Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hạt Cơ Bản

Cuốn tiểu thuyết dữ dội phê phán xã hội phương Tây hiện nay, cũng như những năm 60, 70 của thế kỷ trước; nhà văn còn cực đoan đến mức muốn xóa bỏ cái xã hội đầy rẫy cái xấu xa và tệ nạn ấy. Hai nhân vật chính, Bruno Clément và Michel Djerzinski, đều sống với bà và đều học ở trường trung học ở Meaux. Houellebecq đã rút tỉa các sự kiện từ chính cuộc đời mình; theo một cách nào đó ông đã tự phân tích mình, cuộc tiểu phẫu đó là tiền đề cho cuộc đại phẫu áp dụng cho xã hội, mà ông đã tiến hành một cách xuất sắc trong Hạt cơ bản. Con dao mổ của Houellebecq sắc nhọn, nó bới tung từng ngóc ngách của con người và xã hội, nỗi khốn khổ hiện đại bị lột trần. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước đó, nó đã gây đau đớn cho chính ông. Ở Pháp, Hạt cơ bản rất ăn khách. Năm 1998, việc Houellebecq “trượt” giải Goncourt làm người ta nhớ lại năm 1932 kiệt tác “Hành trình đến tận cùng đêm tối” của Céline cũng để tuột giải này về tay nhà văn Guy Mazeline. Hạt cơ bản chỉ giành giải Novembre. Hạt cơ bản mở đầu bằng việc nhà khoa học Michel Djerzinski xin nghỉ làm tại Trung tâm Khoa học Quốc gia sau 15 năm làm việc tại đây, lấy lý do là để dành thời gian suy nghĩ. Trên thực tế anh sẽ tiến hành những nghiên cứu mang ý nghĩa lớn cho toàn bộ loài người. Tiếp đó câu chuyện quay về những năm tháng tuổi thơ của hai anh em Michel và Bruno, xen lẫn với cuộc sống sau này của họ. Ở Bruno khía cạnh nổi bật là ham mê tình dục đến mù quáng, còn Michel lại hoàn toàn ngược lại: anh là con người của lý trí, dịu dàng và luôn hướng tới một đạo đức theo lối của triết gia Kant. Câu hỏi lớn của Michel là hạnh phúc có tồn tại thật không, và phải giải quyết mối tương quan giữa đàn ông và đàn bà như thế nào. Hai anh em (cùng mẹ khác cha) chỉ giống nhau ở điểm cả hai cùng cô độc, từ bé đến lớn không có chỗ dựa nào khác ngoài những bà nội bà ngoại già nua. Số phận họ bị kết án không thể hạnh phúc, dù đã có lúc bên cạnh Bruno có Christiane dịu dàng và tinh tế, Michel có Annabelle kiều diễm. Sự bi thảm nằm ở từng câu chữ của tiểu thuyết, và trong từng sự kiện nhỏ nhặt nhất của cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Bruno và Michel sống bên lề của những biến chuyển xã hội phương Tây, họ không phải hippie, không phải rock star, mà chỉ là những con người cô đơn, luôn thấy cuộc sống nhàm chán, trống rỗng và đáng căm ghét. Cùng với sự xuống dốc cuộc đời của họ là sự xuống dốc không phanh của phương Tây, rơi tõm vào cơn cuồng loạn của chủ nghĩa tiêu dùng, sự đi xuống của cái gọi là Đức tin, sự đe dọa của nhân bản vô tính, tính hủy diệt của các giá trị tự do, trong đó có vai trò không nhỏ của phong trào giải phóng tình dục những năm 60; tất cả những cái đó, theo Houellebecq sẽ hủy diệt loài người như một quả bom hạt nhân (Chính vì thế mà ông đặt tên tác phẩm của mình là Hạt cơ bản). Theo nhiều nhà phê bình Pháp, kể từ Con quái vật (Roi des Aulnes) của Michel Tournier năm 1970 đến nay chưa có tiểu thuyết Pháp nào chứa đựng nhiều ý tưởng như tác phẩm của Houellebecq. Cả hai tác phẩm đều có tham vọng giải quyết các vấn đề to lớn của toàn nhân loại,Tournier bằng con đường tôn giáo còn Houellebecq bằng con đường khoa học. Đọc Hạt cơ bản, cũng là một cách ngược dòng thời gian trở về những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở phương Tây, khi mà tinh thần “tháng năm năm sáu tám”, tinh thần giải phóng tình dục như lý giải cho một sự bế tắc, trống rỗng, hỗn mang đến kinh hoàng, con người cá nhân đã phơi bày một cách tự do và thảm hại với tất cả các cấp độ, khi ấy chúng ta sẽ thật sự chia sẻ và dễ dàng tiếp xúc với những ý tưởng dồi dào gợi ra từ tác phẩm này, dẫu vẫn thấy có những khác biệt không nhỏ về cách tiếp thu, nhìn nhận giữa Đông - Tây. Các-Mac từng có một cách ngôn nổi tiếng: Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi. Trên tinh thần này chúng ta có thể cắt nghĩa thêm vì sao Hạt cơ bản được bạn đọc ở nhiều quốc gia quan tâm, chào đón, và thực sự trở thành một hiện tượng trên văn đàn thế giới những năm gần đây. Phải chăng bi kịch cá nhân vẫn đang hiện hữu ở nhiều nơi trên trái đất này?  *** Cư dân mạng từ lâu đã xôn xao bàn tán về Hạt cơ bản. Càng bàn nhiều hơn khi bản tiếng Việt của dịch giả trẻ Cao Việt Dũng được truyền rộng rãi trong những người mê sách. Cái tên đầy mùi vị khoa học không cản được sự háo hức của những “kẻ nghiện sách” trước một tên tuổi lớn: Michel Houellebecq. Và khi Hạt cơ bản được chính thức phát hành, một cảm giác “cầm thật nặng tay và đọc lại thật đã” khiến nhà thơ Nguyễn Chí Hoan rất muốn chia sẻ với bạn đọc. - Đừng sợ, tôi rất muốn nói với mọi người như vậy. Cái tên sách khô khan, những “mặc cảm” về thứ văn chương hậu hiện đại khó đọc, khó vào, những lý thuyết về hạt cơ bản được đưa vào tiểu thuyết một cách dày đặc và có hệ thống mà ngay cả dân làm khoa học cũng đôi lúc cảm thấy khó hiểu... tất cả chỉ làm cho Hạt cơ bản hấp dẫn hơn nếu ta cứ đọc nó một cách bình thản, đầu tiên chỉ là để “đọc lấy chuyện” thôi đã. Câu chuyện của hai anh em cùng mẹ khác cha, Bruno và Michel, một kẻ đam mê tình dục đến mù quáng, một người dịu dàng và luôn hướng tới lối sống đạo đức (đạo đức theo triết lý của riêng mình - một nhà khoa học cô đơn đi trước thời đại) thật sự là rất hấp dẫn. Tuổi thơ của họ, khoảnh khắc dậy thì của họ, phút yêu đương đầu tiên của họ, nỗi buồn của họ, những người đàn bà của mỗi người... đủ tạo thành một câu chuyện nhiều cung bậc và không thể làm người ta chán. * Nhưng thưa anh, cảm giác mệt mỏi khi trải qua những trường đoạn liên tiếp mô tả các trạng thái tình dục (nhất là của Bruno) là không thể tránh khỏi, kể cả với những người đọc “cứng bóng vía” nhất? - Đúng. Mệt mỏi và chán nản. Đó chính là ý đồ của tác giả. Ông ta đã cố tình miêu tả tình dục như thế. Ông ta muốn độc giả nhìn như thế về cuộc cách mạng tình dục những năm 1960 - 1970 ở phương Tây. Ông đã làm cho nó trở nên lạnh lẽo, thô kệch, thậm chí nhem nhuốc, không còn chút gì là hấp dẫn. Đúng như Michel Djerzinski -nhân vật chính - đã nói : “Tình dục đã trở nên thảm hại”. Nó cũng không còn đơn thuần là chuyện mỉa mai chua chát về cuộc cách mạng tình dục 1968, mà tràn ngập một ý tưởng chủ đạo: nền văn minh phương Tây xuống dốc từ cách mạng tình dục mà cứ tưởng mình đang làm cách mạng giải phóng con người cá nhân. Với hình tượng Bruno và tất cả những cái gọi là trạng thái tình dục mà anh ta trải qua, Houellebecq chỉ ra sự trống rỗng bế tắc trong việc thỏa mãn tình dục một cách quá đáng, ông đã hạ bệ tình dục như một huyền thoại cuối cùng của lối sống phương Tây. * Có gì hơn nữa ngoài sự phê phán và mỉa mai tình dục, thưa anh? Cái mà người ta nói là làm nên “tầm vóc lớn” của Michel Houellebecq? - Đó là giấc mơ về sự sáng tạo ra một “nhân loại” mới. Nhà khoa học dịu dàng Michel Djerzinski đã luôn mơ ước tạo ra được giống người mới, giống người khao khát tình yêu và không còn cô đơn. Và ở thì tương lai, năm 2029, anh và những đồng sự có chung hoài bão của mình đã thành công, dù lúc đó Michel đã chết được 20 năm. Hạt cơ bản do vậy cũng là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầy chất thơ. Bài thơ ấy dù trúc trắc gập ghềnh vẫn là những lời ca tuyệt diệu về hành tinh cô đơn mà chúng ta đang sống. Những trang tả giấc mơ của Michel là những trang đẹp nhất trong cuốn sách, nó đẹp đến ứa nước mắt. Không phải ngẫu nhiên mà khi kết thúc tác phẩm, nhà văn đã “đứng hẳn sang một bên” để tự bạch: “Tham vọng lớn nhất của quyển sách này là vinh danh cái giống loài bất hạnh và can đảm đã tạo ra chúng ta. Loài người khổ đau và xấu xí đó, chỉ hơi khác con khỉ một chút, dù sao cũng mang trong mình rất nhiều đặc điểm cao quí. Cái giống loài bị hành hạ, mâu thuẫn, cá nhân chủ nghĩa và hiếu chiến đó, với tính ích kỷ vô hạn, đôi khi có khả năng bùng nổ bạo lực kinh người, lại không ngừng tin vào lòng tốt và tình yêu”. THU HÀ review *** Hạt cơ bản (1998) là tiểu thuyết đưa nhà văn Pháp Michel Houellebecq trở thành một trong những gương mặt nổi bật của văn học Pháp trong mười năm trở lại đây. Với lối viết thô thẳng và gay gắt, cuốn sách táo tợn này đã làm rung chuyển cả thế giới văn chương. Sinh năm 1958, Michel Houellebecq thuộc thế hệ phải đối đầu với những sợ hãi mà cuộc sống hiện đại và sự cô đơn nhân bản mang đến. Những chủ đề gây tranh cãi cùng với nỗi ám ảnh phải giải thích và đặt tên cho chúng chính là điều làm cho tiểu thuyết được biết đến như một cuốn sách của quỷ dữ. Muốn quẳng đi song lại bị cuốn hút, độc giả càng bất ngờ với cách giải quyết mà tác giả đưa ra bằng thứ ngôn từ cay độc: loài người biến mất, nhường chỗ cho một giống loài mới. Nhân dịp cuốn Hạt cơ bản của Michel Houellebecq vừa được dịch sang tiếng Việt, L’Espace tổ chức buổi hội thảo giới thiệu tác phẩm, với sự tham gia của Dương Tường, nhà phê bình văn học, Nicolas Stedman, dịch giả và Cao Việt Dũng, người dịch cuốn tiểu thuyết sang tiếng Việt. HÀ THÀNH Review *** Ngày mồng Một tháng Bảy năm 1998 rơi đúng vào thứ Tư. Cho nên cũng lô gích, dù quả có hơi khác thường, khi Djerzinski tổ chức bữa tiệc tạm biệt vào buổi tối thứ Ba. Chiếc tủ lạnh hiệu Brandt xếp đầy những chai sâm banh đặt giữa đám túi phôi đông lạnh; nó hơi oằn xuống dưới sức nặng của đống chai; thường nó được dùng để bảo quản các sản phẩm hóa học thông thường. Bốn chai cho mười lăm người, quá ít ỏi. Nhưng toàn bộ bữa tiệc cũng thật giả tạo: động lực tập hợp họ ngồi lại với nhau rất hời hợt; một câu nói vụng về, một cái nhìn liếc xéo là đủ để nhóm người giải tán, mỗi người vội vã đi ra xe của mình. Họ đang ở dưới tầng hầm, trong một căn phòng có máy lạnh, tường lát đá hoa ca rô trắng và treo một bức ảnh lớn chụp vài cái hồ ở Ðức. Không ai đề nghị chụp ảnh. Một nghiên cứu viên trẻ mới đến hồi đầu năm, rậm râu và trông khá ngu xuẩn, sau vài phút đã cáo từ, viện lý do phải đi sửa xe. Một nỗi bồn chồn ngày càng rõ rệt dần xâm chiếm những người khách - đã sắp đến kỳ nghỉ hè. Vài người sẽ đến nhà người thân nghỉ ngơi, một số khác sẽ đi du lịch sinh thái. Những câu nói chầm chậm rơi lộp độp trong bầu không khí. Họ nhanh chóng chia tay nhau. Mười chín giờ ba mươi, bữa tiệc kết thúc. Djerzinski đi cắt ngang bãi để xe cùng với một đồng nghiệp nữ tóc đen dài, da rất trắng, bộ ngực đồ sộ. Cô nhiều tuổi hơn anh một chút; gần như chắc chắn cô sẽ thay anh đứng đầu tổ nghiên cứu. Phần lớn các bài viết của cô xoay quanh gen DAF3 của ruồi giấm; cô còn độc thân. Ðứng trước chiếc Toyota của mình, anh mỉm cười chìa tay ra (mấy giây trước đó anh đã nghĩ mình sẽ làm động tác này, đi kèm với một nụ cười, anh đã chuẩn bị trong đầu như thế). Hai bàn tay nắm lấy nhau và khẽ lắc lắc. Một lúc sau anh nghĩ là cái bắt tay đó hơi thiếu độ nồng ấm; nhẽ ra họ cần phải ôm hôn như các ông bộ trưởng hay vài ca sĩ nhạc nhẹ vẫn thường làm. Nói xong lời tạm biệt, anh ngồi trong xe năm phút, năm phút thật dài. Tại sao cô không nổ máy? Cô đang vừa nghe Brahms [1] vừa thủ dâm chăng? Hay cô đang nghĩ đến sự nghiệp của mình, đến những quyền lực cao hơn sắp sửa có, cô có sung sướng với chúng không? Cuối cùng, chiếc Golf của cô chuyên gia về gen rời khỏi bãi đỗ xe; anh lại trơ trọi một mình. Ngày hôm nay thật đẹp, trời vẫn còn nóng. Trong những tuần đầu tiên của mùa hè này, tất cả dường như cố định trong một sự bất động tuyệt vời; tuy nhiên Djerzinski cũng hiểu rằng ngày đang ngắn dần lại. Anh làm việc trong một môi trường thuận lợi, anh nghĩ trong lúc nổ máy xe. Với câu hỏi: “Làm việc ở Palaiseau bạn có cảm thấy được hưởng một môi trường nhiều ưu đãi không?”, 63% người trả lời: “Có”. Ðiều này cũng dễ hiểu: các tòa nhà không cao lắm, nằm xen kẽ giữa những bãi cỏ. Có nhiều siêu thị lớn, mua bán rất dễ dàng; khái niệm chất lượng cuộc sống có vẻ rất phù hợp ở trường hợp Palaiseau này. Ðường cao tốc Nam Paris vắng tanh không một bóng người. Anh có cảm giác đang ở trong một bộ phim khoa học viễn tưởng New Zealand mà anh đã xem hồi còn là sinh viên: anh đang là người cuối cùng của Trái Ðất sau khi toàn bộ sự sống đã biến mất. Ðiều gì đó trong bầu không khí gợi lên một sự tận thế khô khốc. Djerzinski sống ở phố Frémicourt từ khoảng mười năm nay; anh đã quen với khu phố yên tĩnh này. Năm 1993, anh cảm thấy cần có bầu có bạn, một ai đó chờ đón anh vào mỗi tối khi anh trở về. Anh đã chọn một con chim bạch yến, một con chim rất hay sợ hãi. Nó hay hót, nhất là vào buổi sáng nhưng dường như nó không được vui; nhưng một con chim yến liệu có thể cảm thấy vui? Niềm vui là một cảm xúc dày đặc và sâu sắc, một thứ tình cảm tràn trề phấn khích chỉ ý thức trọn vẹn mới cảm thấy được; người ta có thể ví nó với sự say sưa, sự hân hoan, sự phấn khích. Một hôm, anh thả con chim ra khỏi lồng. Sợ quá, nó ỉa xuống đi văng và lao vào chấn song để tìm lối ra. Một tháng sau, nó lặp lại ý đồ đó. Lần này nó bị ngã khỏi cửa sổ. Yếu đi ít nhiều vì cú ngã, con chim đành đậu xuống ban công một căn hộ thấp hơn năm tầng của tòa nhà đối diện. Michel phải đợi nữ chủ nhân về, sốt ruột vì sợ cô ta có nuôi mèo. Sau đó anh biết cô gái là biên tập viên ở tạp chí Tuổi 20, cô sống một mình và về nhà rất muộn. Cô không nuôi mèo. Ðêm xuống, Michel lấy lại được con chim đang run lên vì đói và lạnh, lẩy bẩy dựa vào thành ban công bằng bê tông. Nhiều lần, chủ yếu khi đi đổ rác, anh gặp lại cô biên tập viên. Cô gật đầu, có lẽ để tỏ cho anh thấy là cô nhận ra anh; anh cũng gật đầu chào lại. Tóm lại, sự cố đã cho phép anh thiết lập một mối quan hệ hàng xóm. Xét về mặt đó, sự cố là tốt. Nhìn qua cửa sổ nhà anh có thể nhìn thấy khoảng chục tòa nhà, tương đương khoảng ba trăm căn hộ. Thường thì khi buổi tối trở về, con chim yến sẽ làm toáng lên và hót líu lo trong khoảng năm hoặc mười phút. Rồi anh thay thức ăn, nước và rơm độn trong lồng. Nhưng tối đó, đón chờ anh là sự yên lặng. Anh lại gần cái lồng: con chim đã chết. Cơ thể nhỏ bé màu trắng của nó đã lạnh ngắt giữa đám rơm và sỏi. Bữa tối của anh là một hộp cá biển trộn rau mua ở siêu thị Monoprix Gourmet, kèm với một chai rượu Valdepenas loại rẻ tiền. Sau một hồi lưỡng lự anh đặt xác con chim vào một cái túi ni lông rồi ném tất cả vào ống đổ rác. Còn làm thế nào khác được bây giờ? Làm một lễ mi-xa chăng? Anh chưa bao giờ biết cái ống đổ rác với cái miệng bé xíu (nhưng đủ để chứa xác một con chim yến) đó dẫn đến đâu. Anh mơ thấy những thùng rác khổng lồ, đầy những phin cà phê, tim xắm ăn liền tưới nước sốt và bộ phận sinh dục bị chặt ra. Những con sâu to đùng, to bằng con chim, vũ trang bằng cái mỏ, sẽ tấn công cái xác chết. Chúng sẽ vặt chân của nó, xâu xé nội tạng của nó, ngấu nghiến hai con mắt của nó. Anh ngồi bật dậy giữa đêm, run rẩy; mới một giờ rưỡi. Anh nuốt chửng ba viên Xanax. Ðó là cách anh kết thúc ngày đầu tiên tự do của mình. Mời các bạn đón đọc Hạt Cơ Bản của tác giả Michel Houellebecq.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phi Trường
Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.
Người Giỏi Không Phải Người Làm Tất Cả
Nghệ thuật quản lý mang lại hiệu quả cao nhất cho tổ chức của bạn Đã bao giờ bạn gặp phải những tình huống này chưa? 1. Bạn thường cảm thấy kiệt sức hay “bội thực” vì “núi” hồ sơ trên bàn làm việc của mình. 2. Bạn thường cảm thấy mình không hoàn thành tốt công việc dù đã cố gắng hết sức. 3. Công việc của bạn ngày càng thêm chồng chất, dù bạn đã bị “quá tải”. 4. Sếp bảo bạn nên chia bớt việc cho người khác. 5. Bạn không có thời gian để đào tạo hay chỉ dẫn nhân viên. 6. Bạn thường bỏ qua các cơ hội công nhận hay chúc mừng thành công của nhân viên. 7. Bạn lo lắng khi phải giao trách nhiệm cho nhân viên trực tiếp dưới quyền vì không tin họ có thể xử lý tốt công việc như bạn. 8. Bạn vẫn cho rằng “Thà tôi tự làm còn dễ hơn”. *** Suốt mười lăm năm qua, nhờ làm công việc huấn luyện và đào tạo các nhà quản lý, nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực của bản thân, tôi có dịp được gặp gỡ với những người đến từ nhiều ngành nghề khác nhau, nhu cầu và mục tiêu của mỗi người cũng rất khác nhau. Họ mong muốn tìm ra giải pháp cho những khó khăn mà họ (hay tổ chức của họ) đang gặp phải. Như các bạn cũng biết, những vấn đề của các tổ chức thường rất đa dạng và phong phú - thế nhưng điều mà tôi thường gặp nhất đó là họ chưa được trang bị các kỹ năng giao việc cần thiết - một trong những yếu tố không thể thiếu của một nhà quản lý hiệu quả.  Họ gặp tôi vì bản thân họ đang đứng trước những mối bận tâm khác nhau: có người cảm thấy kiệt sức vì công việc, có người lại muốn tìm cách ứng phó với những nhân viên khó bảo. Và tôi nhận ra rằng, mặc dù "triệu chứng" khó khăn của mỗi người là rất khác nhau, thế nhưng tất cả họ đều đang cần đến một "loại thuốc điều trị": đó là cách ủy thác công việc sao cho quy trình tổng thể được hiệu quả hơn.  Bất kỳ học viên nào từng tham gia khóa học của tôi cũng đều cảm thấy bớt căng thẳng hơn trước. Họ rất phấn khởi và hào hứng đón nhận những kinh nghiệm mà tôi đã chia sẻ qua những buổi nói chuyện. Và điều làm tôi ngạc nhiên nhất chính là phản ứng của rất nhiều học viên sau khi được học những bước đơn giản trong nghệ thuật ủy quyền. Họ nói: "Giá như tôi biết điều này sớm hơn!"; "Những triết lý hữu ích này sẽ làm thay đổi cả cuộc đời tôi!" hay "Tại sao người ta không dạy những điều này trong chương trình thạc sĩ nhỉ!" Nhưng câu nói mà tôi thường nghe nhất là: "Chắc chắn mọi nhà quản lý sẽ gặt hái được rất nhiều điều bổ ích từ những triết lý đơn giản này. Thật là tuyệt vời, bà nên tập họp chúng lại và viết thành sách!". Và tôi đã nghe theo lời khuyên của họ.  Vì bản thân cũng là một nhà quản lý, tôi hiểu mình nên viết một quyển sách thật ngắn gọn và súc tích, sao cho ngay khi đọc xong là độc giả có thể ứng dụng ngay những gì đã đọc vào thực tế để tạo nên những thay đổi tích cực trong công việc của họ. Đó phải là một quyển sách thật đơn giản, thực tế và có thể làm thay đổi cuộc sống của người đọc.  Dù bạn là người ủy thác hay được ủy thác công việc, nhưng nếu biết ứng dụng sáu nguyên tắc này, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy khối lượng công việc giảm đi đáng kể, nhờ vậy bạn sẽ có thêm nhiều thời gian để tập trung vào những điều thật sự quan trọng trong công việc và trong cuộc sống.  Biết cách ủy thác công việc hiệu quả, bạn sẽ có thể:  • Tăng hiệu quả công việc  • Tự tin hơn trong công việc  • Giảm thiểu các sai sót  • Cải thiện mối quan hệ với đồng nghiệp  • Có cơ hội nâng cao năng lực  • Thêm thời gian huấn luyện cho nhân viên cấp dưới  • Xây dựng tốt tinh thần làm việc tập thể  • Nâng cao tinh thần làm việc của nhân viên  • Giảm áp lực công việc  • Đảm bảo đạt được những kết quả mong muốn  • Hoàn thành công việc đúng thời hạn  • Tìm được bí quyết giúp tái tạo năng lượng và đam mê trong công việc  • Thay đổi cuộc sống bản thân  Chúc bạn tìm thấy nhiều điều bổ ích từ quyển sách này!  - Donna M. Genett    *** Tiến sĩ tâm lý học Donna M. Genett là một chuyên gia tư vấn về vấn đề phát triển tổ chức,  đồng thời còn là chủ tịch của công ty GenCorp Consulting - một công ty tư vấn hoạt động trên toàn nước Mỹ. Mười sáu năm qua, bà đã không ngừng cống hiến để tạo nên những ảnh hưởng tích cực cho các tổ chức và sự nghiệp của các nhân viên thuộc những tổ chức đó.  Trong quá trình công tác, bà tập trung nghiên cứu những phương pháp giúp cải thiện hiệu quả làm việc, tăng năng suất và khả năng sinh lợi của một tổ chức. Những lĩnh vực chuyên môn của bà bao gồm huấn luyện quản lý cho cấp điều hành; tăng cường hiệu quả hoạt động của nhóm; sắp xếp và tổ chức cơ cấu hoạt động, cải tiến quy trình làm việc; hoạch định chiến lược và tiến trình hoạt động; đào tạo và phát triển con người.  Những buổi nói chuyện, hội thảo sinh động của tiến sĩ Genett về nghệ thuật lãnh đạo, ủy thác công việc, quản lý hiệu quả và xây dựng đội ngũ làm việc vừa thú vị vừa mang lại hiệu quả cao.  Khách hàng của bà bao gồm những công ty có tên tuổi đáng chú ý như Weyerhaeuser, Nextel, Bemis Manufacturing, MITRE Corporation, WesCorp, HCC Surety, United Way, và Seattle's Best Coffee.  Ngoài ra, bà cũng là tác giả của quyển Help Your Kids Get It Done Right at Home and School! Building Responsibility & Self-Esteem in Children (Giúp con trẻ tự hoàn thiện ở gia đình và nhà trường! Xây dựng Trách nhiệm & Lòng tự trọng ở trẻ).  Mời các bạn đón đọc Người Giỏi Không Phải Người Làm Tất Cả của tác giả Ph.D Donna M. Genett.
Sáu Kẻ Bất Hảo
Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình… "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới.   Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** LEIGH BARDUGO - Nữ tiểu thuyết gia đa tài của dòng văn học fantasy Leigh Bardugo sinh ra tại Jerusalem và lớn lên ở Los Angeles. Cô là tác giả sách bán chạy của New York Times với các series tiểu thuyết Fantasy xoay quanh Vũ trụ Grisha, trong đó nổi bật là bộ sách MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN. Bardugo tốt nghiệp Đại học Yale, làm việc trong các lĩnh vực quảng cáo, báo chí, và gần đây nhất là hoá trang cùng hiệu ứng kĩ xảo. Ngoài ra cô cũng là một trong hai giọng ca chính của ban nhạc Captain Automatic. Bên cạnh đó, Leigh Bardugo cũng sẽ tham gia với tư cách giám đốc sản xuất series phim dài tập chuyển thể Vũ trụ Grisha sẽ được ra mắt vào cuối năm 2020 này do dịch vụ xem phim trực tuyến Netflix thực hiện. *** “Nhưng chẳng phải mọi cô gái đều mơ điều đó hay sao? Mở mắt dậy và thấy mình là công chúa. Hoặc được định mệnh ban cho những năng lực pháp thuật và một số phận phi thường. Có những người sống như thế… Nhưng với những người còn lại thì sao? Những người vô danh tiểu tốt, những đứa con gái vô hình thì sao? Chúng ta được dạy hãy ngẩng cao đầu như thể đang đội vương miện. Chúng ta được dạy viết nên những điều kỳ diệu từ sự tầm thường. Đó là cách thức mà bạn sống sót khi không phải người được chọn, khi trong huyết quản bạn không có dòng máu vương tộc. Khi thế giới chẳng nợ bạn gì sất, bạn vẫn lấy được thứ gì đó từ nó”. MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN Vậy là mình đã đọc xong trọn bộ “Móng vuốt quạ đen”. Tuy đã viết review cho tập 1&2 nhưng giờ mình sẽ review cho cả bộ truyện mà không đọc lại review của tập 1&2. Tập 3&4 được phát hành kèm theo boxset cho bốn cuốn, thay vào chỗ của hai cuốn 1&2 là hai hộp giấy có kích thước đúng bằng hai cuốn sách, ai đã mua tập 1&2 thì chỉ cần lấy hộp giấy ra và thay sách vào. Boxset được thiết kế rất đẹp, đồng điệu với bốn bìa sách, trong mỗi cuốn đều kèm theo một bookmark với hình vẽ “cắt” từ một phần hình bìa. “Móng vuốt quạ đen” thuộc thể loại truyện kỳ ảo phiêu lưu dành cho tuổi từ 12 trở lên, tuy vậy mình tin rằng tuổi 32 đọc vẫn sẽ thấy hay. Dàn ý tổng quan của cả bộ truyện là: Sáu kẻ bất hảo thuộc băng nhóm Cặn Bã của thành phố Kettledam được một thành viên cao cấp của Hội Đồng Thương Gia nhờ đi giải cứu một nhà phát minh đã sáng chế ra thứ ma túy có tác dụng gia tăng công lực cho các phù thủy (trong truyện gọi là Grisha). Bản thân nhà phát minh này cũng là một phù thủy, ông đang bị giam trong Lâu Đài Băng thuộc vùng đất băng tuyết của một vương quốc thù địch. Sáu kẻ bất hảo gồm: + Inej Ghafa: biệt danh Bóng Ma, chuyên thu thập thông tin + Kaz Brekker: biệt danh Tay Nhám, là một kẻ cướp và lừa đảo tàn nhẫn + Wylan: chuyên gia phá hủy, biết thổi sáo + Jesper Fahey: tay súng thiện xạ, cao lêu nghêu + Nina Zenik: một Grisha + Matthias Helvar: chiến binh của vương quốc thù địch Bộ truyện này của tác giả Leigh Bardugo ngắn hơn so với các bộ fantasy của Cassandra Clare, do đó mình có thể đọc hết bốn cuốn trong khoảng một tuần. Vì không có nhiều thời gian để đọc chứ nếu tập trung hoàn toàn thì mình nghĩ có thể đọc 1 cuốn / ngày. Tuy nhiên vì nhịp truyện khá nhanh, diễn biến dồn dập và kịch tính nên cần đọc chậm chút để thưởng thức cái hay của truyện và không quên tình tiết. Lúc đọc các cuốn này thì mình phải ngưng hoàn toàn những cuốn khác, vì “Móng vuốt quạ đen” thực sự rất hấp dẫn và dễ đọc, cứ muốn đọc tiếp hoài. Mỗi cuốn được chia thành các phần chính lớn, trong mỗi phần là từng chương nhỏ được tuần tự kể qua góc nhìn của sáu nhân vật chính. Tác giả rất biết cách “trói chặt” người đọc khi mỗi kết chương đều là những câu, những tình huống rất giựt gân, khiến người đọc không thể bỏ sách xuống và tự buộc mình phải thức thật khuya để đọc *** Joost có hai vấn đề: mặt trăng và ria mép. Lẽ ra cậu phải đi tuần tra quanh tư dinh của ngài Hoede, thế nhưng suốt mười lăm phút vừa qua cậu chỉ quanh quẩn ở bức tường phía đông nam của khu vườn, tìm kiếm trong vô vọng một thứ gì đó lãng mạn mà không ngớ ngẩn để nói với Anya. Giá mà cô có đôi mắt xanh như biển khơi hoặc như màu ngọc lục bảo. Nhưng chúng lại có màu nâu, đáng yêu và mơ màng… Nâu như sôcôla tan chảy ư? Hay là nâu như lông thỏ? “Cứ nói là làn da cô ấy tựa như ánh trăng,” anh bạn Pieter đã khuyên Joost như vậy. “Bọn con gái thích thế.” Một giải pháp hoàn hảo, nhưng thời tiết ở Ketterdam không chiều lòng Joost. Suốt cả ngày nay chẳng có cơn gió nào từ ngoài cảng thổi vào, lớp sương trắng đục quấn chặt những con kênh và ngõ ngách quanh co trong sự ẩm ướt. Ngay cả ở đây, giữa những tư dinh tại Geldstraat này, không khí cũng sực mùi cá và mùi nước súc hầm tàu. Khói từ các xưởng tinh chế trên những hòn đảo lân cận tạo thành một lớp mây mù thớ lợ che phủ bầu trời đêm. Vầng trăng tròn trông bớt giống một viên ngọc và như một cái mụn rộp vàng đục cần được chọc vỡ nhiều hơn. Hay là ca tụng nụ cười của cô ấy nhỉ? Chỉ có điều, Joost chưa bao giờ nghe Anya cười. Pha trò không phải là thế mạnh của cậu. Joost liếc nhìn mình ở một trong những tấm gương gắn trên các cánh cửa đôi dẫn ra vườn. Mẹ của cậu nói đúng: ngay cả trong bộ đồng phục mới này, trông cậu vẫn giống như một đứa con nít. Joost lướt nhẹ ngón tay qua môi trên. Giá như bộ ria mép của cậu chịu mọc. Dù sao thì nó cũng có vẻ dày hơn hôm qua, rõ ràng là thế. Mới làm vệ quân trong đội thị tuần được non sáu tuần lễ mà Joost đã thấy công việc này không thú vị như mong đợi. Cậu cứ tưởng mình sẽ được truy đuổi những tên trộm ở Barrel, hoặc đi tuần tra hải cảng để kiểm định những chuyến hàng cập bến. Nhưng từ sau vụ ám sát ông đại sứ tại Toà thị chính, Hội đồng Thương buôn liên tục kêu ca về tình hình an ninh, và thế là Joost bị mắc kẹt với việc đi lòng vòng quanh tư dinh của một tay lái buôn may mắn. Nhưng ông ta không phải là một kẻ vô danh. Ủy viên hội đồng Hoede là thương gia có chức vụ cao nhất trong chính quyền Ketterdam. Kiểu người có thể làm nên đại sự. Joost chỉnh lại áo xống và khẩu súng, rồi vỗ nhẹ cây dùi cui nặng trĩu treo lủng lẳng bên hông. Biết đâu cậu có thể lọt vào mắt xanh của Hoede. Tinh mắt và sử dụng dùi cui linh hoạt, cậu ta xứng đáng được thăng cấp!Joost hình dung ông ta sẽ nói như thế. “Trung sĩ Joost Van Poel,” cậu lẩm nhẩm, tận hưởng từng chữ một. “Đội trưởng Joost Van Poel.” “Đừng có ngắm vuốt nữa mà.” Joost giật nảy người, hai má đỏ ửng, trong lúc Henk và Rutger tiến ra vườn. Cả hai người đều lớn tuổi hơn, to con hơn và có đôi vai rộng hơn so với Joost. Họ là cận vệ trong nhà, gia nhân của ủy viên hội đồng Hoede. Do vậy họ được mặc chế phục mầu xanh của ông ta, mang những khẩu súng trường bá cháy của Novyi Zem, và luôn nhắc cho Joost nhớ rằng cậu chỉ là một anh lính quèn trong đội tuần tra của thành phố. “Có nâng niu mấy sợi râu loe ngoe đó thì cũng chẳng làm cho chúng mọc nhanh hơn được đâu,” Rutger nhận xét kèm theo một tràng cười sang sảng. Joost đáp, cố vớt vát một chút thể diện. “Tôi phải đi tuần tra nốt đây.” Rutger huých Henk một cái. “Có nghĩa là cậu chàng sắp thò đầu vào trong xưởng Grisha để ghé thăm bạn gái đấy.” “Anya ơi, em có thể dùng năng lực Grisha để làm râu anh mọc được không?” Henk chế giễu. Joost quay gót, hai má đỏ bừng, và bước đi dọc theo mặt đông của toà nhà. Bọn họ đã trêu chọc cậu từ hôm đầu tiên cậu đến đây. Nếu không vì Anya, chắc cậu đã nài nỉ đội trưởng cho mình đổi qua nhiệm vụ khác. Anya và Joost chỉ trao đổi với nhau vài lời trong các chuyến tuần tra, nhưng cô luôn là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong những đêm dài của cậu. Ngoài ra, Joost phải công nhận là cậu cũng thích tư dinh của Hoede, ít nhất với những thứ cậu quan sát được trong vài lần trộm nghía qua cửa sổ. Ngài Hoede sở hữu một trong những tư dinh lớn nhất Geldstraat. Sàn nhà được lát những vuông đá hai màu trắng đen, các vách tường gỗ bóng sẫm màu được chiếu sáng bởi những chùm đèn thuỷ tinh thổi giống như đàn sứa lơ lửng gần các ô trần. Đôi khi Joost vờ như đây là nhà mình, và cậu là một thương gia giàu có đang đi hít thở không khí trong khu vườn tráng lệ của mình. Trước khi đi tới góc tường, Joost hít một hơi thật sâu. Anya à, đôi mắt em nâu như… vỏ cây? Cậu sẽ nghĩ ra một thứ gì đó. Dù sao thì cậu nên ứng khẩu là hơn. Joost ngạc nhiên khi thấy mấy cánh cửa kính của xưởng Grisha đang mở. Sự giàu có của Hoede không chỉ nằm ở lớp gạch lam vẽ tay được lát trong nhà bếp hay những lò sưởi phủ đầy chậu hoa tulip, mà còn ở chính cái xưởng này. Các Grisha giúp việc theo giao kèo không hề rẻ, và Hoede có đến ba người. Nhưng Yuri không xuất hiện bên bàn thợ dài, còn Anya thì chẳng thấy đâu. Chỉ mỗi mình Retvenko đang ở đó, nằm ườn trên ghế trong chiếc áo choàng màu lam thẫm, mắt nhắm nghiền, một cuốn sách đang mở đặt trên ngực. Joost ngập ngừng trên ngưỡng cửa, rồi hắng giọng. “Mấy cái cửa này nên được đóng lại và khoá chặt vào buổi tối.” “Ở đây nóng như cái lò,” Retvenko dài giọng đáp lại mà không buồn mở mắt, với âm sắc Ravka nặng và uốn lưỡi nhiều. “Bảo Hoede là bao giờ tôi không chảy mồ hôi nữa thì tôi sẽ đóng cửa.” Retvenko là một Tiết Khí Sư, lớn tuổi hơn những Grisha giúp việc theo giao kèo khác. Mái tóc ông ta đã ngả màu muối tiêu. Theo lời đồn thì ông ta từng chiến đấu cho phe thua cuộc trong nội chiến Ravka và chạy sang Kerch sau đó. “Tôi sẽ rất sẵn lòng chuyển lời phàn nàn của ông tới Ủy viên hội đồng Hoede,” Joost nói dối. Toà nhà luôn luôn được sưởi quá mức như thể Hoede bị buộc phải đốt than, nhưng Joost không phải là người lưu ý chuyện đó với ông ta. “Trong lúc chờ đợi…” “Cậu có tin của Yuri à?” Retvenko cắt ngang, rốt cuộc cũng mở đôi mắt trũng sâu của mình. Joost bối rối nhìn những bát đựng nho đỏ và các chồng vải nhung màu đỏ rượu nằm trên bàn thợ. Yuri đang nghiên cứu cách nhuộm màu đỏ của trái nho cho những tấm rèm của phu nhân Hoede, nhưng mấy hôm trước anh ta ngã bệnh nặng và Joost không gặp anh ta kể từ lúc đó. Bụi đã bắt đầu bám trên chỗ vải nhung, còn những trái nho bắt đầu hỏng. “Tôi không nghe gì cả.” “Phải rồi. Cậu còn bận nghênh ngang tới lui trong cái bộ đồng phục tím ngớ tím ngẩn.” Đồng phục của cậu thì có liên quan gì? Mà tại sao Retvenko phải có mặt ở đây? Ông ta là Tiết Khí Sư riêng của Hoede, thường xuyên rong ruổi trên những con tàu hàng quý báu nhất của ngài thương gia để bảo đảm mưa thuận gió hoà, cho phép chúng cập bến an toàn và nhanh chóng. Tại sao ông ta không đi biển vào lúc này? “Tôi nghĩ có thể Yuri đang bị cách li.” “Hữu ích ghê,” Retvenko đáp với nụ cười khinh khỉnh. “Cậu có thể ngừng vươn cổ ngó nghiêng được rồi đó. Anya đi rồi.” Joost lại cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Cô ấy đang ở đâu?” Cậu hỏi, cố tỏ ra uy quyền. “Cô ấy nên ở trong nhà vào buổi tối.” “Một giờ trước Hoede đã đưa con bé đi. Cũng giống như cái đêm ông ta đến tìm Yuri.” “Ông nói ông ta ‘đến tìm Yuri’ nghĩa là sao? Anh ta bị bệnh mà?” “Hoede đến tìm Yuri, khi về Yuri ngã bệnh. Hai ngày sau, thằng bé mất tích luôn. Giờ tới lượt Anya.” Mất tích luôn? “Biết đâu đây là một việc khẩn cấp. Nếu có ai đó cần được cứu chữa thì…” “Đầu tiên là Yuri, giờ là Anya. Tôi sẽ là người tiếp theo, và không ai để ý ngoại trừ anh lính quèn Joost. Cậu đi ngay đi.” “Nếu Ủy viên hội đồng Hoede…” Retvenko giơ cánh tay lên, và một luồng gió đẩy Joost lùi lại. Cậu loạng choạng cố đứng vững, bám tay vào khung cửa. “Tôi đã bảo đi ngay.” Retvenko vẽ một vòng tròn trong không khí và cánh cửa đóng sầm lại. Joost buông tay ra vừa kịp lúc để tránh bị kẹp ngón tay. Cậu ngã ra ngoài vườn. Joost đứng dậy nhanh hết mức có thể và phủi sạch bộ đồng phục với cảm giác nhục nhã ê chề trong lòng. Một tấm kính cửa đã bị rạn do lực tác động. Qua lớp kính rạn cậu nhìn thấy nụ cười của Retvenko. “Chuyện này sẽ được tính vào giao kèo của ông,” Joost vừa nói vừa chỉ tay vào tấm kính rạn. Cậu căm ghét giọng điệu nhỏ nhen ti tiện vừa bật ra từ miệng mình. Retvenko vẫy tay, và cánh cửa rung lên lạch cạch. Joost bất giác lui lại một bước. “Đi tuần đi, cún con à,” ông ta nói. “Mọi chuyện suôn sẻ ghê!” Rutger cười khúc khích, lưng dựa vào bờ tường của khu vườn. Anh ta đứng đó được bao lâu rồi? “Anh không có chuyện gì khác để làm ngoài bám theo tôi à?” Joost hỏi. “Tất cả các cận vệ được gọi đến nhà thuyền, kể cả cậu. Hay là cậu đang bận kết bạn?” “Tôi chỉ đang nhắc ông ta đóng cửa lại.” Rutger lắc đầu. “Đừng nhắc. Hãy ra lệnh. Bọn họ là gia nhân, không phải khách mời danh dự.” Trong lòng chưa hết nhục nhã, Joost bước đi bên cạnh anh ta. Tệ nhất là Rutger nói đúng. Retvenko không có quyền gì để mà nói năng với cậu như vậy. Nhưng cậu còn làm gì được đây? Ngay cả khi cậu có đủ dũng khí, việc ẩu đả với một Tiết Khí Sư cũng giống như đánh một cái bình đắt tiền. Các Grisha không phải là người giúp việc đơn thuần, họ là tài sản quý báu của Hoede. Ngụ ý của Retvenko khi nói về Yuri và Anya khiến Joost bận tâm. Có phải ông ta đang bao che cho Anya hay không? Các Grisha giúp việc theo giao kèo bị giữ ở trong nhà là có lí do cả. Nếu lang thang ngoài đường mà không được bảo vệ, họ có nguy cơ sẽ bị bọn buôn nô lệ bắt mất. Biết đâu cô ấy đang hẹn hò ai đó, Joost rầu rĩ phỏng đoán. Dòng suy nghĩ của Joost bị cắt ngang bởi ánh sáng và sự nhộn nhịp bên cạnh nhà thuyền đối diện dòng kênh, cậu có thể nhìn thấy ở bờ bên kia những toà nhà tráng lệ của các thương gia, cao và thanh thoát. Các đầu hồi gọn ghẽ trên mái tạo thành những hình thù đen thâm trên nền trời. Các khu vườn và nhà thuyền của chúng được chiếu sáng bằng những ngọn đèn lồng rực rỡ.
Con Quỷ Phong Lưu
... Ai ở Sài Gòn lâu năm, hẳn nhớ cái khoảng nằm giữa hai đầu dduongf Catinat và Charner, ngó ngau mặt bến tàu Nam Vang, trước kia làm gì có tòa nhà hùng tráng tối tân của chú Hòa dựng lên, làm đại khách sạn Mejectic, như ta trông thấy bây giờ. Mười lăm năm về trước, chỗ ấy là mấy căn phố lầu kiểu xưa, gần đến tuổi khai tử, chú Hòa cho mấy hãng mướn làm kho chứ hàng, tối đến cảnh tượng tối tăm, tiều tụy. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Mời các bạn đón đọc Con Quỷ Phong Lưu của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.