Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng
LỜI DỊCH GIẢ KÝ GIẢ CHUYÊN NGHIỆP là bản dịch cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST của John Hohenherg, một cuốn sách đang được sinh viên báo chí học và các giới trong các ngành truyền thông đại chúng tìm đọc. Tác giả là giáo sư Báo Chí Học tại Trường Cao Học Báo Chí, Viện Đại Học Columbia, New York từ 1950, và từ 1954 đến nay, Ông là Thư Ký Ủy Ban Cố Vấn các giải thưởng Pulitzer do Viện Đại Học này quản trị. Trước khi đảm nhiệm những chức vụ kể trên, John Hohenherg đã từng là ký giả, trong 25 năm, hoạt động ở Hoa Kỳ cũng như ở ngoại quốc. Năm 1963, ông đã thực hiện một cuộc hành trình qua nhiều thành phố ở Viễn Đông và Nam Á với tư cách một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhờ cuộc hành trình này, ông đã viết được cuốn Between Two Worlds (Giữa Hai Thế Giới) trong đó ông trình bày những liên lạc giữa Á Châu và Hoa Kỳ qua các chính sách, báo chí và dư luận quần chúng. Ngoài ra, ông còn là chuyên viên nghiên cứu báo chí của Trung Tâm Đông Tây (East-West Center) ở Honolulu, Hawaii. Ông viết nhiều cuốn sách chuyên về báo chí học trong số đó có những cuốn: Foreign Correspondence: The Great Reporters and Their Times; The News Media: A Journalist Looks at His Profession; The Pulitzer Prize Story, vân vân. Nhờ những công trình đặc biệt đóng góp cho bộ môn báo chí học, John Hohenherg đã được hai lần giải thưởng Sigma Delta Chi trong những năm 1965 và 1968. Cuốn sách mà chúng tôi phiên dịch đây là nhuận bản lần thứ ba của cuốn THE PROEESSIONAL JOURNALIST do nhà xuất bản Holt, Rinehart và Winston ở Hoa Kỳ phát hành trong năm 1973. Ấn bản thứ nhất đã được ra mắt từ 1960 và được coi như là một tài liêu giáo khoa căn bản cho những ai muốn theo học ngành báo chí. Nhuận bản năm 1969 với nhiều sửa chữa và nhiều tài liệu mới cũng rất được hoan nghênh. So với những bản trước, bản này phong phú hơn nhiều vì trong lời tựa tác giả cho biết có đưa thêm vào rất nhiều tài liệu được cập nhật hóa và thí dụ mới, đề cập nhiều hơn đến các bộ môn truyền thanh, truyền hình, quảng cáo, giao tế quần chúng cũng như các vấn đề mới trong xã hội (tiêu thụ, sinh thái học, vân vân), nghiên cứu sâu rộng hơn các vấn đề xâm phạm đời tư, tự do thông tin và nhất là công việc thâu thập và soạn thảo tin tức, công việc chính yếu của người làm báo. Chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm của John Hohenherg, của một người từng lăn lóc nhiều năm trong nghề và hiện đang giữ một địa vị quan trọng trong ngành giáo dục báo chí Mỹ, có nhiều điều hữu ích cho những người muốn tìm hiểu nghề làm báo và làm tin tức trong các bộ môn truyền thông đại chúng nên cố gắng phiên dịch ra Việt ngữ. Tuy nhiên, trong cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST, vì được soạn thảo cho những người làm báo Anh ngữ nên có một số chi tiết không thích hợp với giới làm báo Việt ngữ ở đây, nhất là những đoạn nói về việc sử dụng Anh ngữ. Bởi vậy, chúng tôi đã bỏ hẳn một số đoạn văn không dịch hoặc chỉ lược dịch một số đoạn văn khác. Dĩ nhiên, đó là công việc giản lược duy nhất và tối thiểu đối với tác phẩm giá trị này. Chúng tôi ước mong cuốn sách dịch này sẽ giúp ích được phần nào cho những ai muốn tìm hiểu kỹ thuật làm báo của nước người đề đem ứng dụng vào nghề này của nước ta ngõ hầu mang lại vài cải tiến nghề nghiệp trong làng báo Việt Nam.   L.T.B. và L.Đ.Đ. *** Trong những năm gần đây, ngành báo chí đã phát triển với quá nhiều chủ đề, vấn đề, thái độ và phương pháp mới khiến cho tôi phải hiệu đính phần lớn cuốn sách THE PROFESSIONAL JOURNALIST trong lần nhuận bản thứ ba này. Cuộc tranh đấu về “quyền được biết” (right to know) của nhân dân đã trở nên gay cấn. Tư thế của nền báo chí tự do và của nhà báo độc lập đã trở thành khó khăn hơn. Kỹ thuật tiến triển mạnh làm cho các phương pháp sản xuất báo chí thay đổi nhanh chóng, nhất là với phong trào bành trướng mạnh ra ngoài trung tâm thành phố và vài ba “tá” băng tần trên đài truyền hình không còn là một ước mơ nữa. Tất nhiên, tinh thần thay đổi trong kỷ nguyên hỗn loạn này đã có ảnh hưởng đến công cuộc giáo dục báo chí ở Hoa Kỳ. Nó sẽ được phản ánh qua những trang sau đây. Trong nhuận bản kỳ này, tôi đã thực hiện hàng trăm sự thay đổi, kèm nhiều thí dụ mới và nhiều trường hợp lịch sử. Những phần về phóng sự điều tra (investigative reporting) và dịch vụ công cộng của báo chí đã được mở rộng thêm cũng như phần nói về luật lệ báo chí bởi vì có sự thay đổi thái độ của tòa án và những phán quyết mới được để lại. Thêm vào đó, có những tài liệu mới về những phần chuyên biệt như giới tiêu thụ hàng hóa, sinh thái học, hội đồng báo chí (press councils) và việc sử dụng những văn kiện “mật”, cùng với những cuộc thảo luận về công việc của các “ký giả mới” (new journalists) và những vấn đề của báo chí truyền thanh và truyền hình. Cuộc phóng người lên cung trăng, những cuộc bang giao mới giữa Hoa Kỳ, Trung Hoa (lục địa) và Nga Sô cùng việc chú tâm đến một lối sống khả quan hơn cho tất cả mọi người Mỹ đã đem đến những kích thước mới cho công việc của ký giả như đã thấy qua vài thành tích mới đây trong công việc của cả báo in lẫn báo phát thanh. Sau hết, trong lần nhuận bản này, tôi dựa nhiều hơn vào những tài liệu của các giải thưởng Pulitzer, đặc biệt là những tài liệu mới với cố gắng là nâng cao những tiêu chuẩn nghề nghiệp của ký giả. Hiệu đính cuốn sách này là công việc thích thú, trước hết bởi vì ấn bản đầu tiên đã được nhiều trường cũng như nhiều tổ chức nghề nghiệp chấp nhận trong chương trình giảng huấn. Về thực chất và các kỹ thuật của nghề báo, trọng điểm vẫn được đặt vào những tiêu chuẩn nghề nghiệp được đem ứng dụng cho các báo ngoại ô và báo tỉnh nhỏ (suburban and small city newspapers) và báo chí phát thanh (broadcast journalism) trong tất cả các giai đoạn. Từ khi đề tài phê bình xã hội (social crititism) đã được trình bày trong cuốn Các Phương Tiện Truyền Thông (The Mass Media), một cuốn sách dùng kèm với cuốn này, đề tài đó thật ra ít được đề cập đến ở đây nhưng không phải là gạt bỏ hẳn. Trong nhuận bản lần này, trách nhiệm báo chí phục vụ quần chúng, tường thuật dư luận, làm tin ở thủ đô Washington và làm thông tín viên hải ngoại, cùng sự quan tâm liên tục về tự do báo chí và xử án công bằng. Nhuận bản mới cũng đề cập nhiều hơn đến sự thực hành và nội dung công việc của báo chí và hãng thông tấn rất ích lợi cho báo đô thị lẫn báo tỉnh và báo ngoại ô. Làm tin về những cuộc xáo trộn trong dân chúng là một trường hợp thích đáng trong lúc này. Cuộc tranh đấu cho bình đẳng là một trường hợp thích đáng khác. Còn nhiều trường hợp nữa mà phần lớn là những vấn đề xã hội to tát của thời đại chúng ta. Cuốn sách được chia làm bốn phần. Phần I trình bày một khái niệm về công việc của ký giả và những phương tiện chính của anh như ngôn ngữ, phương pháp và những thủ tục căn bản. Phần II nói về cách thức sử dụng những phương pháp đó trong ngành báo in cũng như trong ngành bá âm. Phần III chuyên chú vào phóng viên, phần tử nòng cốt của mọi bộ môn báo chí, và bàn về những trách nhiệm, lề lối hành nghề, luân lý chức nghiệp của anh cũng như các luật lệ chi phối báo chí. Phần IV nói đến những khía cạnh mới của báo chí Mỹ, tư trào phục vụ công ích trong các ngành truyền thông, các cách dùng tin đào sâu (depth reporting), diễn giải (interpretation) và phân tích (analysis) trong các cột báo dành cho tin tức (news columns), làm tin về các vấn đề của giới tiêu thụ hàng hóa, về sinh thái học (ecology) cũng như các lãnh vực chuyên biệt khác cùng những thái độ luôn luôn biến chuyển và những đòi hỏi của nghề nghiệp. Tóm lại, hơn 75 trang tài liệu mới và thí dụ mới đã được đem vào nhuận bản lần này. Tôi đặc biệt tri ân Tiến Sĩ Theodore Peterson, Khoa Trưởng Trường Báo Chí và Truyền Thông, Viện Đại Học Illinois, các giáo sư John B. Bremner, thuộc Viện Đại Học Kansas, và Henry F. Schulte, thuộc Viện Đại Học Syracuse, về những lời chỉ dẫn quí báu trong khi làm công việc hiệu đính. Tôi cũng tri ân những vị đã được đề tặng trên cuốn sách này. Tôi chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ tài liệu của những vị sau đây: William Attwood, chủ nhiệm tờ Newsday ở Garden City, New York; Floyd Barger, chủ bút tờ New York Daily News; Barry Bingham Jr., chủ nhiệm và Geoffrey Vincent, chủ bút chủ nhật tờ Louisville Courier Journal và Times; Malcolm A. Borg, phó chủ tịch chấp hành tờ The Record ở New Jersey; Benjamin C. Bradlee, chủ bút tờ Washington Post; Wallace Carroll, Chủ bút tờ Winston-Salem Journal and Sentinel ở Bắc Carolina; Otis Chandler, chủ bút tờ Los Angeles Times; Norman A. Cherniss, chủ bút tờ Riverside Press-Enterprise ở California; Edward R. Cony, chủ bút tờ Wall Street Journal; Reuyen Frank, chủ tịch phân bộ tin tức của hãng NBC; Wes Gallagher, chủ tịch hãng thông tấn The Associated Press, và John O. Koehler, tổng quản trị hãng này; Evarts A. Graham Jr., tổng thư ký tòa soạn tờ Saint Louis Post Dispatch, và David Lipman, phó tổng thư ký tòa soạn báo này; Martin s. Havden, chủ bút tờ Detroit News; James F. Hoge Jr. chủ bút từ Chicago Sun Times; John Hughes, chủ bút tờ Christian Science Monitor; Clayton Kirkpatrick, chủ bút tờ Chicago Tribune; Arthur E. Mayhew, chủ bút tờ Delaware County Times ở Pennsylvania; Bruce H. Mclntyre, chủ bút tờ Pontiac Press ở Michigan; John E. McMullan, chủ bút tờ Philadelphia Inquirer; George Merlis, trong hãng American Broadcasting Company; A.M. Rosenthal, tổng thư ký tòa soạn tờ The New York Times; Richard S. Salant, chủ tịch phân bộ tin tức hãng truyền hình CBS; H.L. Stevenson, chủ bút hãng thông tấn United Press International; Gordon Pates, tổng thư ký tòa soạn tờ San Francisco Chronicle, và Thomas Winship, chủ bút tờ The Boston Globe. Dĩ nhiên, quí vị không phải chịu trách nhiệm về những điều viết trong sách này và tác quyền về những tài liệu được in lại ở đây đã được các tổ chức liên hệ chấp thuận. Lòng tri ân sâu xa nhất, một lân nữa được gửi đến tiện nội Dorothy Lannuier Hohenherg. Đối với thế hệ ký giả mới, tôi xin chúc các bạn may mắn, mạnh khỏe và đạt nhiều thành tích. Viện Đại Học Columbia John Hohenherg Tháng Tám 1972 Mời các bạn đón đọc Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng của tác giả John Hohenberg.
Bạn Chỉ Tưởng Là Mình Đang Rất Cố Gắng
"Trông bề ngoài ngày nào cũng thức khuya, nhưng lại chỉ cầm điện thoại like dạo; trông bề ngoài đi học thật sớm, nhưng trong giảng đường lại chỉ ngủ bù giấc đêm qua, trông bề ngoài ngồi cả ngày trong thư viện, nhưng thực ra chỉ bần thần suốt cả một ngày; trông bề ngoài là đến phòng tập gym, nhưng chỉ để bắt chuyện với mấy anh đẹp trai, mấy nàng xinh gá Bạn thực sự đã cố gắng hay chưa, hay chỉ tưởng là mình đang cố gắng?" Vì sao bạn cố gắng mãi mà không đạt được kết quả như ý? Vì sao ngày nào bạn cũng bận bịu mà chẳng thu được gì? Trong khi đó, có những người đang thực sự sống cuộc sống mà bạn mong muốn. "Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng" là tác phẩm hiện vẫn nằm trong top bán chạy nhất ở Trung Quốc, với 2 triệu bản được tiêu thụ, của cây viết trẻ Lý Thượng Long, mang đến rất nhiều câu chuyện chân thực xoay quanh tác giả, và những chiêm nghiệm, suy nghĩ tràn đầy cảm hứng, giúp cho người trẻ thay đổi tư duy, lối sống trong xã hội hối hả, dễ làm ta mất tập trung, mất phương hướng hôm nay. *** Vì sao bạn cố gắng mãi mà không đạt được thành quả như ý? Vì sao ngày nào bạn cũng bận bịu mà chẳng thu được gì?  Mình chỉ muốn hỏi bạn: Bạn đã cố gắng thật chưa, hay chỉ tưởng là mình đang cố gắng? Có lúc bạn cảm thấy cuộc sống sao mà bất công thế, không lẽ những gì mình làm còn chưa đủ hay sao. Một số người thì gặp tình huống này ở vài lĩnh vực trong cuộc sống, nhưng có những người họ làm gì cũng gặp, đi đâu cũng thấy. Những câu chuyện trong cuốn sách mang đầy hơi thở của cuộc sống, phản chiếu suy nghĩ và khát vọng của lứa tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết. Phải chăng: “Cuộc sống không phải do bản thân trải nghiệm thì không đáng sống”, cố gắng mà không hiểu rõ mình đang cố gắng vì điều gì, lại càng không xứng đáng. Là những trưởng thành của con người khi thời gian trôi qua, ngày hôm nay nhìn lại chúng ta thật khác so với mình của ngày hôm qua. Trường ca về sự trưởng thành của những người trẻ được vun đắp cùng những câu chuyện trong ba phần của Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng. Bài hùng ca ấy được thế hệ trẻ chúng ta đồng thanh cất lên: khi mới bước vào đời, chúng ta mang niềm tin mãnh liệt cùng những suy nghĩ chứng minh bản thân to lớn biết bao nhiêu; khi lớn hơn vài tuổi, chúng ta trải qua những sự mất mát và có những bài học đầu tiên từ nghịch cảnh; và rồi chúng ta đều phải hoàn thiện bản thân, chúng ta phải chấp nhận hiện thực, biết buông bỏ lợi ích cá nhân để những người xung quanh ta được hạnh phúc. Cuốn sách không được tác giả viết ra với những tiêu đề như thế, nhưng ai đã trải qua ngày tháng hăm hở của một tuổi trẻ đều có thể nhận ra. Cuốn sách không được tác giả viết ra nhằm để kể câu chuyện của mình, cũng không để xây dựng một hệ thống người hâm mộ, mà chỉ đơn giản là để thấu hiểu nỗi lòng của người trẻ khi đứng trước lựa chọn: một bên là vực thẳm, bên còn lại là núi cao. Giỏi thôi chưa đủ, bạn có phải không thể thay thế hay không? Có phải bạn đã từng thấy một người giỏi giang vẫn bị công ty lí tưởng của mình từ chối, bị giấc mơ của anh ấy cự tuyệt từ ngoài cửa? Trên thực tế, bạn chỉ cần vẫn còn đọc sách, mỗi ngày không ngủ đến tận trưa, không chơi game đến nửa đêm, không uống rượu tới tận khi trời sáng; vậy bạn chính là một trong số những người đang nỗ lực, một người luôn nhìn về phía mặt trời, luôn nhìn về phía tương lai, nhất định là một người giỏi giang. Sự giỏi giang đó liệu có là đủ hay không? Ở những thành phố lớn, thứ nhiều nhất chính là giấc mơ, thứ không thiếu nhất chính là những người giỏi. Vậy trong vô số những người giỏi đó, một người được chọn cũng đồng nghĩa với một người mất đi cơ hội, thế thôi. Khi bước vào cuộc sống, chúng ta phải học cách quen với tư duy không thể thay thế: một người công nhân cắt cỏ ngày ngày làm xong phần việc của mình cho một gia đình, cứ khoảng ba tháng anh lại lấy một số điện thoại lạ để gọi cho người chủ của mình để hỏi: “Thưa Bà, nhà Bà hiện có tuyển thêm công nhân cắt cỏ nữa không?” – Không! Bà chủ đáp lại. Người bạn của anh ta thấy làm lạ hỏi anh: “Tại sao lại phải gọi điện như vậy?” – Tôi chỉ muốn kiểm tra là tôi có làm việc tốt hay không thôi! anh ta trả lời. Qua câu chuyện trên, bà chủ thấy không cần thiết phải thay thế một người cắt cỏ mới trong khi những phần việc làm của người cũ vẫn tốt. Là người trẻ, giỏi thôi chưa đủ, hãy khiến mình trở nên xuất sắc. Cách để trở nên không thể thay thế thì có hai loại: một là làm những việc người ta không muốn làm; hai là làm những việc người khác đều làm một cách xuất sắc. Trên đời này có rất nhiều người làm những việc người khác không muốn làm, do đó họ trở nên xuất chúng. Trước khi Bruce Lee (Lý Tiểu Long) sang Hollywood, có rất nhiều cao thủ trong giới võ thuật trong giới điện ảnh, nhưng chỉ có ông là sẵn sàng sang Mỹ để phát triển. Kết quả là ông trở thành ngôi sao tầm cỡ thế giới, trở thành nhất đại tông sư, được cả thế giới ca tụng. Lời nhắn gửi trong phần I của Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng là khi còn trẻ chúng ta ấp ủ những ước mơ to lớn hơn bất kỳ khoảng thời gian nào trong đời, chúng ta cần phải biết làm như thế nào cho mỗi khao khát đó, hãy trở nên kiệt xuất, nếu có thất bại thì ít nhất con đường đó cũng không uổng công đâu. Làm gì có cao thủ nào tu luyện mà không phải chịu đựng nỗi cô đơn, mà không phải vất vả khó nhọc; chọn con đường không thể thay thế thì hứng chịu ba cú đấm có hề chi? ***   Giữ lấy sự nhiệt tình đối với bản thân   Cổ Điển - Người sáng lập công ty New Elite Development, Chuyên gia tư vấn đời sống nổi tiếng.   Tôi xem lướt qua tất cả phần mở đầu các bài viết của anh Long, vừa xem vừa buồn cười... trong mười bài đầu thì có chín bài xuất hiện chữ “tôi” ở dòng đầu tiên, gần nhất là ở chữ thứ hai, “theo tôi thấy", xa nhất cũng chỉ ở dòng thứ hai mà thôi.   Tôi nghĩ, một gã phải tự yêu bản thân, lại nhiệt tình và có năng lực quan sát lắm mới viết được như thế, từ câu chuyện của mình mà nhìn cuộc đời, từ cuộc đời của mình mà nói về cuộc đời của người khác (đương nhiên, bệnh của tôi còn nặng hơn, nhìn lại dòng đầu tiên mà xem). Nietzsche là tổ sư viết kiểu này, trong tác phẩm Ecce Homo của mình, ông đã bắt đầu viết “tôi” ngay từ phần mục lục: 1, Tại sao tôi lại có trí tuệ như vậy; 2, Tại sao tôi lại thông minh như vậy; 3, Tại sao tôi lại viết ra cuốn sách hay như vậy.   Nhưng, cũng may đây đúng là một cuốn sách thực sự liên quan đến “bản thân”.   Mark Twain từng kể về việc viết văn của mình thế này: Ông thường ngồi trước trang giấy trắng suốt mấy giờ đồng hồ, viết rồi lại xóa, cho đến khi viết được một câu “thực sự ra câu”. Sau đó ông tự nhủ: “Nếu ta viết được một câu, ta chắc chắn có thể viết ra câu tiếp theo.” Cứ thế, cho đến khi hoàn thành cả cuốn sách.   Tôi có cảm giác, cuốn sách này cũng được viết ra như thế. Đây là một cuốn sách về “tôi” - một người trẻ tuổi, tất cả các câu chuyện đều bắt đầu bằng “Một người bạn của tôi”, đến “Tôi phát hiện”, sau đó kết thúc bằng “Tôi cảm thấy”. Qua những câu chuyện này, anh Long bàn luận về vấn đề “Bạn chỉ giả bộ cố gắng”, tuyên bố “Tôi đã trưởng thành rồi, buông tay đi”, nói cho bạn biết “Khi từ biệt, cần phải để tâm một chút", bàn về “Ai là người tốt với bạn” và “Đừng kết hôn với người mình quá yêu.” Có lúc tôi phải cảm thán, một người thuộc thế hệ 9x, không ngờ lại có tư tưởng thú vị như thế...   Nếu bạn cũng giống tôi, là một người lớn lên ở những thành phố và nông thôn đang phát triển nhanh chóng, trải qua tuổi thanh xuân tàn khốc trong sự kìm kẹp ở trường cấp III, trường đại học, lăn lộn kiếm sống giữa xã hội phức tạp, mà vẫn ôm trong lòng mộng tưởng, vậy thì bạn không thể tránh khỏi những vấn đề này. Kiểu như một người ôm theo con thỏ nhỏ mà mình yêu quý chen vào tàu điện ngầm vậy, những vấn đề ấy giống như những người xa lạ với gương mặt mơ hồ chen chúc ập đến bạn, bạn không thể tránh né, chỉ có thể đối mặt mà thôi.   Bởi vậy, đây là một cuốn sách chân thực. Những câu chuyện trong sách đều là thực, quan điểm dù đúng dù sai, cũng đều chân thành. Nếu nhìn từ góc độ học thuật, những câu chuyện về “người bạn của tôi” như vậy đều không danh tính, diện mạo mơ hồ, khó mà trở thành chứng cứ để lập luận được. Nhưng đọc xong ngẫm lại tận tường, lại cảm thấy chúng rất chân thực và hoàn chỉnh. Bạn gần như có thể tìm được ngay một người tương tự trong cuộc sống thực. Giống như những câu chuyện cười mà bạn kể về “một người bạn” vậy, người nghe đều biết đó chính là bạn.   Tôi từng trịnh trọng viết thế này: “Từ góc độ chuyên nghiệp của một chuyên gia tư vấn đời sống, tôi thấy có rất nhiều điểm cần phải mài giũa. Một số quan điểm còn có sự xung đột, một vài suy nghĩ còn thiếu hệ thống. Nhưng tư duy như vậy đã là hiếm có lắm rồi.” Viết như vậy thể hiện tôi khá lý tính và chuyên nghiệp, về sau, tôi cũng gạch bỏ câu này đi, vì nói như thế không chân thực.   Tuổi trẻ thực sự, không phải là như thế.   Tuổi trẻ thực sự là vô tri, khi đến tuổi trung niên ngoảnh đầu nhìn lại mới phát hiện, hóa ra chúng ta chẳng biết quái gì về cuộc đời, xã hội, và tình cảm cả. Nhưng lúc này, xin hãy giữ lấy sự vô tri đáng quý đó.   Tuy rằng chúng ta không hiểu thế giới này, nhưng không hiểu sao chúng ta lại cảm thấy mình có thể đi khắp thế giới, tuy rằng chúng ta không hiểu về tình yêu, nhưng lần nào chúng ta cũng dốc hết trái tim ra mà yêu; tuy rằng chúng ta bị hiện thực dập cho sứt đầu mẻ trán, nhưng chúng ta vẫn vô cùng lạc quan, nhận định rằng thế giới này sẽ nhờ mình mà thay đổi.   Cuối cùng, thế giới này thực sự đã thay đổi vì những người như thế.   Sự vô tri quý báu ấy, là thứ mạnh mẽ nhất.   Gibran nói: "Bạn không thể cùng lúc sở hữu cả tuổi trẻ lẫn tri thức về tuổi trẻ, vì tuổi trẻ bận rộn với kế sinh nhai, không có thời gian tìm tòi học hỏi, còn tri thức lại bận rộn với việc tìm kiếm bản thân, không thể hưởng thụ cuộc sống." Vì vậy, tuổi trẻ cần ngông cuồng một chút, trung niên cần vững vàng một chút, già rồi thì cần trang nghiêm một chút. Nếu lúc trẻ bạn không ngông cuồng, đến khi có tuổi lại không kiềm chế được nữa, thành ra lưu manh.   Bởi thế tôi cảm thấy đọc cuốn sách này còn sảng khoái hơn đọc mấy loại sách trống rỗng nhạt toẹt, không nói về người sống kiểu như Hai mươi triết lý cuộc đời mà bạn không thể không biết nhiều; thực tế hơn một cuốn sách dịch chẳng biết từ tiếng nước nào về tiền lệ thành công của ai đấy, mở đầu bằng “Hồi Zuckerberg còn nhỏ..." hoặc là "Max là CEO của công ty xxx ở thung lũng Silicon"... đừng nói là thung lũng Silicon, những người dịch sách ấy có khi còn chưa đặt chân đến Trung Quan Thôn 1cũng nên. Đừng nói lý thuyết, đừng kể chuyện người khác, mà hãy nói về bản thân anh. Việc bản thân anh làm, niềm vui của bản thân anh, nỗi đau của bản thân anh, mới là mạnh mẽ nhất.   Đừng hỏi thế giới này cần cái gì, hãy là chính bản thân mình, điều thế giới này cần là chính bạn.   Hãy giữ lấy lòng nhiệt thành đối với "bản thân", giữ lấy sự vô tri quý báu của thời tuổi trẻ này.   Bởi vì, thế giới này thay đổi chính nhờ những người như bạn.   Mời các bạn đón đọc Bạn Chỉ Tưởng Là Mình Đang Rất Cố Gắng của tác giả Lý Thượng Long.
Thông Minh Cảm Xúc 2.0 - Nâng Cao EQ Để Hạnh Phúc & Thành Công
Trong thời đại ngày nay, những thuật ngữ như “Trí Tuệ Cảm Xúc”, “Thông Minh Cảm Xúc” hay “EQ” đã trở nên không còn xa lạ gì với đại đa số chúng ta. Các nhà tuyển dụng hàng đầu dùng EQ như một tiêu chí đo lường trình độ của ứng cử viên, bên cạnh tay nghề chuyên môn. Các doanh nghiệp khôn ngoan sẵn sàng đầu tư công sức và tiền bạc vào rèn luyện EQ cho nhân viên nhằm nâng cao hiệu suất làm việc. Đó là về công việc, còn về đời sống cá nhân thì sao? Trong khi mối quan hệ giữa người và người (bạn bè, vợ chồng, cha mẹ - con cái…) ngày càng phức tạp, thì EQ xuất hiện như một thành tố thiết yếu giúp hàn gắn sợi dây tình cảm, kết nối tình thâm. Nếu bạn đã đọc qua quyển sách “Thông Minh Cảm Xúc để Hạnh Phúc & Thành Công” của cùng hai tác giảTravis Bradberry & Jean Greaves, chắc hẳn bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy EQ đóng vai trò quan trọng đến thế. Được viết cách nhau sáu năm, quyển sách thứ hai “Thông Minh Cảm Xúc 2.0 – Nâng cao EQ để hạnh phúc & thành công” chứa đựng những kỹ thuật cực kỳ cụ thể và thực tiễn nhằm giúp độc giả không chỉ hiểu mà còn thật sự tăng cường được EQ của mình. *** Cảm nhận về quyển sách Thông Minh Cảm Xúc 2.0 “Vạn vật đều có nhận thức, duy chỉ có loài người sở hữu trí thông minh phi phàm. Tùy thuộc vào dòng chảy của những suy nghĩ và cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực, điều khiến loài người chúng ta thật sự khác biệt chính là khả năng mang lại những thay đổi tích cực. Thông Minh Cảm Xúc 2.0 giải thích một cách cô đọng và súc tích cách xử lý cảm xúc một cách sáng tạo và vận dụng trí thông minh của chúng ta theo chiều hướng có lợi cho bản thân.” ĐỨC ĐẠT LAI–LẠT MA “Một quyển sách súc tích với những câu chuyện đầy sức thuyết phục cùng nội dung hấp dẫn giúp bạn thấu hiểu và cải thiện mình.” NEWSWEEK “Các phương pháp rất đáng xem về những kỹ năng trí tuệ cảm xúc đã biến quyển sách này thành cuốn cẩm nang nổi bật nhất trong tuần của chúng tôi. Thật vui khi biết rằng chỉ số thông minh (IQ) trung bình của một người không giới hạn người đó ở mức thành tích trung bình.” NEWSDAY “Quyển sách này tiết lộ cho bạn những phát hiện phong phú và thực tiễn cùng kiến thức về tầm quan trọng của việc phát triển chỉ số thông minh cảm xúc (EQ). Nghiên cứu đã chứng minh một cách thuyết phục rằng EQ trong nhiều vai trò còn quan trọng hơn cả IQ và quan trọng hơn gấp nhiều lần đối với những người lãnh đạo.” STEPHEN R. COVEY, tác giả của quyển sách bán chạy nhất The 7 Habits of Highly Effective People (7 Thói Quen Thành Đạt) “Trí tuệ cảm xúc là một kỹ năng đặc biệt quan trọng để thành công trong sự nghiệp và cuộc sống. Đây là một quyển sách tuyệt vời mà bạn nên đọc.” KEN BLANCHARD, đồng tác giả quyển sách kinh doanh bán chạy nhất mọi thời đại The One Minute Manager (Vị Giám Đốc Một Phút) “Các khách hàng của tôi thường là những người thành công và vô cùng bận rộn. Quyển sách này chuyển tải vốn hiểu biết quý báu mà không hề làm lãng phí thời gian của bạn. Những huấn luyện viên của tôi và bản thân tôi đã đạt được những thành tích to lớn nhờ vào quyển sách này. Đây là những kỹ năng quan trọng để làm việc hiệu quả.” MARSHALL GOLDSMITH, tác giả sách bán chạy nhất What Got You Here Won’t Get You There (Điều Đưa Bạn Đến Đây Sẽ Không Đưa Bạn Đến Đó), chuyên gia huấn luyện hàng đầu do tạp chí Forbes, Thời báo phố Wall, The Harvard Business Review và Fast Company bình chọn. “Cuối cùng cũng có một quyển sách nói về phương pháp chứ không chỉ là lý thuyết. Chúng ta không cần được thuyết phục thêm về mức độ quan trọng của trí tuệ cảm xúc đối với thành công trong cuộc sống. Điều chúng ta cần là những cách thức thực tế để tăng cường trí tuệ cảm xúc. Quyển sách mới và xuất sắc của tác giả Bradberry và Greaves mà bạn đang cầm trên tay đúng là của trời cho. Nó sẽ thay đổi cuộc đời bạn.” JOSEPH GRENNY, đồng tác giả sách bán chạy nhất Crucial Conversations (Những Cuộc Đối Thoại Cốt Yếu) “Quyển sách này chứa đựng những lời khuyên sáng suốt đầy cảm hứng và thiết thực, bắt nguồn từ những nghiên cứu công phu. Những phương pháp hiệu quả mà các tác giả đưa ra có sức mạnh thay đổi cách bạn nhìn nhận cuộc sống, công việc và thế giới.” Thuyền trưởng D. MICHAEL ABRASHOFF, tác giả quyển sách bán chạy It’s Your Ship (Con Tàu Của Bạn) “Nếu bạn băn khoăn tự hỏi tại sao sự nghiệp của mình sa lầy hoặc mãi giậm chân tại chỗ – hoặc đơn giản nếu bạn muốn thăng tiến thật nhanh – thì đây chính là quyển sách mà bạn phải đọc. Trí tuệ cảm xúc là điều cực kỳ cần thiết để thành công trong công việc, và quyển sách này mang đến cho bạn một sự khởi đầu nhanh chóng cho việc phát triển những kỹ năng và cách cư xử cần thiết để bổ sung cho chuyên môn của bạn.” Tiến sĩ LOIS P. FRANKEL, tác giả sách bán chạy nhất Nice Girls Don’t Get The Corner Office (Phụ Nữ Thông Minh Không Ở Góc Văn Phòng) do Thời báo New York bình chọn “Quyển sách này là tiếng gọi thức tỉnh dành cho bất kỳ ai muốn có sự cải tiến đáng kể trong công việc và củng cố các mối quan hệ. Tiến sĩ Bradberry và Greaves, thông qua những nghiên cứu đáng tin cậy, đã đưa ra những phương pháp thực tế và những câu chuyện lôi cuốn làm thay đổi cách chúng ta suy nghĩ về bản thân và tương tác với những người mà chúng ta quan tâm nhất.” JIM LOEHR, tác giả sách bán chạy The Power of Full Engagement (Sức Mạnh Của Toàn Tâm Toàn Ý) do Thời báo New York bình chọn “Tôi đã mua tặng quyển sách này cho cả nhóm của mình. Chúng tôi thấy nó rất hữu ích khi làm việc với nhau và giao dịch với khách hàng trong nước. Theo cách nói thông dụng trong vài năm qua, thì trái tim và linh hồn của văn hóa doanh nghiệp chính là cách họ ủng hộ và nâng cao trí tuệ cảm xúc. Những người nhìn xa trông rộng sẽ nhận ra rằng trí tuệ cảm xúc giúp phân biệt những công ty tốt với những công ty hàng đầu. Quyển sách này là công cụ tuyệt vời cho phương pháp tiếp cận từ gốc rễ. Nếu bạn mong muốn trở thành một nhà lãnh đạo có sức ảnh hưởng thật sự, được mọi người tin tưởng và ủng hộ, quyển sách chính là cơ hội không chỉ giúp bạn nâng cao nghề nghiệp chuyên môn mà còn làm mới các mối quan hệ cá nhân của bạn.” REGINA SACHA, phó chủ tịch hội đồng quản trị, phụ trách nhân sự, FedEx Custom Critical “Với nhịp sống nhanh đến chóng mặt ngày nay, người ta dành nhiều thời gian cho bàn phím máy tính, điện thoại di động và các cuộc gọi hội đàm hơn là gặp mặt nói chuyện. Chúng ta phải ráp nối những mẩu đối thoại không đầu không đuôi, những hộp thư thoại khó hiểu và những mẩu tin nhắn đầy chữ viết tắt để biết phải làm gì tiếp theo. Trong mạng lưới ngày càng phức tạp này, trí tuệ cảm xúc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Quyển sách cung cấp những thông tin và hiểu biết vô giá mà không ai có thể bỏ qua.” RAJEEV PESHAWARIA, giám đốc điều hành Goldman Sachs International “Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã tạo ra một quyển cẩm nang vừa hiệu quả vừa dễ đọc. Quyển sách này thâu tóm những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Thành công ở Hollywood cũng khó khăn như trong bất cứ ngành kinh doanh nào, thế nên kỹ năng về trí tuệ cảm xúc là vô cùng cần thiết. Tôi thật lòng khuyên bạn nên đọc quyển sách này.” MATT OLMSTEAD, giám đốc sản xuất loạt phim Prison Break và NYPD Blue “Đây là một quyển sách tuyệt vời, thiết thực và hữu ích trong đó chứa đựng nhiều công cụ và kỹ thuật mà bạn có thể sử dụng để hòa hợp với tất cả những người bạn tiếp xúc trong cuộc sống.” BRIAN TRACY, tác giả quyển sách bán chạy Eat That Frog (Để Hiệu Quả Trong Công Việc) “Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã thành công trong việc tạo ra một tài liệu thực tiễn về trí tuệ cảm xúc. Đơn giản nhưng không sơ lược, đây là quyển sách dành cho những nhà quản lý và nhân viên muốn tìm hiểu nhanh nhưng vẫn đầy đủ về trí tuệ cảm xúc. Quyển sách này và chương trình đào tạo của TalentSmart® góp phần quan trọng trong chương trình đào tạo nhân viên và ban quản lý tại Nokia.” Thạc sĩ JENNIFER TSOULOS, bộ phận nhân sự, Nokia Mobile Phones “Bạn hãy sẵn sàng giấy bút để ghi chép những thông tin tràn ngập trong sách. Quyển sách tuyệt vời này chứa đựng vô số kiến thức có giá trị và lời khuyên cực kỳ hữu ích – dựa trên những chứng cứ khoa học vững chắc. Thành thật mà nói thì đây là quyển sách quý giá nhất mà lâu lắm rồi tôi mới được đọc. Tôi sẽ tặng nó cho tất cả bạn bè và khách hàng của mình như một quyển sách không thể bỏ lỡ.” JIM BELASCO, đồng tác giả quyển sách bán chạy Flight of the Buffalo (Để Nhân Viên Lãnh Đạo) do Thời báo New York bình chọn “Quyển sách này là tài liệu tuyệt vời đối với chúng tôi, những người cung cấp dịch vụ cứu hỏa cho công chúng. Thông qua những bước đơn giản, hiệu quả nêu trong sách, tôi có thể học và thực hành kỹ năng trí tuệ cảm xúc cần thiết để hỗ trợ khách hàng tốt hơn trong những tình huống dầu sôi lửa bỏng. Quyển sách là công cụ hữu ích cho hầu hết các đội trưởng trong việc tăng cường hiệu quả làm việc theo nhóm và đẩy mạnh tinh thần đồng đội.” DOMINICK ARENA, đội trưởng đội Cứu Hỏa thành phố Escondido, California “Trí tuệ cảm xúc là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại sau cùng của người thầy thuốc. Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã xoáy trúng vào tâm điểm với nguồn tài liệu có cơ sở và kịp thời này. Tôi giảng dạy về trí tuệ cảm xúc trong chương trình phát triển lãnh đạo của khoa, và tôi cũng hướng dẫn cho các sinh viên y khoa. Tôi có thể hình dung được quyển sách này được lồng vào chương trình giảng dạy y khoa như thế nào.” Tiến sĩ DIXIE FISHER, phó giáo sư lâm sàng, Trường Y Khoa Keck, USC “Những thành công trong kinh doanh của tôi là nhờ có sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các Giám đốc Điều hành (CEO) trong các công ty đầu tư của chúng tôi. Tôi tin chắc rằng quyển sách này đã nói đúng điều đó. Trí tuệ cảm xúc cá nhân đóng vai trò quyết định kết quả hơn bất kỳ yếu tố nào khác, nhưng ta lại có ít kiến thức về nó nhất. Đây là một quyển sách mà các nhà quản lý phải đọc để hiểu biết sâu sắc hơn và lập kế hoạch nâng cao hiệu quả cũng như thành công cho tổ chức của họ.” RICK HOSKINS, giám đốc điều hành, Genstar Capital, LLC Mời các bạn đón đọc Thông Minh Cảm Xúc 2.0 - Nâng Cao EQ Để Hạnh Phúc & Thành Công -  của tác giả Travis Bradberry & Jean Greaves.
Tài Ăn Nói Của Người Đàn Ông
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, những người biết ăn nói thường tận dụng triệt để khả năng giao tiếp, trò chuyện của mình để thuyết phục người khác, giúp mọi việc thuận lợi, suôn sẻ. Có thể nói, biết cách nói chuyện, bạn sẽ có mối quan hệ giao tiếp tốt, đó cũng là điều kiện tiên quyết để bạn xây dựng nền tảng cơ bản cho cuộc sống hạnh phúc, sự nghiệp thành công. Cuốn sách Tài ăn nói của người đàn ông của Hoàng Văn Tuấn tiết lộ với các bạn những bí quyết giúp người đàn ông thành công trong giao tiếp, trong công việc và cuộc sống hàng ngày. *** Trong các trường hợp xã giao, xuất phát từ nhu cầu phép lịch sự hoặc công việc, bạn thường phải tự giới thiệu mình. Một nhà tâm lý học nước ngoài đã đưa ra 5 thái độ và phương thức cần chú ý khi tự giới thiệu bản thân như sau: 1. Phải bình tĩnh và đầy tự tin. Đối với những người tự tin, nói chung mọi người sẽ nhìn bằng con mắt khác hẳn. Nếu bạn có lòng tự tin, đối phương sẽ có thiện cảm đối với bạn. Ngược lại, nếu bạn sợ sệt hoặc bối rối làm cho quan hệ đôi bên gặp phải trở ngại. 2. Trong các trường hợp giao tiếp công cộng, nếu bạn muốn làm quen với một ai đó, tốt nhất hãy tìm kiếm trước các tư liệu thông tin liên quan tới đối phương, chẳng hạn như tính cách, sở trường hoặc ý thích cá nhân. Có được những tư liệu này rồi, sau khi tự giới thiệu mình, sẽ dễ dàng nói chuyện làm cho mối quan hệ được dung hoà. 3. Khi bày tỏ mình mong muốn được làm quen với đối phương, cần phải nhiệt thành. Bất kỳ ai cũng cảm thấy được người khác mong muốn làm quen là một vinh hạnh. Nếu thái độ của bạn nhiệt tình, thì phản ứng nhận được cũng sẽ tương tự. 4. Khi tự giới thiệu mình, cần biết dùng ánh mắt để biểu đạt thiện ý, sự quan tâm và mong muốn quan hệ của mình. 5. Sau khi biết được họ tên của đối phương rồi, đừng ngại nhắc lại một lần nữa, vì bất cứ ai cũng đều thích thú khi nghe tên của mình, làm cho anh ta có cảm giác tự hào và thoả mãn. 2. Những điều cần tránh khi tự giới thiệu 1. Không nên quá phô trương sự nhiệt tình, những động tác như bắt tay thật mạnh hoặc nhiệt tình vỗ vào mu bàn tay của đối phương có thể làm cho đối phương cảm thấy ngạc nhiên. 2. Không ngắt lời người khác để tự giới thiệu mình, cần đợi thời cơ thích hợp. 3. Không nên có thái độ hời hợt, cần tôn trọng đối phương, bất kể nam hay nữ cũng đều muốn người khác tôn trọng mình, đặc biệt là mong muốn người khác tôn trọng những ưu điểm và thành công của họ. Vì vậy, khi tự giới thiệu mình cần tỏ ra trang trọng. 4. Nếu muốn làm quen với một ai đó, cần phải chủ động, không nên chờ đợi đối phương chú ý tới mình. 5. Không nên chỉ quen biết với một nhân vật đặc biệt nào đó, nên quan hệ rộng rãi với nhiều người. 6. Nếu một người trước đây bạn đã từng gặp rồi mà họ chưa nhớ ra tên của bạn, thì cũng không nên đưa ra những lời mang tính chất nhắc nhở. Phương pháp tốt nhất là ngay lập tức tự giới thiệu mình một lần nữa.   Mời các bạn đón đọc Tài Ăn Nói Của Người Đàn Ông của tác giả Hoàng Văn Tuấn.