sa giông vay tiền, ai đang tài trợ cho sự tận diệt thế giới này, cho trận Tân Đại Hồng Thủy hay không?” Capek hẳn có tiếc, nhưng đó là tiến trình phát triển tự nhiên của loài người. Các ông nhà văn chẳng bao giờ có thể can thiệp vào điều đó. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Khi loài vật lên ngôi dành được rất nhiều lời khen ngợi của những tác giả nổi tiếng. Nhà văn Milan Kundera từng nói “Khi loài vật lên ngôi sẽ không bao giờ rơi vào quên lãng… Čapek có lẽ là nhà văn châu Âu đầu tiên có những tác phẩm hình dung trước được viễn cảnh khủng khiếp của thế giới toàn trị.” Cuốn sách này còn là cảm hứng cho vô số tác phẩm lừng danh được xuất bản sau, có thể liệt kê ra như: 1984 hay Trại súc vật của George Orwell; hay The Sirens of Titan, Harrison Bergeron của Kurt Vonnegut… và ngay cả ý tưởng sinh sản đơn tính của khủng long trong Công viên kỷ Jurassic… Čapek được đề cử giải Nobel Văn học bảy lần, nhưng ông không bao giờ giành chiến thắng. Tuy nhiên, một số giải thưởng lại mang tên ông, như giải Karel Čapek, được trao tặng hàng năm bởi Czech PEN Club cho tác phẩm văn học góp phần củng cố và duy trì các giá trị dân chủ và nhân văn trong xã hội.  Ông cũng là một nhân vật chủ chốt trong việc tạo ra các PEN Club Tiệp Khắc là một phần của Văn Bút Quốc tế.  Phong Linh - Zing.vn *** Tôi thường được hỏi, điều gì đã thôi thúc tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”, và tại sao tôi lại chọn loài động vật lưỡng cư để làm hình tượng cho cái gọi là tiểu thuyết viễn tưởng của mình về sự diệt vong của nền văn minh loài người. Thành thực mà nói, ban đầu tôi không hề có ý định viết tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi cũng không có mối quan tâm yêu thích nào đặc biệt đối với hình thức viễn tưởng; trước khi bắt đầu viết về những con vật lưỡng cư này, thậm chí trong đầu tôi là một tiểu thuyết hoàn toàn khác. Tôi nghĩ ra hình mẫu một người tốt, hơi giống với người cha quá cố của tôi, một bác sĩ tỉnh lẻ với các bệnh nhân; đó phải là một bài ca về ngành y, và phần nào đó về bệnh lý xã hội. Tôi đã khá hứng thú với ý tưởng đã nghiền ngẫm trong đầu tuần này qua tháng khác, nhưng lại không tài nào thấu cảm hoàn toàn. Tôi hoài nghi, liệu nhân vật bác sĩ tốt bụng có thể làm gì trong cái thế giới hỗn loạn này, như bấy lâu nay. Vâng, ông ấy có thể chữa lành vết thương cho mọi người, nhưng hầu như không liên can gì đến sự bất lực và nỗi đau mà thế giới chúng ta đang chịu đựng. Tôi nghĩ về người bác sĩ tốt bụng, nhưng cả thế giới này lại đang quay cuồng với khủng hoảng kinh tế, bành trướng dân tộc và ngòi nổ chiễn tranh. Tôi không thể nào hóa thân vào nhân vật bác sĩ của mình, bởi tôi - cho dù không ai đòi hỏi điều này ở các nhà văn - vẫn luôn trăn trở một điều: Cái gì đang đe dọa thế giới loài người? Sự thật hiển nhiên là tôi không thể xoay chuyển được hiểm họa của văn minh nhân loại, nhưng ít nhất tôi không thể ngồi nhìn và không thể thôi nghĩ đến điều đó. Mùa xuân năm ngoái, thời kỳ mà kinh tế thế giới xấu đi và chính trị còn tồi tệ hơn, tôi có lần đã viết câu này: “Bạn không được phép nghĩ rằng, sự phát triển đang bùng nổ trong cuộc sống của chúng ta là cơ hội phát triển duy nhất trên hành tinh này”. Và đây rồi. Câu này là nguyên nhân khiến tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”. Điều này luôn đúng: Chúng ta không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện phù hợp, một loài sinh vật khác con người cũng có thể trở thành cái nôi của sự phát triển văn minh. Nếu xét theo con người với nền văn minh và văn hóa của mình, trong suốt lịch sử phát triển từ một loài linh trưởng, từ các bộ lạc nguyên thủy, ta có thể mường tượng một nguồn năng lượng tiến hóa tương tự có thể chi phối quá trình phát triển của các loài động vật khác. Không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện sống nhất định, ong hay kiến có thể trở thành những giống loài thượng đẳng, năng lực văn minh của chúng không thua gì chúng ta. Cũng không thể loại trừ khả năng này ở các sinh vật khác. Trong những điều kiện sinh học thuận lợi, một nền văn minh khác có thể xuất hiện, không thấp kém hơn nền văn minh của chúng ta, kể cả dưới sâu thẳm đại dương. Đấy là ý tưởng ban đầu; và ý tưởng thứ hai: Giả sử một loài động vật khác con người đạt được cái trình độ mà chúng ta gọi là nền văn minh, thì bạn nghĩ gì? Chúng cũng làm những điều vô nghĩa như loài người? Cũng châm ngòi các cuộc chiến tranh? Cũng gây ra các thảm họa lịch sử? Và chúng ta nhìn nhận thế nào về chủ nghĩa đế quốc của loài bò sát, chủ nghĩa dân tộc của loài mối, về sự bành trướng kinh tế của chim hải âu hay cá mòi? Chúng ta sẽ nói gì khi một loài động vật khác con người, với tri thức và số đông áp đảo, tuyên bố rằng chỉ có chúng mới có quyên ngự trị cả thế giới và thống soái muôn loài? Khi so sánh với lịch sử loài người, và với những gì nóng bỏng nhất vừa xảy ra, tôi buộc phải ngồi vào bàn mà viết “Khi loài vật lên ngôi”. Giới phê bình liệt nó vào tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi phản đối từ này. Đây không phải là viễn tưởng, mà là hiện thực. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Đây không phải truyện hoang đường, thứ mà tôi có thể cho không và còn tặng thêm bất cứ lúc nào, bao nhiêu tùy thích và cho bất cứ ai. Đây chính là hiện thực. Biết làm sao được, nhưng văn chương nếu không quan tâm đến thực tại và những gì thực sự xảy ra trên thế giới, nếu không có những phản ứng mạnh mẽ mà chỉ là ngôn từ và ý nghĩ sáo rỗng, thì đó không phải văn chương của tôi. Thế đấy, tôi viết về những con vật lưỡng cư vì tôi nghĩ đến loài người, tôi đã chọn một loài vật giống con sa giông làm hình tượng, không phải vì tôi thích hay không thích nó hơn những sản phẩm khác của Tạo Hóa, mà vì chuyện dấu tích của loài sa giông khổng lồ tiền sử ở Phân kỷ Đệ tam đã từng bị lầm tưởng là hóa thạch của tổ tiên loài người; do đó trong tất cả các loài vật, sa giông có vị trí lịch sử đặc biệt để có thể bước lên khán đài như là hình ảnh của chúng ta. Và nếu như có một cái cớ để có thể miêu tả những việc liên quan đến con người mà tác giả buộc lòng phải hóa thân vào những con sa giông thì đây là một trải nghiệm hơi lạnh lẽo, nhưng rốt cuộc nó cũng quyến rũ và kinh hoàng như khi hóa thân làm Nhân loại. KAREL ČAPEK (1936) Mời các bạn đón đọc Khi Loài Vật Lên Ngôi của tác giả Karel Čapek & Đăng Thư (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Lãng Du - Alain Fournier
"Kẻ lãng du" là tiểu thuyết xuất sắc về thời hoa niên. Viết về cuộc phiêu lưu không hồi kết cùng mối tình dang dở, cuốn sách của Alain Fournier khiến tuổi trẻ trở nên bất tử. Kẻ lãng du (Le Grand Meaulnes) xuất bản một năm trước Thế chiến I (1913), là tác phẩm của kẻ khổng lồ (grand) cuối cùng của chủ nghĩa lãng mạn. Đây cũng là tiểu thuyết duy nhất của Alain Fournier. Nhà văn đã tử trận từ những ngày đầu của cuộc chiến khi mới 27 tuổi. Kẻ lãng du là câu chuyện kể mang đầy tính chất ngậm ngùi hoài niệm, qua đó khắc họa chân dung Augustin Meaulnes - kẻ vừa mang hình dáng của một chàng Peter Pan tỉnh lẻ nước Pháp chối từ sự trở thành người lớn và của một Parsifal chạy đuổi theo tình yêu đến cùng cuộc đời. Thoạt đầu khi mới đến Sainte-Agathe, Meaulnes đã làm mê mẩn tất cả các bạn đồng học của mình bởi cái vẻ bề ngoài mạnh mẽ, can cường và hào hiệp. Nhưng kể từ khi tham dự vào một lễ hội lạ lùng tại lãnh địa bí mật có cô gái xinh đẹp hiện diện thì chàng thay đổi hoàn toàn từ đây.  Đứng ở vị thế cân bằng giữa lòng hâm mộ thuở thiếu thời với tâm trạng khước từ của lúc đã chín muồi cuộc đời, François Seurel, người kể chuyện đã đưa dắt độc giả vào một mê lộ cuốn hút suốt qua bức chân dung không phai nhòa của một tình bạn đã bị chia lìa và một tuổi thanh xuân đã vĩnh viễn trôi qua. *** Alain Fournier tên thật là Henri-Alban Fournier, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1886 tại miền Trung nước Pháp.  Ngay từ khi xuất hiện vào năm 1913, tác phẩm Le Grand Meaulnes đã làm dân Pháp mê mẩn bởi mối tình si lãng mạn. Theo thời gian, cuốn truyện trở thành sách phải đọc trong các trường học ở Pháp. Năm 1999 báo Pháp Le Monde đã đưa Le Grand Meaulnes vào danh sách 100 cuốn sách giá trị nhất của thế kỷ. Le Grand Meaulnes đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Chỉ riêng tiếng Anh đã có hàng chục bản dịch. Tên của các bản dịch được các dịch giả đặt lại rất khác nhau. Không những thế, người ta còn viết truyện, soạn nhạc và làm phim từ tác phẩm này. Nhiều tác giả nổi tiếng của Hoa Kỳ cũng hâm mộ Alain-Fournier và mối tình của Le Grand Meaulnes. Jack Kerouac cho nhân vật Sal Paradise của ông cầm cuốn truyện Pháp rong chơi khắp xứ. Nhà văn F.Scott Fitzgerald thì mượn ngay tên truyện thành “The Great Gatsby” và cũng dùng kỹ thuật kể chuyện của một vai phụ trong tác phẩm. Mời các bạn đón đọc Kẻ Lãng Du của tác giả Alain Fournier.
Để Em Khỏi Lạc Trong Khu Phố - Patrick Modiano
Luôn né tránh quá khứ bởi sợ “nỗi u sầu sẽ lan truyền qua tháng năm tựa như lần theo một dây cháy chậm”, Jean Daragane bỗng bị thời xa xăm đớp ngoạm lấy vì một cái tên. Cái tên ấy hút lấy ông, đưa ông trở về với Paris những năm 1950, 1960, để lần theo dấu vết gần như đã bị xóa sạch của một người phụ nữ mang tên Annie Astrand. Cùng Daragane bước vào cuộc lần tìm ấy, độc giả bị cuốn đi tới các cánh cửa của thời gian mà không sao dứt ra được, để rồi khi kết thúc, chỉ kịp nhận ra trên tay mình là một cuốn tiểu thuyết trọn vẹn đến hoàn hảo, đôi khi khiến ta đau xé ruột, một cuốn tiểu thuyết suy cho cùng rất có thể chỉ là một cuốn truyện tình. *** Patrick Modiano (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1945 ở ngoại ô thủ đô Paris, nước Pháp) là một nhà văn Pháp. Ông có gần 30 tác phẩm, trong đó có tác phẩm mới nhất là tiểu thuyết “Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier”. Hai tác phẩm của ông đã được chuyển thành phim, theo Reuters. Năm 2014, ông được trao Giải Nobel Văn chương. Trước đó ông từng đoạt giải Nhà nước Áo về Văn học châu Âu vào năm 2012 và Prix Mondial Cino Del Duca từ Institut de France cho thành tựu trọn đời của ông trong năm 2010. Những sách của ông lập đi lập lại tập trung vào những đề tài như: ký ức, sự quên lãng, sự nhận dạng và tội lỗi, liên hệ tới thời kỳ Nazi chiếm đóng Pháp trong chiến tranh thế giới thứ II. Peter Englund, bí thư thường trực của học viện Nobel, nói "lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ --- nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó. Một số tác phẩm của tác giả Patrick Modiano được dịch và xuất bản tại Việt nam: Phố Những Cửa Hiệu U Tối Quảng Trường Ngôi Sao Ở Quán Cà Phê Tuổi Trẻ Lạc Lối Từ Thăm Thẳm Lãng Quên Catherine Cô Bé Đeo Mắt Kính Một Gánh Xiếc Qua ... Mời các bạn đón đọc Để Em Khỏi Lạc Trong Khu Phố của tác giả Patrick Modiano.
Hania - Tình Yêu Của Tôi, Nỗi Buồn Của Tôi - Henryk Sienkiewicz
Một câu chuyện tình yêu, những rung cảm đầu đời và nỗi buồn được kể một cách giản dị và tinh tế với ngôn ngữ biểu cảm, đầy nhịp điệu. Hania, cô gái nhỏ mồ côi hiện diện như một trái tim trong trắng, cao thượng và trở thành hồi ức có sức sống lạ lùng về một tình yêu mang vẻ đẹp lí tưởng, một tình yêu nâng con người lên cao hơn những ích kỉ trần thế. Câu chuyện của thời đại cách đây hai thế kỉ vẫn minh chứng cho khát vọng tình yêu vượt qua mọi biên giới, phân chia giai cấp, giàu nghèo… Và ở nơi tình yêu thực sự, con người luôn hướng tới cái đẹp và tình yêu cao cả. *** Henryk Sienkiewicz là người Ba Lan đầu tiên được trao giải Nobel Văn học (năm 1905). Ông sinh ngày 05-05-1846 trong gia đình một chủ đất đang trên đà sa sút tại làng Wola Okrzeska, Lukowiec, Podlasie. Những năm thơ ấu nhà văn từng sống ở làng quê, do đó ông đã có dịp quan sát đời sống nông thôn Ba Lan để sau này đưa vào trang viết của mình một cách hết sức ấn tượng. Bắt đầu từ năm lên chín tuổi, Henryk Sienkiewicz chuyển tới thủ đô Warszawa học tập và sinh sống. Ông từng là sinh viên Luật, sau chuyển sang khoa Ngôn ngữ - Lịch sử (1866 - 1871), từ 1882 đến 1887 là phóng viên báo, đã từng được cử sang Mĩ và một số nước Tây Âu làm việc. Nhà văn bắt đầu sự nghiệp văn chương từ những năm còn là sinh viên đại học và sớm nổi tiếng với các bài phê bình văn học, các tiểu phẩm về những vấn đề đương đại và cuối cùng là các bộ tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn với nhiều đề tài khác nhau. Henryk Sienkiewicz là nhà văn đi đầu với các sáng tác văn học yêu nước, là bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ, có đóng góp to lớn trong việc quảng bá văn học, đặc biệt là tiểu thuyết Ba Lan ra thế giới. Từ 1883 đến 1888, ông đã cho ra đời ba tiểu thuyết lịch sử lớn là Bằng lửa và bằng gươm, Trận hồng thủy và Ngài Wolodyjowski, kết hợp chủ nghĩa lãng mạn, sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật, đưa tiểu thuyết Ba Lan lên tầm cỡ thẩm mĩ chưa từng có trong giai đoạn đó. Về sau ông lần lượt cho ra đời hai tiểu thuyết lịch sử đồ sộ khác là Quo vadis và Hiệp sĩ Thập Tự. Toàn bộ các tiểu thuyết lịch sử của Henryk Sienkiewicz không những hết sức nổi tiếng ở Ba Lan mà còn là của báu trong kho tàng văn học thế giới, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và truyền bá rộng rãi khắp các châu lục. Một số tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt như tiểu thuyết lịch sử Quo vadis, Bằng lửa và bằng gươm. Tác phẩm Ngài Wolodyjowski được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi ở nhiều nước. Nhà văn mất ngày 15-11-1916 tại Vevey, Thụy Sĩ và ngày 27-10-1924 hộp tro thi hài được làm lễ an táng tại Nhà thờ Thánh Jan ở Warszawa. Tác phẩm mà chúng tôi chọn dịch lần này dựa theo nguyên bản tiếng Ba Lan mà NXB GLOB Szczecin tái bản năm 1986 dưới nhan đề: STARY SLUGA, HANIA. Đây không phải tiểu thuyết lịch sử mà là tiểu thuyết về đề tài tình bạn, tình yêu và cuộc sống của giới quý tộc Ba Lan ở thế kỉ XIX. Tôi bị những trang sách cuốn hút ngay khi mới đọc, và đặc biệt xúc động khi thấy các nhân vật trong truyện cũng có những rung động giống với lớp thanh niên Việt Nam chúng tôi ở thế kỉ XX làm sao! Mặc dù biết tác phẩm này đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam, nhưng vì mối đồng cảm đó, tôi quyết định cứ dịch và công bố nó, bởi nghĩ như vậy độc giả càng có dịp được thưởng thức, thậm chí có thể so sánh, đánh giá và góp ý cho các dịch giả. Warszawa, mùa đông năm 2009 • Người dịch Mời các bạn đón đọc Hania - Tình Yêu Của Tôi, Nỗi Buồn Của Tôi của tác giả Henryk Sienkiewicz.
Ai Rồi Cũng Chết! - Atul Gawande
Thông qua tác phẩm, bác sĩ Atul Gawande giúp người đọc nhìn nhận thực tế về sự hữu hạn của bản thân và trách nhiệm sống tốt để không hối tiếc vì hoài phí tuổi xuân. Tác phẩm best-seller Ai rồi cũng chết! được viết bởi Atul Gawande, một bác sĩ phẫu thuật đã dành nhiều năm cuộc đời mình để nghiên cứu và làm sáng tỏ những giới hạn của y học. Kể từ cuốn sách đầu tiên đạt giải thưởng sách quốc gia Phức thể, bác sĩ Gawande nỗ lực dùng ngòi bút của mình để truyền đạt đến với độc giả thông điệp "Dù cho các công nghệ y khoa và chữa bệnh có tân tiến đến đâu, bác sĩ vẫn chỉ là con người và là con người, tất cả đều hữu hạn". Đến tác phẩm Ai rồi cũng chết!, ông đã mạnh dạn động chạm đến chủ đề có sức nặng này. Giữa một thế giới hiện đại tôn thờ tuổi trẻ và vật chất công nghệ, nơi quá nhiều người tin rằng mình còn có thể sống rất lâu, các công nghệ y học sẽ giúp chúng ta trường thọ, không mấy ai sẵn sàng đối diện với sự thật: tuổi xuân sẽ nhanh chóng qua đi, cơ thể rồi sẽ sa sút bệnh tật, sẽ mất đi khả năng làm được những điều mình thích và cuối cùng cái chết sẽ đến.  *** Ai rồi cũng chết! là một tuyệt phẩm đánh động lòng người được viết nên bởi bác sĩ kiêm tác giả best-seller Atul Gawande. Cuốn sách không chỉ có khả năng lay chuyển ngành y học hiện đại, mà nó còn sẽ giúp làm biến đổi hoàn toàn cuộc sống của muôn người - bao gồm chính bạn! Ngành y học thế giới đã có nhiều bước phát triển vượt bậc trong những năm qua: giảm thiểu tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, nâng cao tỉ lệ sống sót sau chấn thương, chữa trị và kiểm soát được nhiều loại bệnh tật - kể cả nhiều căn bệnh từng được xem là không có thuốc chữa trong quá khứ. Nhưng dù có bành trướng hùng mạnh đến đâu, y học vẫn muôn đời bất lực trước quy luật sinh-lão-bệnh-tử bất biến của con người: Mỗi khi con người phải đối diện với Tuổi Già và Cái Chết, những công cụ y học vốn dĩ quyền năng bỗng chốc phản bội lại chính lý tưởng cứu nhân độ thế mà chúng đang phục vụ. Bằng những công trình nghiên cứu khoa học giá trị và những câu chuyện sống động từ các bệnh nhân và người thân của chính mình, bác sĩ Gawande bóc trần cho chúng ta thấy những hệ lụy và nỗi đau mà con người phải gánh chịu bởi nghịch lý trên. Viện dưỡng lão vốn dĩ được lập ra với mục đích ban đầu tốt đẹp là giúp cho người cao tuổi có một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn bất chấp tuổi già, nhưng nhiều nhà dưỡng lão ngày nay bị biến tướng thành những tòa nhà khép kín không khác gì nhà tù, nơi mà người già không được phép ăn những món ăn họ thích và không được phép làm những gì mình muốn. Nhiều bác sĩ được đào tạo xuất sắc về mặt chuyên môn, nhưng lại không biết cách làm thế nào để nói cho bệnh nhân biết sự thật về bệnh tình của họ; thay vào đó, bác sĩ lại vin vào những hy vọng hão huyền về khả năng cứu sống người bệnh của y học và đề xuất cho bệnh nhân hàng loạt biện pháp chữa trị để nuôi những hy vọng hão đó. Rốt cuộc, hành động này chỉ khiến cho người bệnh và cả thân nhân của họ thêm hao mòn khổ sở chứ không hề mang lại ích lợi gì cho họ cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. *** Atul Gawande là tác giả của các cuốn sách: Ai rồi cũng chết,  Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. Mời các bạn đón đọc Ai Rồi Cũng Chết! của tác giả Atul Gawande.