Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Italy, Đi Rồi Sẽ Đến

C ầm trên tay cuốn sách đầu tay của Lê Thủy Anh là một cảm giác rất đặc biệt với tôi. Cơ duyên của tôi và em bắt đầu từ vài năm trước đây khi tôi nhận được e-mail của một cô bé tự giới thiệu là sinh viên ĐH Ngoại thương nhưng không học tôi mà chỉ biết tôi qua bạn bè. Em gặp một vài khó khăn trong cuộc sống và mong được tôi cho ý kiến. Cuộc gặp ấy đã khởi đầu cho một mối duyên lâu dài giữa tôi và em, một cô gái giàu nghị lực, rất đáng khâm phục. Lần đầu gặp nhau, em chia sẻ rất nhiều về sự bất lực trước gánh nặng gia đình và công việc cùng đổ dồn lên đôi vai bé nhỏ của em. Tôi còn nhớ mình đã rất xót xa khi nhìn một cô gái trẻ, làm việc rất chăm chỉ, kiếm ra tiền nhưng hoàn toàn không có thì giờ chăm sóc bản thân mà chỉ biết nghĩ cho người khác. Sau này tôi mới biết, lúc ấy em còn đang rất đau khổ vì mối tình không lối thoát của mình. Gia đình em ở xa, không thể an ủi, chăm sóc em nhưng gánh nặng kinh tế và nghĩa vụ của người chị với 3 đứa em, trong đó có một em bị Down luôn đè nặng lên vai em. Dù cố sức an ủi cô gái bé nhỏ nhưng tôi vẫn lo ngại em khó có thể thoát ra khỏi cái vòng kim cô của nghĩa vụ ấy để được sống cho mình, được thực hiện ước mơ du học, bước ra ngoài thế giới của em. Khỏi phải nói tôi đã vui mừng thế nào khi 2 năm sau được em cho biết đã xin được học bổng để đi học Thạc sĩ ngành em mơ ước ở Italy và cũng đã tìm được một chàng trai tâm đầu ý hợp ở nơi ấy. Tôi hồi hộp theo dõi từng bước chân em trong quá trình học tập rồi lập gia đình vì tôi biết em học thạc sĩ khá muộn và việc hội nhập với đời sống ở châu Âu không đơn giản, nhất là em vốn quen với văn hóa Nhật Bản, Á Đông. Nhưng rồi tin vui cứ dồn dập đổ về, em đã hoàn thành chương trình học thạc sĩ rất khó khăn đó và cũng đã tìm được một mái ấm ngọt ngào trên đất nước Italy xinh đẹp. Những tưởng em đang an hưởng những ngày hạnh phúc sau thời gian dài vất vả nhưng hóa ra cô gái bất khuất này vẫn không thể ngồi yên. Dù bản thân đã tìm được bến đỗ nhưng cô vẫn khát khao chia sẻ con đường của mình với những người đi sau, mong mỏi giúp được các bạn bớt khó khăn trong quá trình tìm kiếm cơ hội trên đất Italy. Cuốn sách này là câu chuyện rất chân thực của một cô gái từ kinh nghiệm học tập khi mới bắt đầu vào đại học ở xa nhà, đến kinh nghiệm học tốt ngoại ngữ, kinh nghiệm kiếm được việc làm thêm để trang trải cuộc sống và đỡ đần gia đình… Những chia sẻ về những ngày đầu đi làm, kinh nghiệm làm hồ sơ, va chạm/hòa nhập với nơi làm việc mới sẽ rất đáng quý với những bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời. Đặc biệt, câu chuyện của em về quá trình xin học bổng, làm visa đi Italy, rồi việc học tập, định cư ở nơi xa xôi ấy chắc chắn sẽ rất hấp dẫn người đọc. Trên hết, cuốn sách này là một bài ca về nghị lực sống, về tinh thần vượt khó vươn lên của một cô gái Việt, một người đã biết vượt lên không chỉ những khó khăn, cản trở đặc trưng với một phụ nữ Á Đông mà còn biết dung hòa giữa nghĩa vụ gia đình và khát vọng sống của bản thân. Những gì Thủy Anh đã làm được sẽ tạo động lực cho rất nhiều bạn gái trẻ đang chuẩn bị vào đời, giúp các em thêm tin tưởng vào quyền được hạnh phúc, vào giá trị bản thân của người phụ nữ, giúp củng cố niềm tin là chỉ cần nỗ lực bền bỉ, AI CŨNG CÓ QUYỀN VÀ CÓ THỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC! Tháng 9 năm 2017 PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH - Giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội *** Quá trình chuẩn bị cho chuyến du lịch Ý năm 2014 Vấn đề đầu tiên là “TIỀN ĐÂU” T ừ lúc tôi có ý định đi du lịch Ý cho đến khi tôi thực hiện được kế hoạch của mình là 1 năm. Tôi dự định phải có ít nhất 50 triệu đồng cho chuyến đi đó. Điều này thì tùy kế hoạch, khả năng thu nhập và cách chi tiêu của mỗi người. Tôi quyết định hạn chế tối đa những chuyến đi nhỏ và ngắn ngày để dành ngày nghỉ phép ở công ty và mỗi tháng cố gắng tiết kiệm ít nhất 5 triệu. Dĩ nhiên là tôi phá vỡ kế hoạch liên tục vì tôi có rất nhiều khoản phát sinh. Nếu muốn ta sẽ tìm cách, khi không muốn ta sẽ tìm lý do. Lên danh sách chi phí hành trình: ba khoản cơ bản tốn kém nhất là: di chuyển (vé máy bay, vé tàu, vé buýt…); ở (hostel, homestay…) và ăn. Ngoài ra còn tiền vé cho một số điểm tham quan và các chi phí phát sinh. Học tiếng Ý: Tôi bắt đầu học tiếng Ý 1 tuần 3 buổi tại trung tâm Dante, 16 Lê Phụng Hiểu. Sau 1 năm thì tôi học được bốn khóa, đi học rất vui vì biết nhiều hơn về văn hóa, ẩm thực, con người, lịch sử… nước Ý. Học tiếng Ý là quyết định rất sáng suốt vì người dân Ý không dùng tiếng Anh nhiều. Chưa kể việc làm quen và bắt chuyện với người dân địa phương giúp tôi biết thêm rất nhiều điều thú vị. Biết thêm một ngôn ngữ thấy mình bước thêm được một bước ra thế giới rộng lớn và bao la. Xin VISA Tôi tự tìm hiểu trên các diễn đàn để tìm hiểu thông tin xin visa Schengen. Hồ sơ của tôi là phụ nữ độc thân đi du lịch tự túc nên khả năng cao là sẽ bị từ chối thẳng. Với kinh nghiệm sau vài năm đi làm và thường xuyên đến các đại sứ quán Đức, Nhật… để xin visa cho sếp và cho các chuyến đi công tác của mình thì tôi thấy không gì là không thể. Cứ chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ như theo yêu cầu của đại sứ quán. Trang web và hướng dẫn thủ tục của Đại sứ quán Ý: www.ambhanoi.esteri.it/ambasciata_hanoi/vi/informazioni_e_servizi/visti Thủ tục yêu cầu như sau: Thị thực du lịch (Thời gian lưu trú tối đa: 90 ngày) 1. Đơn xin cấp visa. 2. 2 ảnh cỡ 4x6 (nền trắng, yêu cầu chụp ảnh để xin visa châu Âu). 3. Hộ chiếu còn giá trị sử dụng ít nhất 3 tháng tính từ ngày hết hạn visa được cấp. 4. Đặt vé máy bay hoặc vé máy bay khứ hồi. (Cái này chỉ yêu cầu đặt vé thôi. Mọi người có thể nhờ phòng vé đặt hộ cho phần này. Bao giờ có visa mà yêu cầu phải xuất vé bay thì mới mua. Tôi đặt online trên trang của Cathay. Đến phần thanh toán tôi chọn thanh toán sau, nó sẽ tự động gửi về mail xác nhận đặt phòng cho hành trình mình chọn. Tôi in cái này ra và nộp cho đại sứ quán. Trường hợp của tôi có visa, không yêu cầu phải xuất vé vì vậy sau này tôi mới mua vé.) 5. Bằng chứng về nơi ở tại Ý: biên lai đặt tour du lịch, đặt khách sạn hoặc thư mời nếu có người mời từ Ý (trong trường hợp có người mời từ Ý, yêu cầu thư mời làm theo mẫu của Sứ quán quy định). Thư mời này yêu cầu 2 bản: một bản fax hoặc e-mail trực tiếp từ Ý đến Phòng Visa Đại sứ quán Ý tại Hà nội (Fax: +84 439351179, e-mail: [email protected]) và một bản do người nộp hồ sơ trình tại thời điểm nộp hồ sơ cùng những giấy tờ khác. Trước khi làm thị thực du lịch tôi làm thêm một cái gọi là lịch trình cơ bản cho 20 ngày: đi đâu, bằng phương tiện gì, tham quan những đâu… Càng chi tiết càng tốt vì sẽ thể hiện rõ mong muốn du lịch của mình và tìm hiểu kỹ những nơi đi. Vì tôi muốn xin visa Schengen nên tôi cho thêm vào lịch trình là 3 ngày ở Paris (nếu chỉ du lịch ở Ý, thông thường đại sứ quán sẽ chỉ cấp visa National ở Ý thôi). Vì lịch trình có Paris nên tôi phải có vé bay hoặc bằng chứng đi lại, ăn ở tại Paris. Tôi xuất vé của Ryan Air vé rẻ khứ hồi tầm 60 Euro (Roma – Paris, Paris – Milan) nên trường hợp có bị từ chối hoặc thay đổi lịch trình cũng đỡ tiếc. Tôi thường đặt khách sạn trên www.booking.com theo lịch trình của mình. Tôi chỉ chọn những khách sạn cho hủy miễn phí (free cancellation) để đặt. Sau khi đặt xong sẽ có xác nhận gửi về e-mail. Tôi in ra và nộp cho Đại sứ quán. Có visa rồi thì tôi hủy hết các đặt phòng trước và đặt các hostel theo lịch trình thực tế của mình. Trường hợp bạn nào có thư mời ở homestay thì có thể dùng thư mời theo mẫu trên website của Đại sứ quán Ý, điền các thông tin và ghi rõ mình ở đó trong khoảng thời gian nào. Lưu ý là phần chi phí bạn phải ghi rõ là bạn chịu hết nếu không Đại sứ quán sẽ yêu cầu mục 6 (bảo lãnh ngân hàng). Tôi dùng booking toàn bộ ở khách sạn để tránh việc Đại sứ quán hỏi về mối quan hệ hay đòi thêm các giấy tờ từ người mời. 6. Bảo lãnh ngân hàng (atto di fideiussione bancaria) mở tại ngân hàng của Ý. Chỉ dùng trong trường hợp người mời đài thọ hết các chi phí để chứng minh là người mời có đủ khả năng tài chính chi trả cho chuyến đi của bạn. Việc bảo lãnh ngân hàng ở Ý khá phức tạp nên sẽ gây phiền cho người mời. Nếu thực sự thân quen và bạn không có đủ năng lực chứng minh tài chính thì mới nên dùng cách này. 7. Chứng minh khả năng tài chính (bản sao kê tài khoản ngân hàng 6 tháng cuối, sổ tiết kiệm, giấy báo tài khoản ngân hàng và giấy tờ nhà đất, xe cộ, thẻ tín dụng, thẻ visa, v.v..). Tôi nộp bản sao kê tài khoản lương 6 tháng (chứng minh mình có thu nhập đều đặn), hạn mức tín dụng, xác nhận số dư (thể hiện toàn bộ các khoản thu nhập mình có), sổ tiết kiệm trị giá 100 triệu đồng (theo như tôi biết yêu cầu tối thiểu khoảng 5.000 đô-la, mức đó không có thông báo chính thức nhưng tôi vẫn chuẩn bị sẵn). 8. Giấy tờ chứng minh công việc: Trường hợp đi làm phải có giấy đồng ý nghỉ phép của công ty + hợp đồng lao động. Tôi nộp hợp đồng lao động và giấy đồng ý nghỉ phép của công ty có chữ ký của sếp và đóng dấu công ty. Tất cả giấy tờ đều bằng tiếng Anh. 9. Bảo hiểm du lịch, bảo hiểm y tế với mức tối thiểu là 30.000 Euro cho việc cấp cứu, viện phí khẩn cấp và các chi phí hồi hương. Tôi mua của Gras Savoye Willis Vietnam phí bảo hiểm là 27 đô-la cho 22 ngày. Trường hợp không được cấp visa có thể hủy và lấy lại tiền (tham khảo tại website: www.grassavoyewillis-vn.com). Tôi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ và viết thêm một lá thư gửi Đại sứ quán ghi rõ công việc hiện tại của mình, lý do tôi muốn đi châu Âu để du lịch chứ không định ở lại sau chuyến đi. Thời gian nộp hồ sơ ở Đại sứ quán Ý khi đó là: Thứ Hai, thứ Ba, thứ Năm từ 9:00-11:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 11:00-12:30: Lấy dấu vân tay. Thứ Tư: 14:00-15:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 15:00 - 16:00: Lấy dấu vân tay. Thứ Sáu: đóng cửa. Lúc nộp hồ sơ sẽ phải lấy luôn dấu vân tay ở cả hai bàn tay. Sáng thứ Hai tôi nộp hồ sơ thì đến thứ Ba tôi nhận được điện thoại hẹn phỏng vấn vào tuần sau và yêu cầu bổ sung thêm lịch trình đi Paris. Đúng ngày hẹn, tôi lên nộp nốt giấy tờ và phỏng vấn. Đại sứ quán chỉ xác nhận lại có đúng tôi đang làm ở công ty này không và có phải là lần đầu đi Ý không. Tôi trả lời là đúng và mong muốn nguyện vọng của mình thành hiện thực và bên Đại sứ quán đã chấp nhận. Chào mừng đến với nước Ý. Cảm giác cầm visa Schengen trên tay mà tôi rưng rưng xúc động. Không có gì là không thể nếu mình không thử và cố gắng hết sức vì nó. Mời các bạn đón đọc Italy, Đi Rồi Sẽ Đến của tác giả Fanara Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đi Xuyên Hà Nội - Nguyễn Ngọc Tiến
Sau các cuốn tản văn 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội và tiểu thuyết Me Tư Hồng, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến lại tiếp tục chủ đề những câu chuyện đời sống Hà Nội theo dòng lịch sử qua cuốn tản văn mới, Đi xuyên Hà Nội. Hà Nội của nhiều góc cạnh: những bước hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những thăng trầm lịch sử. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng… Những chuyện nho nhỏ thú vị về thời điểm giao thông Hà Nội bắt đầu có đèn tín hiệu giao thông, cầu Long Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào… Hay những dấu mốc lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con người. Cuốn sách Đi xuyên Hà Nội là sự cố gắng nhìn vào bản chất của đô thị ở khía cạnh khoa học nhân văn gần gũi, có sự khảo cứu sâu rộng các nguồn tư liệu, nên độ hấp dẫn nằm ở chính sự sống động ấy. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại. *** B ảng lảng và trần trụi Trong một thời gian dài bao cấp, ấn tượng về những trang báo thời sự là chúng khô khan, vắng bóng tính giải trí, và dường như sẽ nhanh chóng bị quên lãng trong các thư viện cũ kỹ. Những đã có một người chuyên tâm đi lục lại những trang thông tin hết thời ấy, chắp nối lại chúng và thổi hồn vào đấy thành những ghi chép khảo cứu sống động. Đó là Nguyễn Ngọc Tiến. Cho đến giờ, những khảo cứu của anh về một Hà Nội qua chiều dài lịch sử đã thành thương hiệu trong làng văn. Đọc những trang viết từ nhiều cuốn sách được tập hợp qua nhiều năm tháng miệt mài làm việc, tập trung quanh câu chuyện về một mảnh đất nhiều thăng trầm, người ta có thể thấy Nguyễn Ngọc Tiến tựa như một sử nhân của Hà Nội. Sau các tản văn, bút ký 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội và tiểu thuyết Me Tư Hồng, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục các truyện-sử về thành phố anh gắn bó qua tập sách mới - Đi xuyên Hà Nội. Đó là Hà Nội của nhiều góc cạnh: những bước hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những gì phế hưng nơi này. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng... Anh tỉ mẩn lục lại xem quy tắc giao thông xưa, cầu Long Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào... Hay những dấu mốc lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con người. Có những điều giản dị mà khiến người đọc ngỡ ngàng, hóa ra đã diễn ra chưa quá lâu mà tưởng như xa lăng lắc: ... Nhưng phải đến năm 1960 Hà Nội mới có ba cụm đèn tín hiệu được điều khiển thủ công tức là công an ngồi trong bốt bật công tắc gồm: Ngã năm Cửa Nam, ngã tư Điện Biên Phủ-Trần Phú và ngã tư Tràng Tiền-Hàng Bài. Ngã tư Điện Biên Phủ-Trần Phú tuy không đông đúc nhưng khu vực này có nhiều cơ quan ngoại giao nước ngoài nên phải có đèn tín hiệu cho ra dáng thủ đô. Ông Bính nhà ở đầu phố Bà Triệu kể rằng, năm 1964, khi đó ông 11 tuổi, gần như ngày nào cũng vào bốt xem các chú công an điều khiển và có vài lần “chú công an mỏi tay quá nhờ tôi bật công tắc”. (Đèn tín hiệu giao thông có từ bao giờ?) Đọc mà thương người Hà Nội ngày xưa, họ đã đi qua những khúc quanh thời cuộc, đọc mà không nén nổi những tiếng thở dài. Giọng văn thong thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác “truyền kỳ” của những câu chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về khoảng cách giữa văn minh và u tối ở một đô thị vừa già cỗi lại vừa lắm nỗi ngây thơ... Nhiều chỗ tác giả chỉ đưa ra những con số và sự kiện mà người đọc cũng nghẹn ngào. Vì nỗi thương mình đã sống trong hoàn cảnh đó, hay thương một xã hội đô thị nhiều dâu bể? Trong cuốn sách này, tính chuyển động, sự trôi dạt nổi lên như một yếu tố chính. Từ những cái Tết ra đi và trở về (Đinh Hợi, Tết ra đi; Quý Sửu, Tết trở về), ngày chia ly của những người tản cư đi kháng chiến, người di cư vào Nam, người đi vùng kinh tế mới (Người Thăng Long-Hà Nội di cư), ngày đoàn viên của người từ nơi sơ tán hay mặt trận về (Hà Nội tháng 4-1975)... rất nhiều lần Nguyễn Ngọc Tiến nhấn mạnh tới tính động của dòng chảy đời sống Hà Nội. Nó vừa bảng lảng lại vừa trần trụi. Nó đẫm đầy chất tiểu thuyết. Vấn đề mà Đi xuyên Hà Nội tiếp nối các cuốn sách trước của cùng tác giả chính là giá trị của những trang truyện-sử phong tục xã hội, điều các chính sử thường bỏ qua, đặc biệt cần thiết ở một đô thị hậu thuộc địa. Sự lựa chọn đề tài đa dạng, gần gũi đời sống thường nhật cũng làm nên sự sống động của cuốn sách. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại. Khả năng bao trùm các đề tài về nơi này của Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục khẳng định một điều: còn rất nhiều thứ của Hà Nội xứng đáng để các nhà văn viết thật hay. Nguyễn Trương Quý Mời các bạn đón đọc Đi Xuyên Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Ngọc Sáng Trong Hoa Sen - John Blofeld
Ngọc sáng trong hoa sen (tựa tiếng Anh: The Wheel of Life) là cuốn sách nói về cuộc du hành của John Blofeld tại châu Á. Xuất bản năm 1959, quyển sách được sự đón nhận nhiệt thành của độc giả với số bán kỷ lục trên một triệu bản ngay trong năm đầu tiên ra mắt. Cho đến nay, dù thời gian trôi qua, nhiều sự kiện đã thay đổi nhưng Ngọc sáng trong hoa sen vẫn là một trong những cuốn sách giá trị về phương Đông và thường được dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường đại học. Trong nửa thế kỷ qua, số người phương Tây thăm viếng phương Đông không phải là ít nhưng hiếm có ai lĩnh hội được tinh hoa của phương Đông như John Blofeld. Tất nhiên Lafcadio Hearn đã làm điều này, nhưng ông chỉ ghi nhận vài chi tiết huyền bí về châu Á. Alan Watts đi xa hơn trong việc tìm hiểu những giá trị tâm linh, nhưng ông cũng chỉ chú trọng về kỹ thuật và phương pháp chứ không đào sâu vào những phương diện khác. John Blofeld khác hẳn hai tác giả trên, ông không ghé thăm như một khách lạ mà sống hẳn ở đây gần trọn cuộc đời. Không những ông học hỏi và trải nghiệm nhiều, mà ở Ngọc sáng trong hoa sen ông còn chia sẻ với chúng ta những vui buồn của kiếp người trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây lúc đó. Khi Trung Hoa Cộng sản thắng thế tại Hoa lục, ông phải rời Trung Hoa nhưng lòng vẫn luôn luôn hướng về mảnh đất này như quê hương thứ hai của mình. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa bùng nổ, ông là người phương Tây đầu tiên đã viết kháng thư phản đối và gọi hình ảnh Hồng vệ binh đốt sách vở, phá đền miếu là những “hành động phá hoại tồi tệ trong lịch sử nhân loại”. Đau đớn trước thảm trạng hủy diệt văn hóa, ông âm thầm sưu tầm, phiên dịch các tác phẩm lớn của Trung Hoa ra Anh ngữ, không phải chỉ cho độc giả phương Tây mà còn cho cả thế hệ sau của người Trung Hoa lưu vong. Ông là một trong số ít người Tây phương thiết tha làm công việc bảo tồn truyền thống văn hóa Trung Hoa. Chính điều này đã bảo đảm cho giá trị văn hóa được truyền tải trong quyển sách Ngọc sáng trong hoa sen cũng như những quyển sách khác của ông. Cuốn sách gồm 9 chương: Chương 1: Mộng và thực Chương 2: Tứ hải giai huynh đệ Chương 3: Hổ cốt tửu và Thanh trúc địch Chương 4: Nhẹ bước tiêu dao Chương 5: Bắc Kinh Chương 6: Ngũ đài sơn Chương 7: Biển khổ Chương 8: Buổi giao thời Chương 9: Vầng dương tỏa rạng *** Tác giả cuốn sách: John Blofeld là một học giả người Anh, đã sống nhiều năm tại Trung Hoa, Tây Tạng, Ấn Độ và Thái Lan. Ông là một trong những người tiên phong trong việc giới thiệu truyền thống văn hóa, tôn giáo phương Đông cho người phương Tây. Ngoài việc phiên dịch các tác phẩm lớn của Trung Hoa như Kinh Dịch, Kinh Thi, Sử Ký, Nam Hoa Kinh và Đạo Đức Kinh ra tiếng Anh, ông còn soạn thảo nhiều bộ sách giá trị về Phật giáo như “Bodhisattva of Compassion”, “The Road to Immortality”, “The Zen teaching of Huang Po”, “The Zen teaching of Hui Hai”, “Tantric Mysticism of Tibet”. Ông là chủ bút tờ Trung Đạo (The Middle Way), cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Thế giới. Ông qua đời năm 1987. *** Dịch giả cuốn sách:. Ông tên thật là Vũ Văn Du, sinh năm 1950 tại Hà Nội. Nguyên Phong rời Việt Nam du học ở Mỹ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán. Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Carnergie Mellon và Đại học Seattle, Mỹ. Ông còn giảng dạy tại một số đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ về lĩnh vực công nghệ phần mềm. Song song với vai trò một nhà khoa học, Nguyên Phong còn là dịch giả nổi tiếng của loạt sách về văn hóa và tâm linh phương Đông. Trong số đó, có thể kể đến các ấn phẩm: Hành Trình về phương Đông, Ngọc sáng trong hoa sen, Bên rặng Tuyết sơn, Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ cõi sáng, Minh triết trong đời sống, Đường mây qua xứ tuyết… *** T ôi rời Almora một cách phấn khởi. Chưa lúc nào lòng tôi lại chan chứa một hy vọng lớn như vậy. Bao cảm giác buồn chán, thất vọng đều tiêu tan, tôi thấy thoải mái, an lạc như vừa lột xác. Trong bao năm qua, chưa lúc nào tôi biết rõ mình sẽ phải làm gì như lúc này. Kể từ khi được Kim Cương trưởng lão thu nhận, làm lễ điểm đạo và sau đó đi du lịch khắp Trung Hoa, tôi đã gặp gỡ nhiều danh sư. Tôi đã học hỏi, thực hành nhiều pháp môn khác nhau nhưng không thành công bao nhiêu. Dù cố gắng tham cứu về Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và các pháp môn khác nhưng lần nào tôi cũng nhìn thấy mình trở về với Mật Tông. Dĩ nhiên Mật Tông có hàng trăm, hàng ngàn tông phái khác nhau nhưng chỉ đến lúc này tôi mới hiểu rõ con đường phải đi. Nếu tin vào nhân duyên thì tôi phải nói rằng trước lúc đó tôi chưa đủ duyên nên mọi sự đều ẩn tàng, không rõ rệt. Dù Hòa thượng Ninh Hải đã tiên tri nhưng tôi vẫn không sao hiểu được. Tại Wat Chalem, hình như có một mãnh lực kỳ lạ gì thôi thúc, hình ảnh một cánh rừng núi với cây cối xanh ngắt đã hiện lên một cách vô ý thức trong tâm tôi nhưng tôi vẫn không biết được nơi nào mà tôi phải tìm đến. Phải đợi đến khi gặp Lạt ma Govinda tôi mới ý thức rằng đã đến lúc tôi phải trở về nhà, tìm đến người trưởng môn của phái Dolijang (Sgromal-janku) để hoàn tất nghi thức nhập môn mà trước đây tôi đã vô tình bỏ dỡ. Hơn lúc nào hết tôi biết mình thực sự muốn gì và phải tìm kiếm gì. Cuộc gặp gỡ Lạt ma Govinda đã để lại cho tôi một ấn tượng hết sức sâu đậm về tu sĩ này. Thật ít người phương Tây nào lại quán triệt được những tinh hoa phương Đông như ngài. Theo chỗ tôi được biết thì chỉ có hai người Âu xứng đáng được coi như là những người tiên phong, đã mở đường dẫn lối cho những người khác: Lạt ma Govinda và giáo sư Evans Wentz. Lạt ma Govinda là một người Âu đã xuất gia tại Sri Lanka nhưng qua Tây Tạng học hỏi với các danh sư Kim Cương Thừa. Ông đã viết rất nhiều sách và để lại cho thế giới một kho tàng tranh vẽ mà ông đã sưu tầm được tại Tây Tạng. Giáo sư Evans Wentz là một học giả của Oxford đã tháp tùng một phái đoàn các khoa học gia Âu Mỹ qua phương Đông nghiên cứu. Phái đoàn của ông đã đi khắp nơi học hỏi ghi nhận và sau cùng lên Hy Mã Lạp Sơn. Tại đây họ đã tiếp xúc được các bậc cao nhân, ẩn sĩ và được chỉ dẫn rất nhiều. Sau một thời gian học hỏi, họ quyết định không trở về châu Âu nữa mà chọn một đời sống tu hành trên rặng núi Tuyết này. Chỉ có hai người, giáo sư Evans Wentz và Baird Spalding lãnh trọng trách trở về Anh quốc hoàn tất cuộc nghiên cứu bằng một hồ sơ tường trình cuộc du khảo của họ[13]. Sau đó giáo sư Spalding cũng bỏ lên Tuyết sơn tu học, chỉ còn giáo sư Evans Wentz tiếp tục dịch thuật nhiều sách tham khảo có giá trị khác, đặc biệt là các sách vở về Kim Cương Thừa mà ngày nay vẫn được các học giả coi là những tài liệu hết sức giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Ngọc Sáng Trong Hoa Sen của tác giả John Blofeld.
Trên Ngọn Tình Sầu - Du Tử Lê
Bài thơ được viết năm 1967, linh hồn chính của bài thơ là một cô giáo - Lê Huyền Châu (Cháu ruột của Giáo Sư Lê Ngọc Trụ). Có thể coi đây là mối tình đầu của nhà thơ Du Tử Lê. Họ không đi đến hôn nhân được vì sự khác biệt giữa hai gia đình Nam Bắc. Năm 1975 nhà thơ Du Tử Lê định cư ở Mỹ, Huyền Châu còn ở lại Việt Nam. Hai mươi sáu năm sau, 1991, ông về thăm lại người yêu cũ, và có ý định đem Huyền Châu đi. Nhưng vì còn cha mẹ già . Cô từ chối. Hiện nay cô vẫn còn độc thân và vẫn còn cư ngụ tại căn nhà cũ ở Bến Chương Dương. Tùy bút Trên Ngọn Tình Sầu gồm có:  Tóc Trên Đầu Vẫn Từng Ngọn Riêng Tây Thư Viết Từ Garden Grove City Mỗi Chúng Ta Là Một Vùng Đất Trũng. Và, Những Bức Tranh Không Ngày Tháng, Không Chữ Ký Người Chối Từ Hai Chữ “Nhà Văn!” *** Du Tử Lê (sinh 1942) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** “đời tẻ nhạt liếm môi mình cũng nhạt. “tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.” (thơ dtl.)   1. C hiếc xe hối hả như muốn chạy đua cùng mặt trời đang bị những sợi giây vô hình vội vã kéo lên cao. Nắng sớm từngchùm lọt qua cành, nhánh những rặng xoài nặng trái. Nhác trông, như những chiếc võng xanh ương, treo lửng, đu đưa bởi gió đồng. Trên những thửa ruộng lúp xúp chân lúa mới gặt, nước đọng từng vũng do sự nấn, nuối của những trận mưa rào mấy ngày trước. Xa xa, đôi ba cánh cò trắng soải chân, buồn bã, bay. Tựa chúng không chút bận tâm về việc hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng; được chia lô bởi những thân cổ thụ cụt đầu, đã khô quắt; nhưng vẫn muốn phô diễn lần cuối, sự có mặt ngạo nghễ (dẫu tuyệt vọng) của mình. Nếu không kể tài xế, chiếc xe có bốn người cho ba hàng ghế. Hai phụ nữ. Một trung niên. Tóc ngắn. Bề ngoài, cô cho thấy là một người đã miễn nhiễm với tất cả mọi biến động thời thế, xã hội. Nhưng đôi mắt nửa nghiêm khắc, nửa tinh anh của cô, lại cánh giác những ai sáng ý rằng, đó là một người nhạy cảm mà, cái tâm từ của cô, lúc nào cũng sẵn sàng đào những hố, hầm cho cô sập bẫy-xót-xa. Ta cũng có thể nói, đó là người phụ nữ được sinh ra để quên mình, sống cho kẻ khác. Người còn lại, tóc dài. Còn trẻ. Nhưng dường như mái tóc của cô cũng tự hiểu rằng, nó không đủ tiềm năng cạnh tranh với chiều cao của cô. Chiều cao của một cây…liễu. Đó là một phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá. (Loại nước đá không tan dù cho bạn có phơi nó dưới ánh nắng hay, sức nóng ở độ nào!) Họ rì rầm nơi băng ghế áp chót. Chỉ trời hiểu họ nói gì, với nhau!?! Nơi băng ghế ngay sau lưng tài xế, là phần đất “quy hoạch” của hai người đàn ông. Người trẻ, ở khoảng tuổi trên dưới dưới bốn mươi. Nhưng những nếp nhăn đã thấp thoáng, không chỉ trên vầng trán bướng bỉnh mà, cả nơi đuôi mắt. (Tôi xin nói riêng với bạn mà không sợ sai rằng, đó là loại thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân.) ... Mời các bạn đón đọc Trên Ngọn Tình Sầu của tác giả Du Tử Lê.
Đường Xa Nắng Mới - Nguyễn Tường Bách
Đường Xa Nắng Mới là tập bút ký mới nhất của Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách, tập hợp những bài viết ký sự du hành của tác giả đến nhiều xứ sở lạ kỳ trên thế giới. Bắt đầu từ câu chuyện về ngôi làng nhỏ yên bình của mình ở nước Đức; bằng lối kể chuyện đầy mê hoặc, tác giả đã dẫn dắt người đọc du hành qua nhiều vùng đất lạ mà điểm dừng chân cuối cùng là mãi tận Kailash (Ngân Sơn) - ngọn núi thiêng được sùng bái nhất trên quả địa cầu. Hiếm khi đến những thành phố hoa lệ, hành trình của tác giả thường là những nơi “thâm sơn cùng cốc”, ví như bám theo lộ trình ngày xưa của đại sư Huyền Trang qua các sa mạc ở phía Tây Trung Quốc; tới nhiều điểm trên “con đường tơ lụa” nối liền Á - Âu; đi xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ hay lang thang trên những miền đất lạnh lẽo ở Bắc Âu. Đắm mình vào trang sách, độc giả như được cùng ông cảm nhận sức nóng của “Hỏa Diệm Sơn”; lắng nghe tiếng sóng vỗ trên Hồng Hải; hồi hộp chờ ngắm núi lửa thức giấc tại Sicilia hay đón mặt trời lúc nửa đêm tại Mũi Bắc (North Cape) - Na Uy. Không dừng lại ở những câu chuyện “đường xa xứ lạ”, sức cuốn hút mãnh liệt từ những trang viết của Nguyễn Tường Bách còn là nhiều phát hiện bất ngờ và thú vị về mỗi xứ sở, kết tủa từ trải nghiệm và tri thức. Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới mang đậm nét của Kim Cương Thừa lại nằm ở Indonesia-quốc gia có cộng đồng hồi giáo đông nhất thế giới. Cuộc chiến thành Troy lại không diễn ra trên đất Hy Lạp mà là Thổ Nhĩ Kỳ. Amsterdam là thành phố của những người không ưa khuôn phép, nơi mà người ta “sẵn sàng phá vỡ mọi lề thói, dám hợp thức hóa những điều cấm kỵ”. Nhờ vậy mà “lầu xanh, lầu hồng và cả khu vực tiêu thụ bạch phiến được ghi chính thức trên bản đồ thành phố”. Thăm Bồ Đào Nha, tác giả “chứng minh” một cách thuyết phục rằng giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Francisco de Pina chính là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ chứ không phải Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo người Pháp - học trò của ông. Đường Xa Nắng Mới xứng đáng có vị trí trang trọng trên kệ sách của những người đam mê du lịch thám hiểm, tâm linh. Ngay cả những ai ít xê dịch nếu suy ngẫm vẫn có thể chiêm nghiệm ra những điều tâm đắc. Đơn giản, với người viết, Đường Xa Nắng Mới là một tập bút - ký - tư - tưởng. *** Nguyễn Tường Bách, sinh năm 1948 tại Thừa Thiên Việt Nam Du học tại Đức năm 1967 Tốt nghiệp kỹ sư xây dựng năm 1975 Tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ thuật (Dr.-Ing) năm 1980 Từ 1980-1992: làm việc cho công ty ABB tại Đức Từ 1992-2010: Giám đốc một công ty xuất nhập khẩu tại CHLB Đức Từ 2010: nghỉ hưu Nguyễn Tường Bách là tác giả và dịch giả của những cuốn sách nổi tiếng đã xuất bản và tái bản nhiều lần tại Việt Nam. Ông vốn nghiên cứu khoa học, chuyển sang kinh doanh, rồi làm công tác dịch thuật và viết sách nhưng với ông thì “tôi cảm thấy hài lòng nhất với vai trò của một người viết. Công việc này tôi làm tốt hơn mảng khoa học, kinh doanh và dịch thuật bởi qua đó tôi tiếp cận được nhiều người nhất”. Ông chia sẻ: “Tôi có may mắn sống trong những nền văn hóa khác nhau. Tôi mong những người trẻ có cơ hội sống trong những nền văn hóa khác trong một khoảng thời gian hoặc dài hoặc ngắn, nói tiếng nói của người ta, tìm hiểu văn hóa của người ta, qua đó cảm nhận được tính cách của người Việt Nam rõ ràng hơn, khách quan hơn. Ra ngoài không phải là xa Việt Nam. Đi để nhìn lại, để tạo cơ hội nhìn rõ con người mình nhiều hơn. Có xa gia đình mới thấy yêu gia đình của mình thế nào, có xa đất nước mình mới thấy yêu đất nước mình như thế nào.” Tác phẩm đã xuất bản ở Việt Nam Đối diện cuộc đời - Jiddu Krishnamurti, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Phụ nữ, 2004 Con đường mây trắng – Anagarika Govinda, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Trẻ, 2009 Truyện cổ Phật giáo Tây Tạng: Sư tử tuyết bờm xanh - Sury Das, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 2009 Mộng đời bất tuyệt, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2011 Con đường mây trắng – Anagarika Govinda, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Phương Đông, 2011 Đường xa nắng mới, Nxb Hội Nhà văn, 2012 Thiền trong nghệ thuật bắn cung – Eugen Herrigel, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Mộng đời bất tuyệt, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Đêm qua sân trước một cành mai, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Lưới trời ai dệt?, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Mùi hương trầm, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 *** Tập bút ký bạn đọc đang cầm trên tay là tập hợp những bài viết nhân những chuyến du hành của tác giả tại nhiều nơi trên thế giới. Một số bài trong này đã được đăng tải trên các báo và tạp chí xuất bản tại Việt Nam trong những năm gần đây. Đặc biệt, trong phần 2 tập bút ký là những bài viết về chuyến hành hương Ngân Sơn (Kailash), được thực hiện trong mùa hè 2011. Nếu những trải nghiệm trong tập sách này gây được chút thú vị và cảm khái cho người đọc thì đó là niềm vui cao quý cho tác giả. Cuốn sách này được ra đời là nhờ: – Túc duyên kết hợp thành những sự kiện mà sau khi chúng hình thành, tác giả mới kinh ngạc nhận ra. – Những con người đã gặp trên vạn nẻo đường mà tác giả không thể kể hết. – Kinh sách, thông tin, tài liệu về các điều được nhắc đến trong sách. Các nguồn tư liệu quý báu đó được tìm thấy trên đường đi, bằng các cuộc trò chuyện, trong kho sách báo hay trên mạng của những ân nhân vô danh. - Bruno Baumann, nhà thám hiểm người Áo, với những tác phẩm giá trị về Tây Tạng và Ngân Sơn mà tác giả đã học được nhiều điều bổ ích. Bruno Baumann cũng cho phép tác giả được sử dụng tấm ảnh độc đáo của ông để làm bìa cho cuốn Đường xa nắng mới này. - Đỗ Thị Vinh, người bạn đời đã cùng chia sẻ tất cả trên đường du hành và cũng là người đọc lại, góp ý và chỉnh sửa bản thảo cho tác giả. Tác giả trân trọng bày tỏ lòng biết ơn. Nguyễn Tường Bách   Mời các bạn đón đọc Đường Xa Nắng Mới của tác giả Nguyễn Tường Bách.