Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cửa Hiệu Tự Sát
Trong Cửa Hiệu Tự Sát - Jean Teulé đã đưa quyền được chết trở thành một thứ quyền được công nhận, nơi các công cụ trợ tử trở nên phổ biến, cái chết trở thành sự cứu rỗi cho hy vọng. Thế giới trở nên phi lý, sự sống cũng trở nên phi lý, loài người phải làm thế nào để có thể giữ được những giá trị nhân bản ngay trong cuộc sống vô nghĩa này, làm thế nào để có thể lấp đầy trái tim bằng tình yêu, tìm được hạnh phúc trong thân phận phi lý của con người? *** Tác giả Jean Teulé sinh năm 1953, là nhà văn, tác giả truyện tranh, biên kịch phim điện ảnh và truyền hình người Pháp.  Một số tác phẩm của ông từng xuất bản như: Rainbow pour Rimbaud (1991), Darling (1998), Ô Verlaine! (2004), Je, François Villon (2006), Le Magasin des suicides (2007), Le Montespan (2008), Mangez-le si vous voulez (2009). *** Review của Jenny Lu về sách Cửa Hiệu Tự Sát: " Bạn đã sống dở ư? Với chúng tôi, bạn sẽ chết tốt " Thử tưởng tượng một nơi mà tự tử là một việc hợp pháp, hơn nữa , được khuyến khích. Nghe có vẻ điên rồ nhưng đây chính là bối cảnh của tác phẩm - Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống. Câu chuyện xoay quanh gia đình Tuvache, có truyền thống " trợ tử " hơn mười đời. Cửa hàng của họ thật tăm tối , không có một tia sáng mặt trời nào và chỉ có ánh sáng tù mù từ đèn ne-ông như nhà xác. Họ cũng không bao giờ cười, luôn luôn tiễn khách hàng bằng câu " Xin vĩnh biệt". TRong cửa hàng luôn là những dụng cụ ghê rợn như dây treo cổ , thuốc độc , súng , ... và khách hàng luôn nhận được lời tư vấn nhiệt tình ( nhưng cũng rợn hết sức) . Ông bà Tuvache nhồi nhét vào đầu con cái họ những điều bi quan , những thảm họa , những tư tưởng muốn chết. Tuy nhiên , họ bó tay với đứa con út - Alan Tuvache- một đứa trẻ luôn lạc quan và giúp họ " khuynh gia bại sản" Nửa đầu cuốn sách là một màu xám u ám , càng về sau khi Alan dần dần thay đổi suy nghĩ của ba mẹ mình thì những màu sáng mới được vẽ lên. Nó không phải là một cuốn sách buồn về cái chết , mà lại là một cuốn sách vừa bi vừa hài , cảnh hài hước đã xuất hiện ngay từ đầu cuốn sách ( lần đầu tiên đọc một cuốn sách về đề tài này mà cười nhiều đến vậy) Mỗi một khách hàng tìm đến cửa tiệm với những lý do khác nhau và có cả tất cả các độ tuổi. Người tìm đến vì bệnh tật hoặc vì chán nản, ... Có những lý do rất quen thuộc với mình. Một trong những đoạn ấn tượng nhất là : " - Sao con lại vẽ chị ấy đang bận rộn và xinh thế hả? Con biết rõ là chị ấy luôn nói mình là đồ vô dụng và xấu lắm kia mà? -Nhưng con , con thấy chị ấy xinh - Marilyn đưa hai lòng bàn tay lên bịt tay, bật khỏi chiếc ghế đẩu và chạy biến về phía cuối cửa hàng" Mình từng trải qua những cảm xúc thật tồi tệ , như nhân vật Marilyn. Cũng đã từng thử các phương pháp ... nhưng đương nhiên là không thành công. Qua những kháh hàng chán sống đó , dường như tác giả muốn gửi gắm rằng bất kỳ một lý do , mọi lứa tuổi , chỉ cần cảm xúc tiêu cực xuất hiện , là đủ đưa họ đến với cái chết. Vì vậy đừng thờ ơ với nhưng người xung quanh mình. Nói chung cuốn sách khá đáng đọc , có những đoạn khá cảm động , chỉ tiếc cho cái kết khá bi thương và gây khó hiểu. " Sứ mệnh của Alan vậy đã được hoàn thành , nó liền buông tay ra " Thật sự không hiểu sao Alan lại phải tự tử nữa trong khi là nguời lạc quan nhất? Hay đó là một cách để tác giả làm cho độc giả phải lưu luyến? p/s : Mình đọc bản cũ , dưới tựa " Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống" *** Cửa hiệu tự sát được viết bởi nhà văn người Pháp Jean Teulé. Tác phẩm này từng được chuyển thể thành phim hoạt hình của Pháp mang tên “The Suicide shop” được phát hành vào năm 2013. Cửa hiệu tự sát kể về một thế giới không có thực, ở đó cuộc sống trở nên phi lý, con người có quyền được lựa chọn cái chết. Tại nơi đó có một cửa hiệu mang tên “Cửa hiệu tự sát”- nơi bán tất cả những vật dụng giúp con người có thể tự kết thúc cuộc sống của mình. Xã hội loài người phải làm thế nào để có thể mang lại ý nghĩ tồn tại? Là tình yêu? Cái gì là Ánh sáng của nguồn sống cho thế giới của họ? Một thế giới giả tưởng đầy tăm tối và chết chóc Là một cuốn sách thuộc thể loại “Phản địa đàng” (Dystopia) – thể loại sách viết về một thế giới được xây dựng từ nền tảng là thế giới mà con người hiện nay đang sống. Tuy nhiên Cửa hiệu tự sát lại là một thế giới đen tối hơn rất nhiều, đó có thể là một thế giới được gây dựng nên sau khi thế giới bị hủy diệt, hậu tận thế, hoặc một chính phủ bị lật đổ. Tuy nhiên, đây cũng là một thể loại sách rất nhân văn. Viết về cái chết để ca ngợi hạnh phúc được sống, là một cách thức để châm biếm và đả kích vào những mặt trái đang tồn tại trong xã hội loài người mà vô tình bị lãng quên hoặc buộc phải chấp nhận. Phản địa đàng là một thể loại sách khá khó đọc vì nó thường rất đen tối, khiến người đọc dễ rơi vào cảm giác nặng nề và đọng lại nhiều suy ngẫm. Nếu muốn thử trải nghiệm một thể loại sách mới, nếu muốn mở rộng cảm quan đọc của bạn thì Cửa hiệu tự sát là một khởi đầu hợp lý vì sự nhẹ nhàng tương đối của nó. Cửa hiệu tự sát hoàn toàn không phải là một tác phẩm kinh dị như cái tên mà nó gợi ra và nó cũng là một cuốn sách đỡ đen tối hơn rất nhiều so với các tác phẩm cùng thể loại. Giữa một xã hội mà cái chết được coi là khởi đầu cho mọi hy vọng, việc tự sát hoàn toàn được công nhận, người ta luôn nghĩ đến cái chết đầu tiên khi gặp bất cứ một nỗi buồn hay sự cố nhỏ nào trong cuộc sống. Cửa hiệu tự sát đề cập đến cái chết một cách tự nhiên như con người chúng ta thường nói về sự sống, thế giới được miêu tả bản chất là đen tối nhưng lại được kể một cách hài hước- một kiểu hài hước lấy ra từ những vấn đề chẳng hài hước chút nào- Đó là cách kể chuyện thường thấy của những bộ phim thuộc thể loại “Hài kịch đen” (Black comedy). Thực trạng của xã hội – “Trào lưu” tự sát Cuốn sách miêu tả rất ít ỏi về thế giới bên ngoài, tất cả những sự việc xảy ra chỉ gói gọn trong không gian của Cửa hiệu- Nơi sinh sống và buôn bán những vật dụng để giúp con người ta tự sát – của gia đình Tuvache gồm một cặp vợ chồng và ba người con lần lượt tên là Vincent, Marilyn và cậu con trai út khác biệt Alan. Những vị khách của Cửa hiệu tự sát, họ để những áp lực, sự buồn chán và nỗi cô đơn đeo bám vào cuộc đời mình khiến bản thân họ tàn tạ, thảm hại tới mức chính họ cũng phải cảm thấy nực cười và ghê tởm. Không cần những viên kẹo độc, không cần những lưỡi dao cạo sắc bén hay sợi dây thừng thắt cổ. Chỉ cần đưa cho những vị khách một chiếc mặt nạ bằng nhựa màu trắng phi nhân cách, trên mũi chiếc mặt nạ gắn một cái gương vậy là đủ để họ cười sặc sụa, thấy ghê tởm mà dẫn đến một cơn đột quỵ. Câu chuyện mà Cửa hiệu tự sát mang đến không phải là thực trạng của một thế giới tưởng tượng. Tự sát là một tình trạng đáng báo động có thực của xã hội con người. Xã hội càng phát triển, con người càng dễ bị cô lập, trầm cảm và tìm đến cái chết. Điều gì khiến một con người được tạo hóa ban cho sự sống, nhưng lại sợ cảm giác được sống? Con người thường bận tâm về những điều người khác nói về mình, thay vì tự yêu thương và chăm sóc, trân trọng những điều bản thân đang sở hữu. Marilyn – con gái của cặp vợ chồng chủ Cửa hàng tự sát là “ người thiếu nữ đẹp nhất khu phố! Không một cô gái trẻ nào trong khu phố Những Tôn Giáo Bị Lãng Quên có thể bằng cái mắt cá chân của cô (Vì cô vô cùng xinh đẹp)”. Tuy nhiên suốt nhiều năm, Marilyn luôn tự ti về bản thân, đó là bởi bố mẹ của cô luôn nói rằng cô thật xấu xí và vô dụng. Nếu con người được nghe quá nhiều về cùng một điều, họ sẽ tin điều đó là đúng. Marilyn cũng vậy. Còn anh trai của Marilyn – Vincent, đó là một cậu bé thông minh và có vô vàn những ý tưởng. Nhưng tài năng ấy lại luôn bị định hướng xuôi theo những góc nhìn tiêu cực và thậm tệ nhất. Bởi vậy, con người không trở nên bất hạnh vì xấu xí và ngu dốt. Cuộc sống là thiên đàng hay địa ngục tùy vào góc nhìn của mỗi con người. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới đen tối và dường như hoàn toàn không còn hy vọng. Sự ra đời của cậu bé Alan – Con trai út của cặp vợ chồng chủ Cửa hiệu tự sát giống như sự cứu rỗi mà Thượng đế đã ban tặng đến một nơi tăm tối như vậy. Cậu bé khác tất cả những người trong gia đình, khác tất cả những người khách mỗi ngày đến cửa hiệu. Cậu luôn vui tươi, lạc quan và hạnh phúc. Cậu bé làm mòn những lưỡi dao cạo, làm đứt những sợi dây thừng để thắt cổ, loại bỏ những viên kẹo độc trong lọ… và nói những điều lạc quan nhất đến với những khách hàng của gia đình – Alan làm trái tất cả những thông điệp kinh doanh của gia đình.  Alan là hiện thân cho tâm hồn thánh thiện và luôn tràn đầy lạc quan của một đứa trẻ hạnh phúc. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới dễ liên hệ đến thế giới của những người lớn, một thế giới mà con người giành phần nhiều thời gian của mình để làm việc và áp lực từ chính thứ công việc đó. Họ không biết cách để kết nối với người khác và luôn cảm thấy bản thân thật cô đơn, ngu dốt và nhạt nhòa. Bởi vì họ quá bận tâm tới việc làm hài lòng tất cả mọi người thay vì quan tâm tới cảm nhận của bản thân mình. Alan đã nói với một cô gái trẻ muốn được tìm đến cái chết vì “những người đồng nghiệp cho rằng cô là một người ngu ngốc” rằng: “Đó là vì cô thiếu tự tin. Vì thế cô trở nên long ngóng, nói những điều sai thời điểm. Nhưng nếu cô biết chấp nhận hình ảnh của chính mình trong chiếc mặt nạ này và yêu thương hình ảnh đó…”, “Trước tiên cô hãy kết bạn với cô gái ấy và những người khác sẽ làm theo như vậy”. Không có một cuộc sống hoàn hảo, cũng không bao giờ có được những con người hoàn hảo. Hãy luôn giữ một thái độ tích cực trước những điều bản thân còn thiếu sót và học cách tha thứ cho chính mình, đó cũng là bước đầu để nhìn cuộc sống và những người khác một cách tích cực nhất. “Cuộc đời là như thế. Nó đáng giá của nó. Nó làm những gì có thể, nó cũng có những sai lầm. Không nên đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Đến mức phải tự sát.” Một cuốn truyện rất ngắn với một cái kết dài và khó lý giải Cửa hiệu tự sát chỉ dài vỏn vẹn 188 trang giấy. Tuy nhiên lại đề cập được một thực trạng rất lớn và được toàn xã hội quan tâm – Vấn nạn của việc tự sát ngày càng gia tăng, con người coi thường cơ hội được sinh ra và tồn tại. Viết về một xã hội tối tăm nhưng không sử dụng những câu từ nặng nề, đáng sợ hay lớn lao. Thông điệp thật sự được ẩn chứa đằng sau những tiếng cười hài hước. Và một tác phẩm ngắn hoàn toàn không chứng tỏ rằng nó hời hợt, phần lớn tên các nhân vật, từ chính tới phụ rồi tới các địa danh trong truyện đều là những tìm hiểu tỉ mỉ của tác giả Jean Teulé, đằng sau mỗi cái tên ấy là một câu chuyện về những người nổi tiếng đã lựa chọn tự sát để kết thúc cuộc đời mình.  Cửa hiệu tự sát cũng có một kết thúc khá khó hiểu và mang đến nhiều suy ngẫm. Nhất định sẽ có những độc giả cảm thấy, cảm xúc của mình trước đấy giống như bị phản bội. Điều gì ẩn sau cái kết ám ảnh và khó hiểu đó? Cuối cùng sau tất cả, Là tươi sáng hay tăm tối? Là nụ cười hay nước mắt?  Hà Thúy Ngà Mời các bạn đón đọc Cửa Hiệu Tự Sát của tác giả Jean Teulé.
Cô Gái Vượt Thời Gian
Cô gái vượt thời gian là câu chuyện về Yoshiyama Kazuko, một nữ sinh trung học bất ngờ sở hữu khả năng vượt thời gian. Khi đang dọn dẹp trong phòng thí nghiệm hóa học, Kazuko bỗng nghe thấy tiếng thủy tinh vỡ. Từ trong ống nghiệm vỡ tan tành, một mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. "Mình biết mùi hương này!"Kazuko thoáng nghĩ. Và giây tiếp theo, cô mất ý thức, ngã xuống nền đất lạnh. Để tìm ra nguyên nhân của những bí ẩn xảy đến với mình, Kazuko buộc phải trở về quá khứ, thời điểm nguồn cơn của mọi rắc rối mà cô gặp phải.Tại đây, cô đã tìm ra kẻ thủ phạm gây nên mọi chuyện, thế nhưng cùng với đó là một sự thật khiến cô đi từ tức giận, kinh ngạc, cho đến xúc động, luyến tiếc… Không đơn thuần là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, Cô gái vượt thời gian còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. Cô gái vượt thời gian còn được chuyển thể rất nhiều lần thành phim truyền hình, phim điện ảnh và manga. Trong đó, thành công vang dội nhất phải kể đến bản live-action năm 1983 của đạo diễn Nobuhiko Obayashi và bản anime năm 2006 của đạo diễn Mamoru Hosoda, siêu phẩm từng oanh tạc doanh thu phòng vé Nhật Bản, đồng thời rinh về nhiều giải thưởng danh giá. *** Tác giả: Yasutaka Tsutsui Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: - Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka) - Kyoko sendan, Yume no kizaka bunkiten (đoạt giải thưởng văn học Tanizaki Junichiro) - Papurika, Watashino guranpa (đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... Gần đây, ông còn tham gia diễn xuất trong những vở kịch, phim điện ảnh và cả phim truyền hình. *** Review sách Cô Gái Vượt Thời Gian, Nguyễn Khánh Huyền:   Vì việc ra mắt khá lặng lẽ, Cô gái vượt thời gian không được xem là bom tấn của năm đó nhưng bộ phim được xem là một trong những phim thành công nhất năm 2006 và nhận được nhiều đánh giá tốt trong các liên hoan phim mà bộ phim tham dự. “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. Không đơn giản là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, " Cô gái vượt thời gian " còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. *** “Cô gái vượt thời gian” gồm ba mẫu truyện ngắn: “Cô gái vượt thời gian”, “Chân tướng của ác mộng” và “Vũ trụ đa nguyên”. Tác giả tập trung khai thác yếu tố viễn tưởng thông qua từng câu chuyện, ở mỗi câu chuyện là những bí ẩn khác nhau và đều được ông lí giải cặn kẽ, nhưng tất cả không chỉ là những cuộc phiêu lưu khám phá những điều huyền bí đơn thuần, mà còn chất chứa cả những tâm tư, tình cảm ngây ngô của tuổi mới lớn. Truyện ngắn “Cô gái vượt thời gian” đã từng được chuyển thể qua rất nhiều thể loại truyện tranh, anime, kịch, phim truyền hình,…, Trong đó, gần nhất và được giới trẻ biết đến rộng rãi nhất hẳn phải kể đến anime movie The girl who leapt through time do Mamoru Hosoda đạo diễn, nhưng bản thân cốt truyện gốc lại khá đơn giản. Những rắc rối, phiền muộn xảy ra với Yoshiyama và cả việc giải quyết chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng vài ngày. Giọng văn đơn thuần và mộc mạc đứng từ góc nhìn của Yoshiyama – một cô gái chỉ mới 15 tuổi, nên tình tiết câu chuyện dù dồn dập cũng không quá hồi hộp hay khiến người đọc phải bối rối mà tạo một cảm giác cuốn hút vừa đủ. Trong một ngày học tập bình thường như bao ngày, tình cờ nghe phải một mùi oải hương quen thuộc, sau khi ngất xỉu và tỉnh dậy, Yoshiyama bỗng dưng có được siêu năng lực: cô có thể “vượt thời gian” và quay lại những thời điểm trong quá khứ. Có được năng lực này, Yoshiyama không hề háo hức mà ngược lại rất e dè và lo lắng, chỉ mong sao có thể sớm trở về trạng thái bình thường. Và thế là hành trình đi tìm lời giải của cô bắt đầu. Nhưng “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. “Vũ trụ đa nguyên” là nơi tác giả thể hiện quan niệm của mình về thuyết thế giới song song, khi cho rằng vũ trụ mà ta sinh sống là một “tấm màn vải dệt từ rất nhiều những sợi chỉ dọc và ngang”, mà thế giới có lịch sử là sợi chỉ dọc, còn sợi chỉ ngang đại diện cho thời gian đã chia thế giới có lịch sử thảnh vô vàn những thời điểm khác nhau. Bằng câu chuyện bi hài của Nobuko khi du hành từ thế giới này sang thế giới khác, gặp gỡ bản thân mình và những người chung quanh trong những phiên bản khác nhau, tác giả đã thể hiện một tâm lí thường thấy ở con người: Thật kì lạ rằng khi chúng ta đã có thể sống một cuộc sống mình mơ ước, người bên cạnh cũng là một phiên bản mà chúng ta kỳ vọng, nhưng chúng ta vẫn luôn hoài niệm và chỉ mong có thể trở về thế giới cũ mà thôi. Khác với hai câu chuyện còn lại, “Chân tướng của ác mộng” không khai thác những yếu tố viễn tưởng mang tính vĩ mô như thế giới song song hay du hành thời gian mà chỉ đơn thuần là quá trình Masako “hoá giải” nỗi sợ hãi của em trai mình, cũng như chính ám ảnh về cây cầu dài và chiếc “mặt nạ quỷ” của bản thân. Truyện ngắn gợi nhiều hình ảnh kinh dị và ghê rợn, nhưng khi khám phá ra thì lại đầy bất ngờ và dễ thương. Sự gắn bó giữa Masako và Bunichi, cách mà họ cùng nhau vượt qua những nỗi sợ hãi, hay tình bạn trong sáng của Masako và Etsuko, và cả sự trưởng thành, mạnh mẽ lên của Yoshio, luôn được tác giả lồng ghép khéo léo trong nội dung của câu chuyện. Trong những truyện ngắn của Yasutaka Tsutsui, các nhân vật luôn dễ dàng chấp nhận và đương đầu mỗi khi có thách thức mới đến. Cũng như dễ dàng tha thứ, bỏ qua cho nhau dù đã phải chịu nhiều rắc rối vì đối phương. Nét đặc biệt nhất của “Cô gái vượt thời gian” có lẽ chính là ở đó, sự đơn thuần và dễ mến trong tính cách của từng nhân vật, sự tin tưởng và những tình cảm ngây ngô, hồn nhiên đều khiến người đọc thấy thoải mái và nhẹ nhàng. Có thể nói, “Cô gái vượt thời gian” là nơi Yasutaka Tsutsui thể hiện những quan điểm của mình về các giả thuyết viễn tưởng, bằng cách giản đơn và dễ hiểu nhất. G1nergy Takoyaki Mời các bạn đón đọc Cô Gái Vượt Thời Gian của tác giả Yasutaka Tsutsui.
Bóng Đêm
"Bóng đêm" tái hiện lại bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Nếu ai đó có tham vọng đi tìm sự thật trong "Bóng đêm" so với vụ việc đã xảy ra ngoài đời như thế nào để đánh giá mức độ chân thực của tiểu thuyết thì quả là vô ích. Bởi hiện thực ở đây chỉ là đường viền, là cái khung cho bức tranh tưởng tượng, sáng tạo của tiểu thuyết. Sau tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời các chiến sĩ, một hệ luận kiêu hãnh và cũng thật xót xa có thể chín muồi, xuất hiện trong tác phẩm: Những con người mang sứ mệnh đối diện với bóng đêm, chống lại tội ác, có mặt trên đời này không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích. Trước khi cài hoa trên ngực thì cũng có không ít những Trừng, Nhâm đã đối diện với cái chết, sự mất mát, phải đau đớn dằn vặt về thể xác...  *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Bóng Đêm Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Tươi mát hết xẩy chứ, các chú? Nhưng cẩn thận jish[1] đấy! - Cho to tiếng lên một tí nữa, ông chủ! - Có hiểu tiếng Tây đ. đâu. Chỉ thấy nó la hét như điên như dại thôi! - Khoái hai cái lỗ mát quá! Đúng không bố, hạnh phúc quả là sự thỏa mãn những cái lỗ trên người. - Chú nào nói chí lý đấy! Đàn ông là bảy lỗ, tức thất khổng. Còn đàn bà là cửu khổng, chín lỗ, các chú ạ. - Ông chủ này! Thằng kia trông như Việt Cộng ấy nhỉ! Còn con kia, đàn bà mà hở răng cửa là đại dâm đấy. Ông có thấy nó giống Từ Hy Thái Hậu không? - Khẽ chứ, Gióoc[2] đấy! Lặng lẽ, trong làn sáng ao ảo hắt ra từ mặt chiếc màn hình khổ rộng và cái bóng đèn mờ gắn trên trần, bốn cặp trai gái trong bốn ngăn buồng nhỏ như chuồng chim đang ôm ấp, quặp riết thân thể nhau. Ông chủ của cõi giới nửa thiên đường nửa địa ngục đội lốt quán Karaoke là một lão già đeo cặp kính lão mắt tròn từ thời Sêkhốp, dáng vẻ phong lưu, trí thức. Mặc bộ quần áo lanh nhuộm chàm người Tày, khuy vải, chòm râu cố đạo như một phần của cái cằm vuốt dài ra, săn chắc như một tên áp tải thuốc phiện lậu đường rừng, lão đang nghênh nghênh tai. Hình như lão đang nghe tiếng rao báo từ ngoài phố vọng vào. Mặc lão chủ, tám cặp mắt của bốn đôi trai gái, trong mấy căn buồng nhỏ vẫn hau háu dán vào màn hình. Phim con heo Đài Loan, Hồng Kông hay Pháp, Đức? Chẳng cần biết. Giống nhau tuốt. Nghĩa là chẳng có cốt truyện đếch gì cả. Chàng gặp nàng. Bố già gặp gái tơ. Choai choai gặp chanh cốm. Gã hám của lạ gặp ả nạ dòng. Toàn loại mới thoạt nhìn thì mũ cao áo dài, xiêm y lộng lẫy, ra dáng thượng lưu, công tử, con nhà có giáo dục lắm. Nhưng gặp nhau mới chỉ dăm ba câu giao đãi đã nồng nã lôi nhau lên giường trút áo, tháo váy, cởi xu chiêng, trăm phần trăm trần trụi. Chẳng còn một giới hạn tối thiểu nào cho sự câu nệ, dè dặt, xấu hổ gọi là. Ấy thế, đã chơi phải chơi cho lệch mới xinh! Cuộc trưng bày đùi vế, vú vê thật là có một không hai. Dẫu sao cũng phải công nhận bọn gái làng chơi trong những pha cụp lạc này đẹp mê hồn đi. Toàn loại co quắp ra co quắp. Vú như trái lê, trái táo, mẩy mang, sù sụ. Đùi thì đùi nào đùi nấy vừa rảnh như đùi dế, vừa phộp phạp, vừa săn lẳn, vừa dài muôn muốt. Mà chẳng có mờ mờ ảo ảo gì hết. Cứ trần trùng trục, lồ lộ và cận cảnh ráo. Trắng lốp. Đỏ hoen hoét. Phúng phính. Rậm rì như nửa thú nửa người. Thở hồng hộc. Rên rỉ. La thét thành con cái con đực tuốt. Ngồi ôm một con bé mười sáu tuổi ở ngăn buồng sau cùng, là một gã đàn ông gầy gùa, da như nhuộm chàm, mắt lồi ba góc. Những pha làm tình trên màn hình khiến gã run bần bật. Con bé ngồi trong lòng gã, giữa vòng tay xiết chặt của gã cũng vậy. Đấy là lần đầu tiên gã đến cái động mại dâm trá hình này. Con bé do gã đưa đến. Gã gặp nó ở một quán bia ôm. Nó kêu mới ở nhà quê lên, đang tìm chỗ làm, nhưng thật ra là một con điếm lõi đời. Trên màn hình, một thằng đen vùa đè dập một con trắng xuống đất. Gã cũng lập tức dằn ngửa con bé, vập mặt vào vũng hõm sâu giữa cặp vú cương cứng của con bé và tay quài ra sau lưng tìm cái nút gài của chiếc xu chiêng còn đang vướng víu trên co nó, thì nó đă ưỡn người lên, há mồm ngoạm vào môi gã. - Thích không? - Lỗ nẻ trên đất cũng còn thích nữa là. - Sợ cá không? - Vớ vẩn. - Trông có vẻ nhát nhúa mà tợn quá thế! -Hừ! Con bé như vùng dậy. Sao bỗng dưng thằng đàn ông lại ngẩng đầu lên và hai tay nới lỏng lưng nó. Nó nhoai lên, đưa tay vít đầu gã. Trời! Đầu người gì mà gồ ghề, nổi u nổi cục. Mà da mặt thì như nhuộm chàm, trong khi hai con mắt bỗng dưng trắng dã như phát sáng và như là nhớn nhác thế. Trên màn hình đang diễn ra cuộc làm tình tập thể của hai đứa con gái và một thằng con trai. Ba cái thân hình chuồi chuội, díu vào nhau, tạo nên một quái tượng có ba đầu, sáu tay. Con bé bị kích thích cao độ. Lần này. nó kéo mạnh. Và gã đàn ông gần như ngã đè lên nó. Nhưng nó nhận ra gã đàn ông lại run lẩy bẩy như nhiễm lạnh. Trên màn hình, cảnh đã chuyển. Một thằng da màu đang hôn hít một con da nâu. Con bé da nâu có thân hình thăn lẳn gợi cảm hết sức. Nó quẫy. Nó rít. Môi nó chằm bập. Chà, thì cái con bé đang nằm dưới gã đây có kém gì! Cứ như là nó đang lên cơn động rồ. Vậy thì cơn động dục nhất định phải bùng nổ. Rộn rực nóng ran khắp người, gã cúi xuống há to miệng, cắn vào vai bên trái con bé. Con bé rướn người lên và trong động tác này của nó, lẽ ra gã sẽ trương căng cái vùng bụng dưới và hai bắp đùi mới phải, thì trái lại, bỗng dưng gã như quả bóng xì hơi, bẹp dí và oải ra từng mồi thẻo cơ bắp trên hai cánh tay. - Chèn đét ôi! Mần cái chi mà như ma xó thế! - Phải nói là em đẹp đến dã man. Trong thân hình em, cái gì đáng to thì to, đáng nhỏ thì nhỏ. - Đồ đểu! - Em ơi, giống đực và giống cái là phát minh quan trọng nhất của thiên nhiên đó. Đàn bà phải được đặc quyền hưởng thú vui xác thịt, em à. - Dâm vô tang, đạo vô tích, sợ quái gì!   Mời các bạn đón đọc Bóng Đêm của tác giả Ma Văn Kháng.
Kỵ Sỹ Không Đầu
Main Rid sinh năm 1818 tại Bắc Ailen và mất năm 1883 tại Luân Đôn. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu bé rất có cá tính, can đảm, ưa thể thao, thích đi đây đi đó mặc dù xuất thân trong một gia đình đã mấy đời làm linh mục. Vào năm hai mươi tuổi, ông bỏ nhà, vượt Đại Tây Dương sang chây Mỹ. Tuy nhiên khác với những kẻ hướng về vùng đất mới với ước mong khi trở về nặng túi, Main Rid ra đi với lòng khao khát tự do và khám phá những thế giới mới. Ở Mỹ Châu, dấu chân ông ngang dọc khắp nơi, ông làm đủ nghề: giáo viên, buôn bán, săn bắn, đồng thời còn là phóng viên chuyên viết phóng sự, làm thơ, làm nghệ sỹ, viết văn. Năm 1847 cuộc chiến tranh giữa Hoa kỳ và Mếch-xích bùng nổ, ông gia nhập đội quan những người tình nguyện, nhưng sau đó ông đã nhận ra đây chỉ là một cuộc chiến tranh ăn cướp. Rồi ông bị thương nặng. Chính trong thời gian chữa vết thương ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình “Những mũi tên tự do” được in ở Anh năm 1849. Và từ đó, tức là khi quay về lại châu Âu ông đã lần lượt cho ra đời một loạt các tiểu thuyết đặc sắc “Những kẻ săn da đầu” “Ôxkêôla thủ lĩnh bộ lạc Xêminol” “Những người Kvaterôn”. Tiểu thuyết “Kỵ sỹ không đầu” ra đời năm 1865 là quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Main Rid, được đông đảo bạn đọc trên nhiều nước nhiệt liệt hoan nghênh. KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU mở ra cho bạn đọc thấy một chương bi thảm và hùng tráng trong lịch sử của mảnh đất Tếchdơt hoang sơ ngày đó. Đó là câu chuyện về mối tình nồng cháy giữa chàng trai săn ngựa hoang Moric Gieran dũng cảm, hào hiệp và nàng Luiza kiều diễu khao khát tự do. Biết bao hoạn nạn đã đến với đôi trai tài gái sắc này, song tình yêu của họ đã vượt lên hết thảy. Đó cũng là câu chuyện kể về mối xung đột dữ đội giữa một bên là những kẻ đầy dã tâm xâm chiếm đất đai, phá hoại hạnh phúc lứa đôi và sẵn sàng giết người như đại úy giải ngũ Kôlhaun, bọn “Mèo rừng” “Sói đồng”... với một bên là những con người trung thực, giàu nghị lực, biết tôn trọng nhân phẩm và sự công bằng như già Zep Xtump, chàng trai Henri... Qua câu chuyện rùng rơn, khốc liệt mang màu sắc phiêu lưu hoang dã, hấp dẫn bạn đọc này, Main Rid giúp chúng ta thấy rõ quá trình xâm nhập của các địa chủ Mỹ tới các vùng đất Mếchxich, cho thấy sự phân hóa của xã hội và ngay cả trong từng gia đình thời bấy giờ, cho thấy quan hệ người với người căng thẳng và thù địch trên mỗi bước đi. Cũng qua đó ông khẳng định quyền tự do, quyền bình đẳng cho mọi màu da, lên án chế độ nô lệ và coi đó là một vết nhơ làm ô nhục nước Mỹ, đồng thời ông cũng nói về những người da trắng nghèo khổ mà địa vị xã hội của họ cũng chẳng khác gì so với những người nô lệ. Vào cuối đời, Main Rid còn đến châu Mỹ một lần nữa. Lúc này Châu Mỹ đã hoàn toàn biến đổi. Nó không còn là đất nước của những người khai phá gan dạ mà là đất nước của sự kinh doanh, cạnh tranh gay gắt. Song những trang sách thời ấy của ông vốn thắm đượm tình yêu con người. lòng dũng cảm, tính cao thương vẫn mãi mãi truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho những trái tim trẻ tuổi tiếp tục làm những điều thiện cho đời. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU với bạn đọc. *** Con hươu vùng Tếchdớt đang mơ màng trong đêm tĩnh mịch của trảng cỏ mênh mông chợt nghe thấy tiếng vó ngựa. Nhưng nó cũng chưa vội rời bỏ chỗ nằm, thậm chí còn chưa chịu nhỏm dậy. Khoảng không bao la này đâu phải chỉ có mình nó. Lũ ngựa hoang thảo nguyên cũng gặm cỏ ở đây vào ban đêm. Chú hươu chỉ rướn đầu lên - cặp sừng của nó đã nhô ra sau đám cỏ - nó nghe ngóng: tiếng động có lặp lại hay không? Một lần nữa tiếng vó ngựa lại vọng đến, nhưng bây giờ thì nó vang lên một cách khác. Có thể phân biệt được, cả tiếng kim loại, tiếng đập của vỏ thép vào đá sỏi. Đối với chú hươu tiếng động đó thật là nguy hiểm, khiến hành động của nó thay đổi ngay lập tức. Bật nhảy chồm lên và lao vút đi, nhưng ngay sau đó nó chợt đứng lại và ngoảnh ra sau, nó muốn biết: kẻ nào đã xáo động giấc ngủ của nó? Và trong ánh trăng vằng vặc chú hươu đã kịp nhận ra kẻ thù nguy hiểm nhất: đó là con người. Một người cưỡi ngựa đang tiến gần lại. Bị một nỗi sợ hãi bản năng xâm chiếm, chú hươu chực phóng tiếp. Nhưng có một cái gì đó trong diện mạo của người kỵ sỹ, một cái gì đó thật kỳ dị đã giữ chân nó lại. Con hươu dường như chỉ đứng trên hai chân sau, đầu ngoảnh lại, vừa run sợ vừa tiếp tục nhìn. Trong đôi mắt nâu mở to của nó ánh lên nỗi kiếp sợ và ngạc nhiên. Cái gì quái lạ trong hình dạng kỳ dị kia làm chú hươu chết lặng chăm chăm nhìn như vậy? Con ngựa ư? Không đây là một con ngựa rất bình thường được đóng yên cương cẩn thận - con ngựa rõ ràng không thể gợi lên cho nó nỗi ngạc nhiên và sợ hãi nào. Thế thì chú hươu chỉ có thể sợ người kỵ sỹ. Đúng như vậy! Người kỵ sỹ đã làm chú hươu khiếp sợ. Diện mạo người ấy có cái gì đó hết sức khủng khiếp, trái tự nhiên. Trời! Người kỵ sỹ không có đầu! Đến một con vật không lý trí cũng nhận ra điều đó. Ngay từ giây phút đầu tiên nhận ra, chú hươu đã hoảng hốt, không tài nào hiểu nổi: cái gì vậy? Kinh hoảng, nó bỏ chạy. Nó còn chưa dừng lại khi nào còn chưa bơi qua con sông Lêông và dòng nước cuồn cuộn còn chưa ngăn cách nó với người kỵ sĩ đáng sợ kia. Không hề chú ý đến chú hươu đang hoảng hốt bỏ chạy, dường như không biết đến sự hiện diện của nó, người kỵ sĩ không đầu tiếp tục con đường của mình. Kỵ sĩ cũng đi về phía con sông, nhưng chàng không hề vội vã, cả người và ngựa, bằng những bước chân long trọng, tiến bước chậm rãi, im lìm. Người kỵ sĩ không thốt ra một lời nói, cũng không có một cử chỉ nào thúc giục con ngựa, mà dường như đang chìm sâu vào những suy tư của mình, kỵ sĩ nới lỏng tay cương và con ngựa mệt mỏi gặm cỏ. Bỗng có tiếng rú của bọn sói thảo nguyên, con ngựa ngẩng lên, thở phì phì và dừng lại. Như đắm mình trong những tình cảm thấm sâu nào đó, nên những sự việc nhỏ bé không kéo được chàng ra khỏi trạng thái đăm chiêu. Không một tiếng động nào có thể hé mở được bí mật của chàng. Con hươu hoảng hốt, con ngựa, bầy sói và vầng trăng nửa đêm là những người duy nhất chứng kiến sự đăm chiêu trầm lặng ấy của chàng. Kỵ sĩ khoác trên vai một tấm xerap1 rộng, khi gió giật, tấm choàng phồng lên làm che lấp một phần thân hình. Chàng mang đôi ghệt bằng da báo để tránh hơi ẩm ban đêm và những cơn mưa rào nhiệt đới. Chàng đi về phía trước, lặng lẽ như những vì sao lấp lánh trên đầu, thờ ơ như tiếng dế kêu ri rỉ trong cỏ, như ngọn gió đêm vờn trên những nếp áo choàng. Cuối cùng hình như có một cái gì đó cũng kéo được kỵ sĩ ra khỏi mối trầm tư - con ngựa của chàng chuyển nước kiệu rồi lắc đầu và hý lên vui mừng - nó rướn cổ lên chạy về phía trước, lỗ mũi phập phồng và trong khoảnh khắc đã phóng nước đại. Con ngựa càng lao nhanh khi dòng sông hiện ra gần trước mắt. Kỵ sĩ chưa dừng lại chừng nào chưa đến với dòng nước trong vắt và nước chưa dâng lên đến đầu gối chàng. Con ngựa vục mõm uống hối hả. Khi đã thỏa mãn cơn khát, nó bơi qua dòng sông và bằng một bước nhảy vọt, con ngựa nhanh nhẹn lao lên bờ dốc. Đến bờ, kỵ sĩ dừng lại, như chờ cho ngựa rũ nước. Tiếng dây cương, tiếng bàn đạp loảng xoảng trong đám mây bụi nước. Kỵ sĩ không đầu hiện lên trong vầng sáng đó và tiếp tục con đường của mình. Con ngựa chắc đã bị đinh thúc dồn và bị cương giật nên nó không còn đủng đỉnh nữa mà phi chạy một cách thành thạo về phía trước, như trên con đường mòn quen thuộc. Phía trước, trảng cỏ mênh mông trải tận chân trời. Và trên nền xanh thẳm của bầu trời nổi lên hình dạng kỳ dị, giống như một con nhân sư bị phạt cụt. Hình dạng kỳ dị đó xa dần cho tới khi biến đi trong ánh trăng tà huyền ảo. Mời các bạn đón đọc Kỵ Sỹ Không Đầu của tác giả Main Rid.