Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Và Màn Đêm

Mùa đông năm 1992 Trong khuôn viên của một trường trung học danh tiếng ở miền Nam nước Pháp, dưới bóng đêm đen, trên màn tuyết trắng, ba người bạn bị số phận đưa đẩy cùng chia sẻ một bí mật khủng khiếp!  Và một cô gái đã bị màn đêm cuốn đi!  Hai mươi lăm năm sau  Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường, ba người bạn học hội ngộ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa xuất hiện cùng với nguy cơ quá khứ bị khơi dậy!  Cô gái năm xưa có trở lại? Đâu là bộ mặt thật của màn đêm? Làm thế nào để băng qua đêm đen?  Với đặc quyền cùng tài năng thiên bẩm của một tiểu thuyết gia, Guillaume Musso sẽ giúp độc giả khám phá ra sự thật trong khi không phút nào hết sững sờ. *** Nhi Nguyễn's review Jan 19, 2019 Lời đầu tiên, phải nói là mình cực thích địa điểm diễn ra câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết này, vùng Côte d’Azur nằm bên bờ Địa Trung Hải của Pháp, nơi mà tiếng Anh gọi là French Riviera. Vùng đất này, cùng thành phố Nice (một trong những thành phố mình muốn đến thăm nhất nếu có cơ hội được du lịch đến Pháp, sau Lyon, Strasbourg và dĩ nhiên là Paris) đẹp đến nỗi không thốt nên lời được (những lời văn của bác Musso chỉ miêu tả được phần nào vẻ đẹp ấy thôi, còn tốt nhất là các bạn cứ google hình ảnh của vùng này để mà chiêm ngưỡng :D). Vùng đất ấy có ngôi trường quốc tế mang tên St. Exupéry (ơ bác Musso lấy cả tên của bác tác giả “Hoàng Tử Bé” đặt tên cho trường kìa hi hi hi :D), nơi mà 25 năm trước, vào một đêm mùa đông giá lạnh của năm 1992, một cô nữ sinh trẻ tuổi tên là Vinca Rockwell đã được cho là bỏ trốn cùng với tình nhân của mình – thầy giáo dạy Triết học Alexis Clément. Câu chuyện mở đầu bằng một xác chết mặt mũi bầm dập trên một mỏm đá hướng ra biển, để rồi tua lại vài ngày trước đó, khi Thomas – người kể chuyện – trở về mái trường năm xưa để dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường. Bên trong con người Thomas là một bí mật động trời đã luôn ám ảnh anh suốt 25 năm qua, bí mật liên quan đến sự biến mất của Cô gái Vinca vào Màn đêm bất tận của năm 1992. Để rồi từng bước từng bước, khi độc giả theo dấu Thomas điều tra, khám phá ra những ngóc ngách còn kinh hoàng hơn nữa của cái tấn bi kịch trong cái đêm định mệnh ấy, theo sau lời đe dọa trả thù của một kẻ thù bí mật, thì sự thật hóa ra còn hơn cả những gì một tiểu thuyết gia như Thomas có thể tưởng tượng ra. Đúng như danh tiếng bấy lâu nay của bác Musso, bác đúng là “the plot twist King” đỉnh của đỉnh, khi những gì Thomas phát hiện ra đã thực sự khiến mình muốn rớt hàm, phải nói là khiến mình rất nhiều lần thốt lên “What da fuck?”, da gà thì nổi khắp người. Và không chỉ có một cú plot twist, tác giả đã cài cắm rất nhiều sự thật, nhiều phát hiện động trời mà đúng là chỉ có bộ não như Musso mới có thể nghĩ ra. Từng khúc quanh, ngã rẽ dẫn dụ người đọc vào một mê cung, trong đó mỗi nhân vật đều có dây mơ rễ má buộc chặt số phận của họ lại với nhau, và chính giữa mê cung ấy là Vinca Rockwell – cô gái tóc hung với đôi mắt hai màu, nữ thần quyến rũ, là tâm điểm chú ý và đối tượng ái tình của rất nhiều người những năm đầu thập niên 90, trong đó có Thomas – chàng trai luôn khác biệt so với những người còn lại. Và như lời một nhân vật trong truyện, hoặc nhận xét của một nhà phê bình đằng sau cuốn sách, câu chuyện của “Cô gái và Màn đêm” thực sự là một cuộc len đỏ, mà chỉ cần tìm đúng đầu dây và kéo ra, thì toàn bộ sự thật sẽ tuôn trào; ghê gớm hơn, sự thật ấy còn như một bọng máu, vỡ bục ở đoạn cuối và đi theo một hướng không ai có thể ngờ. Ái tình có sức mạnh ghê gớm đến vậy sao? Và con người chúng ta, những sinh thể phàm trần ấy, chúng ta sống những cuộc đời nào, che giấu những bí mật gì, bàn tay vấy máu những ai, và làm sao chúng ta có thể sống tiếp mà vẫn mang trong mình những bí mật ấy, những bọc máu ấy? Cách kể chuyện xen lẫn giữa hiện tại và quá khứ của Thomas cùng nhiều nhân vật khác đã phả vào câu chuyện đậm chất trinh thám này một nét hoài cổ mà mình rất thích. Có thể dễ dàng tìm thấy điểm chung giữa “Cô gái và Màn đêm” với một tác phẩm khác nữa của Musso, đó là “Cô gái Brooklyn”. Cả hai đều là câu chuyện về những cô gái với danh tính và số phận bí ẩn, cùng hành trình khám phá sự thật của những chàng trai, hành trình kéo dài chỉ trong vòng 1, 2 ngày, đưa đẩy người đọc cùng nhân vật chính đi từ khám phá này đến khám phá khác (hình như Musso là một trong những tác giả hiếm hoi có thể viết nên những câu chuyện chỉ kéo dài trong 1, 2 ngày ngắn ngủi đó mà lại khiến người đọc không rời mắt được khỏi trang sách). Cá nhân mình thì vẫn thích “Cô gái Brooklyn” hơn, vì nhịp điệu câu chuyện này hồi hộp, mang tính bất ngờ và gây nghiện hơn “Cô gái và Màn đêm”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là Musso đã một lần nữa cực kỳ thành công khi cho ra đời một “Cô gái và Màn đêm” hấp dẫn và xuất sắc đến như thế này. Mình đọc ngấu nghiến những trường đoạn cuối, khi sự thật được hé lộ, những khúc mắc được lý giải và Thomas làm lành với quá khứ chỉ trong sáng nay. Guillaume Musso có lẽ là một trong những tác giả hiếm hoi mà 400 trang sách của bác ấy, mình đọc hết chỉ trong 2 ngày cuối tuần ha ha ha :D :D :D *** Ôi trời đất ơi. Thật sự là một cú lừa. Guillaume Musso từ lâu đã là tác giả yêu thích của tớ, ít nhiều chính là do những quả plot twist không ngờ được ở cuối truyện. Cô Gái Và Màn Đêm cũng là một trò lừa tâm trí của Musso đối với người đọc, bởi độc giả đã bị Musso dẫn dắt vào mê cung ngay từ đầu truyện. Tác giả đã kích thích trí tò mò của người đọc bằng việc mở đầu một vụ án giết người để mà từ đó làm tiền đề, hé lộ ra quá khứ đen tối ẩn sau cuộc đời của ba người bạn cũ: Thomas, Fanny và Maxime. Cô Gái Và Màn Đêm có nội dung xoay quanh Vinca – một cô gái bí ẩn và là bạn học cùng trường của ba người bạn phía trên. Hơn nữa, Vinca cũng chính là giấc mơ, là mối tình thầm lặng của cậu học trò Thomas 18 tuổi ngày ấy. Tuy nhiên vào đêm Mười chín tháng mười hai năm 1992, cuộc sống của tất cả bọn họ đã vĩnh viễn thay đổi: Vinca biến mất một cách bí ẩn, người tình của cô là Alexis cũng không rõ tung tích. Cho đến 15 năm sau ở buổi kỷ niệm 50 năm thành lập trường, bóng ma của Cô gái Màn Đêm một lần nữa trỗi dậy, bủa vây lấy ba người bạn cũ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa cùng với mối hận của Màn đêm tái hiện, gào thét đòi một sự thật tưởng như đã bị chôn vùi trong bức tường của nhà thể chất. Cái hay ở tiểu thuyết Musso đó là khả năng khơi gợi được sự hồi hộp của người đọc. Một khi đã đọc thì hoàn toàn bị cuốn theo mạch truyện tưởng như không dời mắt ra được luôn. Cô Gái Và Màn Đêm với mạch truyện rõ ràng, tội ác đan xen tội ác, vụ án chồng chất vụ án, và đủ để làm xoắn não độc giả, tung cho họ một hỏa mù. Những khi tưởng như đã biết chắc được thủ phạm nhưng hóa ra hoàn toàn trật lất, và những kẻ mình không thể ngờ lại chính là hung thủ giết người. Người đọc được theo dấu chân của Thomas tìm lại về quá khứ, cùng anh chàng tìm hiểu và khám phá ra dần dần làn sương mù bao phủ lấy sự thật chưa được soi tỏ. Đằng sau vỏ bọc cô gái hoàn hảo, hóa ra Vinca cũng đem theo mình một khía cạnh khác, một khía cạnh mà không có ai biết cũng như cái bí mật mà không ai có thể ngờ. Thực sự tớ rất ấn tượng với Thomas, bởi lẽ anh vốn là một nhà văn nhưng lại điều tra manh mối đỉnh không kém đặc vụ FBI luôn, giỏi thế chứ lị. Cô Gái Và Màn Đêm cũng giúp bản thân tớ nhận ra đúng là những người điên vì tình có thể làm mọi thứ kể cả những việc kinh khủng nhất. Và cũng chính vì quá khứ sai lầm ấy mà tất cả các nhân vật trong câu chuyện này đã đều phải sống trong sự sợ hãi và nỗi ám ảnh bao phủ lấy cuộc đời mình. Nói luôn đến plot twist, thực sự quả chốt hạ cuối cùng rất ổn luôn. Đúng là Musso rất giỏi trong việc dẫn dắt tâm trí độc giả. Các nhân vật trong Cô Gái Và Màn Đêm tài tình thế nào lại liên quan đến nhau hết. Từ Vinca, Thomas, Fanny, Maxime; cảm tưởng như số phận của họ phải bện xoắn lấy nhau vậy. Lời giải cuối truyện logic, tình tiết và những manh mối rải rác đã được lắp ghép logic với nhau để tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh. Đúng là Musso có khác không để độc giả thất vọng bao giờ. Nhìn chung, tớ khá ưng cuốn sách mới nhất Cô Gái Và Màn Đêm của Musso. Từ nội dung, cách dẫn dắt tình huống và cả cách dịch của dịch giả. Ngoài ra tớ còn thích cả cách mà Musso cho thêm vào cuốn sách của mình những câu nói của những tiểu thuyết gia, những tác phẩm,… vv nổi tiếng nữa, đúng là gia vị quen thuộc của Guillaume Musso mà. Cô Gái Và Màn Đêm thích hợp cho mọi người để đọc, và chắc chắn fan Musso thì càng không thể bỏ qua rồi! *** 2017 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 13 tháng Năm. Manon Agostini đỗ chiếc xe công vụ ở đầu đường Chemin de la Garoupe. Nữ cảnh sát quận vừa đóng sập cửa chiếc xe Kangoo cũ kỹ vừa thầm nguyền rủa diễn biến các sự kiện đã lôi kéo cô đến tận đây. Khoảng 21 giờ, người bảo vệ của một trong những dinh thự sang trọng bậc nhất Mũi Antibes đã gọi điện đến sở cảnh sát Antibes để báo tin về một tiếng pháo hoặc tiếng súng – dù thế nào thì cũng là một âm thanh lạ – có thể đã phát ra trên con đường mòn lởm chởm đá bên cạnh khuôn viên dinh thự. Sở cảnh sát không mấy quan tâm đến cuộc gọi này, và đã chuyển nó lại cho các phòng cảnh sát quận, và cảnh sát quận không tìm ra cách gì hay hơn là liên hệ với cô, trong khi thời gian làm việc trong ngày của cô đã hết. Khi cấp trên gọi điện yêu cầu cô đến ngó qua con đường mòn ven biển đó, Manon đã diện xong đồ dự tiệc và sẵn sàng xuất phát. Cô những muốn đáp lại là ông hãy tự đi mà xem, nhưng lại không thể từ chối nhiệm vụ này. Mới sáng nay, con người nhân hậu ấy đã đồng ý cho cô giữ chiếc Kangoo sau giờ làm việc. Xe riêng của Manon vừa trút hơi thở cuối cùng, và tối thứ Bảy này, cô nhất thiết phải có phương tiện để đi đến một cuộc hẹn rất quan trọng với mình. Trường trung học Saint-Exupéry, nơi cô từng theo học, tổ chức kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập, và nhân dịp này, đám bạn cũ lớp cô sẽ tụ họp trong một bữa tiệc. Manon thầm hy vọng tại bữa tiệc cô sẽ gặp lại anh chàng từng để ý đến mình trước đây. Một anh chàng khác biệt so với những người khác, mà hồi ấy cô đã ngốc nghếch bỏ qua, vì thích những người lớn tuổi hơn, những gã rốt cuộc đều đã chứng tỏ bọn họ chỉ là những kẻ đần độn ngu xuẩn. Niềm hy vọng đó chẳng hề có căn cứ – thậm chí cô còn không chắc anh chàng ấy sẽ có mặt ở bữa tiệc, và hẳn là anh ta cũng đã lãng quên cả sự tồn tại của cô – nhưng cô cần tin rằng rốt cuộc sẽ có điều gì đó xảy ra trong đời mình. Cắt sửa móng tay, làm tóc, mua sắm: Manon đã sửa soạn suốt cả chiều. Cô đã tặc lưỡi chi ba trăm euro cho một chiếc váy suông bằng đăng ten màu xanh đen pha jersey lụa, mượn chiếc vòng cổ ngọc trai của chị gái và đôi giày cao gót của cô bạn thân – một đôi Stuart Weitzman bằng da đanh khiến chân cô đau nhức. Chênh vênh trên đôi giày cao gót, Manon bật đèn pin điện thoại và bước vào con đường hẹp, chạy dọc hơn hai ki-lô-mét ven bờ biển cho đến tận Biệt thự Eilenroc. Cô biết rất rõ nơi này. Hồi cô còn là một đứa trẻ, bố thường đưa cô đi câu trong những vũng nhỏ ở đây. Ngày xưa, dân khu vực này gọi đây là con đường của hải quan hoặc đường mòn của dân buôn lậu. Sau này, nơi đây xuất hiện trong các cẩm nang du lịch dưới cái danh xưng nên thơ là đường mòn Tire-Poil1. Ngày nay, nó mang cái tên nhạt nhẽo hơn, vô vị hơn, là đường mòn ven biển. Đi được chừng năm chục mét, Manon vấp phải một hàng rào có gắn tấm biển cảnh báo: Khu vực nguy hiểm – cấm vào. Giữa tuần vừa rồi đã xảy ra một cơn bão lớn. Những cơn sóng biển dữ dội đã làm đất đá sụt lở nghiêm trọng, khiến người ta không thể đi dạo ở một số điểm nữa. Manon lưỡng lự một lát rồi quyết định bước qua hàng rào. 1992 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 1 một tháng Mười. Tâm hồn vui phơi phới, Vinca Rockwell nhảy chân sáo đi qua trước bãi biển Joliette. Đã 10 giờ tối. Để từ trường trung học đến được tận đây, cô đã phải thuyết phục một cô bạn cùng lớp văn học, người có một chiếc xe máy, chở mình tới đầu đường Chemin de la Garoupe. Khi rẽ vào con đường mòn của dân buôn lậu, cô cảm thấy kích thích ở vùng bụng dưới. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! Gió thốc dữ dội, nhưng đêm thật đẹp và trời quang đãng đến nỗi cảnh vật nhìn rõ gần như ban ngày. Vinca vẫn luôn yêu mến nơi này, bởi vì nó hoang dã và không giống với hình ảnh mùa hè French Riviera2 bị hiểu sai lệch đi. Dưới ánh mặt trời, ta sững sờ trước sắc trắng và đỏ son chói lọi của những vách đá vôi, và trước vô vàn những biến tấu của sắc xanh bao trùm những vùng vịnh nhỏ. Một lần, khi nhìn về phía quần đảo Lérins, thậm chí Vinca còn thoáng thấy những chú cá heo. Khi có gió lớn, như tối nay, khung cảnh thay đổi hoàn toàn. Những vách đá dốc đứng trở nên nguy hiểm, những cây ô liu và thông dường như đang oằn mình vì đau đớn, như thể chúng đang tìm cách rứt mình khỏi mặt đất. Nhưng Vinca không quan tâm. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! 2017   Chết tiệt! Một trong hai gót giày của Manon vừa gãy gập. Chết tiệt! Trước khi đến bữa tiệc, cô sẽ phải vòng về qua nhà, và ngày mai, sẽ bị cô bạn thân mắng cho một trận. Cô tháo giày, nhét vào túi xách rồi tiếp tục bước đi trên đôi chân trần. Cô vẫn đi theo vệt đường mòn hẹp nhưng được đổ bê tông vắt chênh vênh trên những vách đá. Không khí trong lành khiến cô phấn chấn hẳn lên. Gió mistral khiến màn đêm trở nên quang đãng và phủ đầy sao lên bầu trời. Tầm nhìn ngoạn mục trải dài từ những bức tường thành của khu Antibes cổ kính đến tận vịnh Nice, vượt qua những ngọn núi làm nền ở hậu cảnh. Ẩn hiện bên dưới, đằng sau những cây thông, là một vài trong số những dinh thự đẹp nhất Côte d’Azur. Người ta nghe thấy tiếng những con sóng tung bọt trắng và cảm nhận được toàn bộ sức mạnh cũng như quyền lực của nước triều. Trong quá khứ, nơi này từng chứng kiến những tai nạn thảm khốc. Sóng lừng đã cuốn đi nhiều ngư dân, du khách hoặc những cặp tình nhân ra hôn nhau nơi mép nước. Dưới sức ép của những lời chỉ trích, chính quyền đã buộc phải cải thiện mức độ an toàn của con đường bằng cách xây dựng những cầu thang kiên cố, cắm cọc tiêu trên lối đi và dựng hàng rào để hạn chế ý thích bốc đồng của những người đi dạo muốn ra quá sát mép nước. Nhưng chỉ cần gió thốc trong vòng vài giờ đồng hồ là nơi này lại trở nên rất nguy hiểm. Manon đi đến đúng chỗ một cây thông Alep bị đổ gục, làm bật tung tay vịn khỏi hàng rào và chắn ngang lối đi. Không thể đi xa hơn nữa. Cô nghĩ mình nên quay trở lại. Nơi này chẳng có lấy một bóng người. Gió mistral thốc mạnh đã làm nhụt chí những người đi dạo. Chuồn thôi, cô mình ơi. Cô đứng sững tại chỗ và lắng nghe tiếng gió gầm gào. Tưởng như nó đang cuốn theo những lời than thở, vừa gần lại vừa xa. Một mối đe dọa ngấm ngầm. Mặc dù đang đi chân trần, Manon vẫn leo lên một vách đá để vòng qua chướng ngại vật và tiếp tục hành trình, với nguồn sáng duy nhất là đèn pin của điện thoại. Một khối sẫm màu hiện lên dưới chân vách đá. Manon nheo mắt. Không, cô đứng quá xa nên không nhìn rõ. Cô thử tìm cách đi xuống, hết sức cẩn trọng. Có tiếng rách xoạc. Gấu váy đăng ten vừa rách, nhưng cô không để ý. Lúc này, cô đã nhìn rõ hình dáng khiến cô tò mò. Đó là một cái xác. Cái xác của một phụ nữ, bị vứt trên mỏm đá. Càng lại gần, cô càng cảm thấy kinh hoàng. Đây không phải một vụ tai nạn. Khuôn mặt người phụ nữ đã bị dập nát đến nỗi chỉ còn là một đám bầy nhầy đẫm máu. Lạy Chúa. Manon cảm thấy hai chân bủn rủn, và tưởng mình sắp xỉu xuống đến nơi. Cô mở khóa điện thoại để gọi cứu hộ. Không có sóng, nhưng màn hình vẫn hiển thị dòng chữ: Chỉ gọi số khẩn cấp. Đang định ấn nút gọi thì Manon nhận ra nơi này không chỉ có mình cô. Một người đàn ông giàn giụa nước mắt đang ngồi cách đó một chút. Có vẻ suy sụp, ông ta khóc nức nở, hai tay bưng mặt. Manon hoảng hồn. Đúng lúc này, cô hối tiếc vì đã không mang theo súng. Cô cẩn thận tiến lại gần. Người đàn ông đứng dậy. Khi ông ta ngẩng đầu lên, Manon nhận ra đó là ai. “Chính tôi đã gây ra chuyện này,” ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay chỉ vào cái xác. 1992   Duyên dáng và nhẹ nhàng, Vinca Rockwell nhảy nhót trên các vách đá. Gió thổi càng lúc càng mạnh. Nhưng Vinca thích thế. Sóng lừng, hiểm nguy, sự ngất ngây vì gió biển, những vách đá dốc đứng khiến người ta chóng mặt. Chẳng thứ gì trên đời lại khiến cô ngất ngây như cuộc gặp với Alexis. Một cảm giác choáng váng trọn vẹn, choáng váng đến tột bậc. Sự hòa trộn của cả thể xác và tâm hồn. Cho dù cô có sống đến trăm tuổi, cũng chẳng thứ gì có thể sánh được với ký ức này. Viễn cảnh được gặp lại Alexis trong bí mật, được cùng Alexis yêu nhau trong hõm vách đá khiến cô ngây ngất. Cô cảm thấy làn gió ấm bao bọc toàn thân, thổi quanh hai chân, tốc vạt váy cô, chẳng khác nào khúc dạo đầu của màn yêu đương mà cô đang chờ đợi. Trái tim đập thình thịch, luồng hơi nóng bốc lên cuốn ta đi trong niềm ngây ngất, máu dồn lên, những phập phồng khiến từng xăng-ti-mét trên thân thể ta run rẩy. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của cô! Alexis chính là bão tố, là màn đêm, là thời khắc hiện tại. Tự đáy lòng, Vinca biết rằng cô đang làm một chuyện ngu ngốc, và tất cả sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng có lẽ cô sẽ không đánh đổi niềm phấn khích lúc này lấy bất cứ thứ gì trên đời. Chờ đợi, yêu đương điên cuồng, cảm giác ngọt ngào đau đớn khi được màn đêm cuốn đi. “Vinca!” Đột nhiên, vóc dáng Alexis hiện ra giữa bầu trời quang đãng, dưới bóng trăng tròn vành vạnh. Vinca bước thêm vài bước để đến sát bên bóng người ấy. Trong chớp mắt, dường như cô có thể cảm nhận được niềm lạc thú sắp đến. Mãnh liệt, nóng bỏng, không thể kiểm soát. Hai thân thể trộn lẫn và tan biến vào nhau cho đến khi hòa cùng sóng gió. Những tiếng hét hòa vào tiếng kêu của lũ hải âu. Những cơn co thắt, đợt bùng nổ quật ngã ta, ánh chớp trắng sáng và chói lòa lan tỏa bao trùm lấy ta và khiến ta có cảm giác toàn bộ thân thể mình tan tác khắp nơi. “Alexis!” Cuối cùng, khi Vinca ôm siết lấy chủ thể tình yêu của mình, một giọng nói bên trong lại thì thầm với cô rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng cô gái trẻ không đếm xỉa đến tương lai. Tình yêu là tất cả hoặc chẳng là gì hết. Chỉ có thời khắc hiện tại là quan trọng. Sự quyến rũ cháy bỏng và độc địa của Màn đêm. Nghĩa là: Nhíp nhổ lông. (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều của người dịch.) Phần bờ biển Địa Trung Hải thuộc Pháp, tiếng Pháp là Côte d’Azur.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Và Màn Đêm của tác giả Guillaume Musso & Bình An (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng
A. LUKIN - T. GLATCỐP NICOLAI CUDƠNÉTXỐP NGƯỜI TÌNH BÁO ANH HÙNG Thùy Dương và Thế Anh dịch SỞ VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN HẬU GIANG - 1983 - TRONG những tập báo cũ số ra ngày 22 tháng Sáu năm 1941 chỉ có những tin tức bình thường nhất, hoàn toàn thanh bình về cuộc sống của đất nước. Những số báo ấy được xếp chữ và in hồi đêm, bản hết vào sáng sớm, khi tất cả biên giới phía Tây đã ngập chìm trong khói lửa, những quả bom đầu tiên đã rơi xuống Kiep, Minxcơ, Xêvaxtôpôn. Người Mátxcơva chỉ đến nửa buổi mới hay tin chiến tranh qua thông báo khẩn cấp của Chính phủ trên đài phát thanh. Trong những phút đen tối ấy Nicôlai Cudơnétxốp cũng giống như mọi người xô-viết khác: tức giận và căm thù bọn xâm lược tráo trở xâm phạm tự do và sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Nhưng anh không ngạc nhiên. Anh đã quá biết nước Đức Hitle. Anh hiểu rằng chiến tranh là không thể tránh được. Một cuộc chiến tranh khủng khiếp, đẫm máu: Một cuộc chiến tranh chưa từng có trong lịch sử. Và anh biết anh sẽ phải đứng vào vị trí nào trong đội ngũ chiến sĩ chống phát-xít. Ý định đầu tiên của Cudơnétxốp là được ra mặt trận đã đạt được. Là một vận động viên nhảy dù, thạo dùng súng, một tay trượt tuyết cừ, lại thêm biết tiếng Đức, anh liền được đưa vào đơn vị biệt kích dù, Chẳng còn bao lâu nữa anh được tới mặt trận - chỉ đợi phiên chế xong các phân đội là lên đường. Sau đó ít lâu Cudơnétxốp được tập nhảy dù và nhảy nhiều lần, nhưng anh không trở thành chiến sĩ biệt kích và thực sự anh chỉ nhảy dù có một lần duy nhất vào hậu cứ địch, mà lại qua mãi một năm sau kia. Mệnh lệnh của một đồng chí cấp trên vội vã phiên chế Cudơnétxốp vào đơn vị biệt kích, đã bị một đồng chí cấp trên khác cao hơn và cái chính là nhìn xa trông rộng hơn, hủy bỏ vô điều kiện. Đồng chí này tính rằng một người có kiến thức tiếng Đức như vậy mà đưa vào biệt kích dù bình thường thì không thích đáng. Do đó tên họ Cudơnétxốp từ đơn vị biệt kích dù đã được chuyển sang một danh sách khác, trong đó số lượng ít hơn nhiều. Người thuộc danh sách đặc biệt này không được tung ra mặt trận. Những người này được ném vào sau mặt trận. Không cử đi từng phân chi đội, mà từng người một, trường hợp đặc biệt – từng nhóm nhỏ là cùng. Những phẩm chất riêng, kiến thức kinh nghiệm của họ cho phép sử dụng họ trong những điều kiện phức tạp hơn nhiều và khá đặc biệt. Lính lái xe tăng, phi công, các chuyên viên quân sự khác, sau ngày 22 tháng Sáu năm 1941 đều cần cho Tổ quốc không kém gì anh em trinh sát, tình báo. Nhưng dạy cho một người lái xe tăng hay máy bay dù sao cũng dễ hơn là biến người ấy thành một người lính của mình mà lại ở trong hàng ngũ địch. Gần một năm trời... Những ngày tháng dài đằng đẵng, mệt mỏi, vô công rồi nghề chờ đợi (mặc dù cũng đâu phải ngồi yên). Hết đề nghị này đến đề nghị khác gửi đi nhưng không được chấp thuận, cấp trên một mực từ chối, Cudơnétxốp lang thang hàng giờ khắp thành phố và tự thấy hổ thẹn vì tuổi trẻ và sức lực của mình - đàn ông lứa tuổi anh lúc này ở thủ đô chỉ có thể gặp trong quân phục hoặc đi nạng. Nicolai bất giác có lần giật mình thấy sợ không dám ngồi xuống chỗ trống trên xe điện để tránh những cái nhìn trách móc, thậm chí khinh rẻ của cả toa xe. Em trai Vichto của anh đã đi chiến đấu, còn anh là anh cả, vậy mà vẫn giậm chân tại chỗ trên đường phổ Mátxcơva. Mátxcơva... Ai có mặt ở thủ đô vào mùa thu đầu tiên của chiến tranh, hẳn không bao giờ quên bộ mặt nghiêm khắc mới mẻ của thủ đô. Cửa sổ các nhà đều dán những mảnh giấy chéo nhau, mặt các cửa hiệu được chắn cao những chồng bao tải cát, những quả khinh khí cầu xam xám lờ mờ bay trên trời đêm, những mũi tên trắng viết trên tường nhà với chữ đề: «Hầm tránh bom», những khẩu đội cao xạ bốn nòng thường trực trên các nóc nhà. Hầu như đêm nào còi báo động cũng rền rĩ réo vang, những luồng ánh sáng đèn chiếu hừng hực sục sạo xoáy vào bầu trời tối om, đạn cao xạ giận dữ vút bay lên liên tiếp, lả tả trút xuống mặt đường trận mưa mảnh thép sắc cạnh. Và mỗi sáng các bác nhân viên vệ sinh sân phố lại đổ đầy nước vào các bồn gỗ để trên gác áp mái tất cả các nhà trong thành phố. Khi họ còn chưa đến, mấy chú bé còn lại trong thành phố (chúng chẳng vội đi đâu mùa đông nhà trường đóng cửa cả) đã len lỏi đến trước, moi từ đây các bồn gỗ lên những kíp pháo sáng sơn đen lấp lánh và những cái ống pháo sáng của địch bị cháy. Các em lớn, trước đó, trong những đợt máy bay địch, đã dập tắt những pháo sáng này trong các bồn nước.   Mời các bạn đón đọc Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng của tác giả A. Lukin & T. Glatcốp.
Án Mạng Chuột Chín Đầu
Trấn Giang, còn gọi là Nhuận Châu, thời dân quốc từng là tỉnh lị Giang Tô, khi Trung Quốc vừa thành lập thì thuộc khu hành chính Tô Nam quản lý. Tháng 10 năm 1949 đã xảy ra một vụ án giết người đốt xác vô cùng ly kỳ. Người chịu trách nhiệm công tác điều tra của vụ án này là một chàng trai An Huy, tên Mục Dung Hán. Mục Dung Hán học đến cấp 2, lúc nhỏ lại tập võ nên thân thủ bất phàm. Tuy gia đình anh mở cửa hàng buôn bán, nhưng thời kỳ đầu kháng chiến thì cha của anh đã bán hết gia sản, lấy tiền tổ chức vũ trang kháng Nhật, hơn nữa còn nhanh chóng gia nhập Trung Cộng. Không bao lâu sau, cha và hai chú của anh ta hy sinh trong lúc tác chiến với quân Nhật. Năm 1943, Mục Dung Hán tham gia quân Tân Tứ. Đầu tiên là đánh địch, sau lại làm trung đội trưởng trinh sát. Năm 1949 Mục Dung Hán đã là chỉ đạo viên của tiểu đoàn trinh sát thứ chín thuộc quân dã chiến Hoa Đông. Trong chiến dịch vượt sông, chiếc thuyền của anh ta bị đạn pháo bắn trúng, hơn ba mươi người chỉ còn lại bảy người sống sót. Mục Dung Hán xem như mạng lớn, nhưng lại bị thương nặng, ôm một tấm ván thuyền hôn mê trôi hơn bốn mươi dặm mới được cứu lên. Sau khi vết thương lành lại thì bộ đội nơi Mục Dung Hán đã đánh tới Phúc Kiến. Tháng 9 năm 1949, tổ chức phái anh ta tới phân khu quân Tùng Giang, thủ tục cũng đã chuẩn bị xong xuôi, nhưng một ngày trước khi lên đường lại xảy ra một sự cố bất ngờ. Hôm đó, anh ta đang trên đường quay về chỗ ở sau khi tạm biệt chiến hữu thì một chiếc xe jeep đột nhiên thắng cái két trước mặt anh ta, một tiếng hô to vọng ra từ trong xe: “Đây không phải Tiểu Mục à?” Người trong xe là vị thị trưởng thành phố Trấn Giang vừa thăng chức vào tháng trước, Hà Băng Hạo. Đây là một vị cán bộ tham gia cách mạng từ thời hồng quân, từng đảm nhiệm chức đội trưởng “đội dân tiên” huyện tê Hà tỉnh Sơn Đông, bí thư huyện ủy kiêm chính ủy chi đội du kích, chuyên viên trụ sở Giao Đông Bắc Hải và bí thư chủ nhiệm kiêm chính ủy bộ hậu cần khu Bắc Hải thời chiến, phó chuyên viên cơ quan riêng Giao Đông Bắc Hải, tổng đội trưởng kiêm chính ủy tổng đội thứ hai của Giao Đông trước kia, đại đội trưởng đại đội thứ hai trung đoàn vượt sông xuống Nam. Đội trinh sát của Mục Dung Hán lúc ấy đóng quân cùng một chỗ với hai đại đội “Độ Tổng”, giúp đỡ lẫn nhau. Nên dù chức vụ của cả hai cách xa nhau những vẫn là người quen. Người quen cũ gặp nhau nơi đất khách thì đương nhiên phải ngồi lại nói vài câu. Khi đó, thị trưởng Hà đã mời Mục Dung Hán lên xe. Sau khi hỏi thăm tình hình, biết Mục Dung Hán chuẩn bị tới phân khu quân Tùng Giang bèn nói ngay: “Thế thì thà cậu tới Trấn Giang làm với tôi còn hơn.” Mục Dung Hán đáp: “Tôi không muốn rời khỏi bộ độ. Tôi còn muốn cầm súng đánh giặc.” Hà Băng Hạo mới nói: “Cậu tới Trấn Giang làm ở ủy ban quân quản, vẫn mặc quân trang và cầm súng đấy thôi.” Mục Dung Hán nghe vậy thì rục rịch. Hà Băng Hạo sợ anh chàng thay đổi nên nói: “Tôi sẽ lập tức nhờ người chuyển cậu tới Trấn Giang, chiều nay cứ về đó cùng tôi là được.” Khi đến Trấn Giang rồi Mục Dung Hán mới biết mình bị thị trưởng Hà “lừa”. Đúng là làm ở ủy ban quân quản, nhưng lại là bộ công an của ủy ban quân quản – Cũng chính là cục công an trực thuộc văn phòng thành phố, hai cái tên một nhóm người (1). Mặc quân trang cũng không sai, nhưng chẳng qua là một bộ đồ có in hai chữ “công an” lên ngực áo mà thôi. Súng thì cũng có đeo, nhưng có dùng tới hay không thì khó mà nói trước. Cục công an thành phố cũng không sắp xếp công việc cho anh ngay, mà để anh làm quen với tình hình trước, còn nhấn mạnh rằng đây cũng là công việc trị an. Mục Dung Hán đoán chắc công tác của mình sau này cơ bản chính là điều tra hình sự, lúc ấy công an điều tra gọi là trinh sát, lãnh đạo phần lớn đều cho rằng nó cũng như trinh sát quân sự của bộ đội mà thôi. Đã đến nước này rồi thì chỉ có thể cắn răng làm tiếp mà thôi. Mục Dung Hán đã có chuẩn bị tâm lý là sẽ làm hình cảnh. Khi đó đang thực hành hình thức “đại trị an”, công việc hình trinh (2) do trị an quản lý. Ngày nào Mục Dung Hán cũng chạy khắp nơi trong thành phố, ven sông, đường Đại Tây, xung quanh bến tàu nhỏ và nhà ga đồn công an. Hơn nửa tháng trôi qua, anh cũng đã làm quen với hình cảnh của tất cả các đơn vị vì đã có nhiệm vụ đưa xuống. Bắt đầu từ ngày 30 tháng 5, đến ngày 9 tháng 10 Mục Dung Hán nhận nhiệm vụ này, cục công an thành phố Trấn Giang, bốn phân cục bên dưới cùng với tất cả mười hai đồn công an do phân cục quản lý, tổng cộng nhận được 37 bức thư tố giác, mục tiêu bị lên án là cùng một người. Người bị tố giác vừa nhìn tên đã biết là biệt danh trên giang hồ, tên là “Chuột Chín Đầu”, tên thật là gì thì không ai rõ. Nếu như nội dung tố giác là thật thì kẻ này đã làm rất nhiều chuyện như giết người, phóng hỏa, ăn cướp, trộm cắp, cưỡng hiếp, lừa gạt. Dựa theo quy định đương thời, tất cả những thành phố vừa giải phóng xếp hết những đối tượng bị tố giác nhưng không liên quan trực tiếp tới chính trị, không làm nguy hại trị an xã hội hoặc nguy hại mạng sống và an toàn tài sản của người khác vào án treo lịch sử. Đồn công an và phân cục nhận được những bức thư tố giác này xong thì sẽ đưa cho ban chỉ huy cục trị an thống nhất đăng ký và bảo quản. Cho nên những bức thư tố cáo “Chuột Chín Đầu” do các đồn công an, phân cục khác và cả thành phố nhận được đều bị gom lại, giao cho ban trị an thành phố bảo quản. Hôm nay, lãnh đạo đã tìm Mục Dung Hán nói chuyện, giao những bức thư tố giác này cho anh rồi nói: “Đồng chí Tiểu Mục hãy xem thử những bức thư này, tìm cách điều tra rõ ràng xem rốt cuộc Chuột Chín Đầu này là ai, đang ở đâu, có phạm phải những hành vi phạm tội được ghi trong thư tố giác hay không”. Lúc đó Mục Dung Hán còn chưa được phân công việc cụ thể, cũng không trục thuộc phòng ban nào, ban trị an cũng vậy, đội hình cảnh cũng thế, chẳng bên nào sắp xếp công việc cho anh, ngay cả bàn làm việc cũng không có. Sau khi nhận nhiệm vụ, anh cầm túi hồ sơ căng phồng chứa 37 bức thư tố giác kia đi một vòng trong trong cục, cuối cùng tìm được một chỗ giữa đống đồ chất chồng ở sân sau căn tin. Anh bèn lấy ván gỗ và gạch xếp đỡ thành một bàn làm việc tạm thời. Đâu vào đấy thì anh bắt đầu xem thư. Sau khi xem hết 37 bức thư thì cũng đã đến giờ tan sở. Quay về ký túc xá, Mục Dung Hán lại chia nội dung của những bức thư tố giác này ra trên sổ tay làm việc, sau khi chỉnh lý lại, anh phát hiện tuy 37 bức thư này không phải do cùng một người viết, nhưng nội dung đại khái đều như nhau: Tố cáo Chuột Chín Đầu là thứ đầu trộm đuôi cướp. Trong đó có một bức thư nhắc tới nơi gây án của Chuột Chín Đầu là ở trên Trường Giang, nơi giao nhau giữa An Huy và Giang Tô, là một tên thủy tặc. Mục Dung Hán nghiên cứu một lúc, cảm thấy có ba vấn đề chưa rõ: Thứ nhất, tất cả thư tố giác đều gọi kẻ bị tố giác là Chuột Chín Đầu, không có bức nào nói tới tên thật của hắn ta. Thứ hai, trong mỗi bức thư tố giác đều nói Chuột Chín Đầu tội ác tày trời, nhưng không có bất kỳ bức nào nói tới thời gian và địa điểm cụ thể, mà chỉ dùng mấy chữ qua loa như “lúc kháng chiến”, “bảy tám năm trước” các kiểu, càng không nói rõ người bị hại là ai, gây nên hậu quả thế nào. Nói chung, trong thư tố giác chỉ nói rõ tội danh của Chuột Chín Đầu thứ không phải hành vi phạm tội. Thứ ba, những bức thư này phần lớn đều không nói Chuột Chín Đầu ẩn nấp ở đâu, vài bức có nhắc tới thì cũng không hề rõ ràng, chỉ nói là ẩn nấp trong thành phố Trấn Giang, nhưng lại không có địa chỉ cụ thể. Mục Dung Hán cho rằng với những manh mối không rõ ràng thế này mà lãnh đạo lại bảo anh đi điều tra thử, xem ra là muốn để anh luyện tay. Cũng nhờ đó kiểm tra khả năng làm việc của Mục Dung Hán, khi sắp xếp cương vị công tác cụ thể cho anh sau này cũng có cái mà tham khảo. Dù sao anh cũng là chỉ đạo viên đội trinh sát trực thuộc tung đội chín Hoa Dã, chức vị này xem như cấp doanh chính (3), không thể đối đãi tùy tiện như mấy anh lính quèn bình thường được. Nghĩ vậy, Mục Dung Hán bèn hạ quyết tâm, nhất định phải điều tra cho ra tung tích của Chuột Chín Đầu, còn phải tra xem hắn ta có phạm những tội được ghi trong đống thư tố giác kia hay không. Mang theo suy nghĩ này, Mục Dung Hán chong đèn tiếp tục đọc lại những bức thư tố giác này. Gần đến nửa đêm thì anh lại phát hiện được một đặc điểm mà khẳng định trước kia không ai chú ý tới: Trong 37 bức thư tố giác này có 9 bức thư rất khác thường, chữ viết đẹp thì không nói, xếp từ cũng rất ngay ngắn, người viết hẳn là đã từng đi học. Lại xem kỹ hơn thì cả giấy lẫn phong bì của 9 bức thư này cũng khác nhau. Có bức rất khuôn phép, bức thì là lấy giấy dán lại làm phong thư. Cuối cùng Mục Dung Hán cũng nhận ra, 9 bức thư này có thể là nhờ người như mấy ông thầy đoán chữ đầu phố viết hộ. (1) Một cơ cấu, hai cái tên, còn được gọi là một nhóm người hai cái tên, là một loại cơ cấu biên chế của TQ. dựa theo lời giải thích của văn phòng hội ủy viên cơ cấu biên chế trung ương "cái gọi là một cơ cấu chính là một đại biểu pháp nhân, một quản lý tài vụ, một nhóm lãnh đạo và một đội ngũ. Sở dĩ có hai cái tên là chỉ hai tên gọi cơ cấu, dựa theo nhu cầu công việc mà lấy danh xưng tương ứng để đối ngoại". (2) Điều tra + xử phạt. (3) Cấp doanh chính có quân hàm thiếu tá. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Chuột Chín Đầu của tác giả Lãng Nhân Môn.
Ngôi Nhà Mũi Tên
Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.
Cô Gái Trong Lồng
Carl Mørck từng là một thanh tra hình sự năng nổ, một điều tra viên án mạng xuất sắc tại Copenhagen. Trong một lần khảo sát hiện trường, ông bị đạn sượt qua đầu, hai đồng đội của ông một bị bắn chết, một bị liệt toàn thân. Mặc cảm vì đã không rút súng bắn trả khiến Carl Mørck cảm thấy chán nản, nhụt chí. Ông trở thành một con người cộc cằn, cay độc và bất hợp tác với các cảnh sát khác. Trước thái độ tiêu cực của Carl Mørck, chánh thanh tra đã điều ông sang Đơn vị Q để đảm trách những vụ “án treo” (những vụ án chưa có lời giải từ nhiều năm trước). Đơn vị này chỉ có một mình Carl và người phụ tá là dân nhập cư tên Hafez al-Assad, làm việc độc lập với các phòng ban khác. Bộ đôi vô tình lật lại vụ mất tích khó hiểu của nữ nghị sĩ Merete Lynggaard năm năm trước đó đã khiến giới truyền thông tốn không ít giấy mực. Cảnh sát khi đó đã phát động một cuộc điều tra trên quy mô rộng nhưng không tìm được gì. Năm năm trôi qua, tất cả mọi người đều tin rằng Merete Lynggaard đã chết, có điều tra thêm cũng chỉ phí công. Tuy nhiên, với sự hăng hái của Assad và kinh nghiệm của Carl, những bí mật dần dần được hé lộ: nữ nghị sĩ… vẫn còn sống. [… Suốt một lúc lâu, cô nằm bất động dưới đất, chỉ muốn khóc nấc lên. Nhưng cô sẽ không khóc. Nếu bọn cai ngục nghe thấy cô khóc, chúng sẽ đắc ý. Chúng sẽ tưởng cô sắp bỏ cuộc. Nhưng cô không bỏ cuộc. Ngược lại là đằng khác. Cô sẽ chăm sóc bản thân. Với bọn chúng, cô là một cô gái bị nhốt trong lồng, nhưng không gian bên trong cái lồng này rộng hay hẹp là tùy thuộc ở cô. Một ngày nào đó, cô sẽ ra khỏi nơi này…] *** Cô cào những đầu ngón tay của mình vào các vách tường nhẵn thín cho đến khi bật máu, đập hai nắm đấm vào cửa kính dày cho đến khi không còn cảm giác ở tay nữa. Không dưới mười lần, cô đã mò mẫm tới chỗ cánh cửa thép, luồn móng tay vào khe cửa để cạy nó ra, nhưng cánh cửa có gờ sắc bén không mảy may nhúc nhích. Cuối cùng, khi các móng tay đã mòn đến thịt, cô ngồi thịch xuống mặt sàn lạnh ngắt, thở hổn hển. Cô nhìn bóng tối dày đặc một lúc, mắt mở to và tim đập như muốn vỡ tung. Rồi cô hét lên. Cô la hét cho đến khi hai tai ù đi và giọng khản đặc. Cô ngửa đầu ra sau và một lần nữa cảm thấy khí mát từ trên trần tuôn xuống. Nếu lấy đà, biết đâu cô có thể nhảy lên và nắm được thứ gì đó? Biết đâu sẽ có điều gì. Phải rồi, biết đâu đến nước ấy, lũ khốn khiếp ngoài kia sẽ phải đi vào? Và nếu chọc ngón tay vào mắt chúng, cô có thể làm chúng mù. Nếu đủ nhanh và quyết đoán, có thể cô sẽ làm được chuyện đó và trốn thoát. Cô mút mấy ngón tay rướm máu một lúc, rồi tì chúng xuống sàn, gượng dậy. Cô ngước nhìn trần nhà dù không thấy được gì ngoài bóng tối. Có thể nó cao quá tầm nhảy của cô. Cũng có thể nó chẳng có gì để bám víu. Nhưng cứ phải thử đã. Ngoài chuyện đó ra, cô còn biết làm gì đây? Cô cởi áo khoác và cẩn thận xếp vào một góc để không làm hỏng nó khi rơi xuống. Sau đó, cô lấy đà và nhảy lên, tay vươn cao hết mức, nhưng chẳng chạm được vào bất cứ thứ gì. Cô nhảy thêm hai lần nữa, trước khi rút về chỗ bức tường phía cuối phòng để ngồi nghỉ một chút, lấy lại hơi sức. Rồi cô lại lấy đà và dùng hết sức bình sinh để bật lên thật cao trong bóng tối, tay khua khoắng cầu may. Lúc rơi xuống trở lại, cô trượt chân trên mặt sàn nhẵn và ngã nghiêng. Cô hộc lên khi vai đập vào lớp bê tông và hét toáng khi đầu va vào tường đến nổ đom đóm mắt. Suốt một lúc lâu, cô nằm bất động dưới đất, chỉ muốn khóc nấc lên, nhưng cô sẽ không khóc. Nếu bọn cai ngục nghe thấy cô khóc, chúng sẽ đắc ý. Chúng sẽ tưởng cô sắp bỏ cuộc. Nhưng cô không bỏ cuộc. Ngược lại là đằng khác. Cô sẽ chăm sóc bản thân. Với bọn chúng, cô là một cô gái bị nhốt trong lồng, nhưng không gian bên trong cái lồng này rộng hay hẹp là tùy thuộc ở cô. Cô sẽ tập trung vào những suy nghĩ gợi mở ra thế giới bên ngoài để khỏi phát điên lên. Bọn chúng sẽ không bao giờ khuất phục được cô. Đó là điều cô đã quyết trong lúc nằm dưới sàn với cái vai đau nhói và một con mắt sưng vù không mở được. Một ngày nào đó, cô sẽ ra khỏi nơi này. *** Tác giả:Jussi Adler-Olsen. Thể loại: Trinh thám Bắc Âu. Điểm: 9.5/10 Carl Morck là thanh tra cảnh sát được xem như giỏi nhất tại Sở cảnh sát Copenhagen. Trong một lần cùng đồng đội nhận lệnh điều tra một vụ sát hại bằng súng bắn đinh, nhóm của anh bị tấn công bất ngờ, đồng đội của anh người thì thiệt mạng, người thì bị bắn vào cột sống dẫn đến liệt toàn thân, chỉ riêng Carl Morck hồi phục và tiếp tục hành nghề. 2 tháng sau khi anh bị bắn và 1 tuần sau khi quay lại làm việc, anh được đề bạt làm lãnh đạo của Đơn vị Q mới thành lập, chuyên điều tra những vụ án đã được xếp lại nhưng có tác động lớn đến công chúng. Sau vài ngày chán chường ngồi hút thuốc dưới tầng hầm – “văn phòng mới”của anh, dưới sự nhiệt tình và nghiêm túc của Assad – người trợ lý mới được tuyển vào, Carl Morck đã bắt tay vào điều tra vụ án của Merete Lynggaard – phó chủ tịch Đảng Dân Chủ đã mất tích cách đây 5 năm và được kết luận chết đuối không tìm được xác. Với tài năng thiên bẩm của mình trong việc phá án cộng với sự hỗ trợ hết sức hữu dụng của Assad, Carl đã phám phá ra nhiều tình tiết trọng yếu dẫn đến khả năng lật lại vụ án của Merete Lynggaard.   Sau một thời gian chờ đợi nhưng vẫn không có ai review cuốn “Cô gái trong lồng” này để Biển tham khảo, Biển quyết định đi nhà sách đọc thử và bị Cô Gái Trong Lồng níu tay không rời luôn. Không nhớ rõ đây là cuốn trinh thám Bắc Âu thứ bao nhiêu Biển từng đọc, nhưng cũng như những quyển truyện khác cùng thể loại, quyển này có một phong vị rất riêng. Bối cảnh trong truyện trinh thám Bắc Âu thường diễn ra ở những vùng đất lạnh lùng tuyết phủ, con người vì cố chống chọi với sự khắc nghiệt của môi trường sống nên tâm tính trở nên vừa chai sạn nhưng cũng rất dữ dội, trong đó không thiếu những kẻ đầu óc biến thái sẵn sàng hành hạ đồng loại theo những cách tàn bạo nhất. Nhân vật chính Carl Morck là hình tượng người cảnh sát dũng cảm, nhanh trí, có tư chất bẩm sinh đối với ngành nghề của anh nhưng đồng thời cũng bị tác động mạnh mẽ bởi phụ nữ đến mức khả năng suy luận của anh bị tắt nguồn khi gặp phụ nữ quyến rũ! Nhân vật “cô gái trong lồng” là một cô gái trẻ xinh đẹp tài giỏi, tuy tuổi thơ từng trải qua tai nạn khủng khiếp nhưng cô vẫn kiên cường sống tiếp. Tác giả Jussi Adler-Olsen đã khắc họa hình tượng các nhân vật của ông đúng với công việc họ làm, miêu tả tâm lý nhân vật nhất quán với tính cách của họ. Dù là nhân vật chính hay phụ đều có đất diễn. Đúng theo thể loại trinh thám Bắc Âu, tác phẩm “Cô gái trong lòng” cũng đi sâu vào quá trình phá án, nhịp truyện đủ chậm để độc giả theo kịp nhưng cũng đủ dồn dập để không gây chán, những chi tiết hồi hộp không cố tình được đẩy lên cao trào nhưng mạch truyện vẫn đủ căng thẳng và lôi cuốn. Thỉnh thoảng, tác giả đưa vào những lối so sánh rất thú vị và những chi tiết hài hước đúng lúc góp phần “cột chặt” người đọc vào quyển sách. Có vài phân đoạn rất ngắn đề cập đến cái chết nhân đạo: Carl Morck trăn trở với suy nghĩ rằng anh có nên giúp kết thúc sự sống của người đồng nghiệp đang nằm liệt giường không bao giờ có thể hồi phục hay không. Tác giả Jussi Adler-Olsen cũng có một câu rất hay và ngắn gọn để nói về chính trị “Tiền bạc và quyền lực quan trọng hơn kết quả”. Biển xin trích một đoạn cho những bạn muốn đọc thử: “Cô đang nằm trên sàn nghĩ về những cuốn sách. Đó là điều mà cô thường làm để khỏi nhớ về cuộc sống mình có thể đã có nếu lựa chọn khác đi. Khi nghĩ về những cuốn sách, cô có thể đi sang một thế giới hoàn toàn khác. Chỉ cần nhớ lại cảm giác khi sờ lên bề mặt khô ráo và nham nháp khó tả của một trang sách là đủ để khơi lên ngọn lửa khao khát trong cô”. Theo đánh giá cá nhân Biển thì quyển “Cô gái trong lồng” có cốt truyện xuất sắc, gợi nhớ đến cuốn “Alex” của Pierre Lemaitre nhưng nội dung hoàn toàn khác hẳn. Bìa sách được thiết kế khá đẹp, chữ in rõ, giấy trắng, trình bày sạch đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi đánh máy. Tuy vậy, có một chỗ chú thích không được làm rõ, Biển nghĩ “thiết bị theo dõi sinh hiệu” có thể được giải thích ra là “thiết bị theo dõi dấu hiệu của sự sống”. Biển từng có dịp gặp dịch giả Hoàng Anh, nay xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với công trình dịch thuật này của anh. Quyển sách to, dày gần 500 trang với nội dung hay tuyệt này là một ấn phẩm mà các mọt trinh thám sẽ yêu thích. (Sea,Friday 13-7-2018) Camellia Phoenix review Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Lồng của tác giả Jussi Adler-Olsen.