Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Của Người Kể Chuyện

LỜI GIỚI THIỆU Khi nhận viết lời giới thiệu cho cuốn sách Bí mật của Người kể chuyện của Alpha Books, tôi cảm thấy rất thú vị và không kém phần hồi hộp về chủ đề rất hay này. Cũng bởi trong quá trình nghiên cứu và chia sẻ về storytelling – nghệ thuật kể chuyện, tôi hay nhận được những câu hỏi khó lòng thỏa mãn hết của rất nhiều bạn: “Cô Thu ơi, bí kíp gì để kể chuyện hay?” Cuốn sách này sẽ “bật mí” cho các bạn 19 “bí kíp võ công” được “tinh luyện” từ những “môn phái” nổi tiếng về các loại “võ kể chuyện” khác nhau. Zack King, nhà làm phim, ảo thuật gia nổi tiếng từng nói: “Tất cả chúng ta đều là người kể chuyện.” Liệu có phải vậy không? Chúng ta kể chuyện để bán ý tưởng. Chúng ta kể chuyện để thuyết phục nhà đầu tư rót vốn cho bạn. Chúng ta kể chuyện để giáo dục học sinh, sinh viên. Chúng ta kể chuyện để truyền cảm hứng cho đội nhóm. Hay chúng ta vẫn đang kể chuyện để khuyến khích con cái tận dụng hết tiềm năng của chúng. Thậm chí là những câu chuyện mang tính chất “đe dọa” khi ai đó không cam kết đi theo hành trình. Mỗi ngày, chúng ta đều giao tiếp bằng kể chuyện. Vậy làm sao để kể những câu chuyện hay? Làm sao kể chuyện chinh phục người nghe? Năm 1985, chỉ với 16 phút kể chuyện, Martin Luther King đã khiến hơn 250.000 người nghe quyết tâm đứng lên chống lại nạn phân biệt sắc tộc da. Năm 2005, chỉ với 15 phút và ba câu chuyện, Steve Jobs đã tạo ra làn sóng hò reo cho các sinh viên Standford và thu hút hơn 20 triệu lượt xem trên YouTube. Năm 2013, với việc chọn kể chuyện trong thuyết trình, Nhật Bản đã thành công trong việc đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic 2020. Họ đã làm điều đó như thế nào? Họ đã nắm được những kỹ thuật để kể các câu chuyện hay. Và bạn cũng có thể làm điều đó. Tất cả bắt đầu bằng việc đọc cuốn sách này. Cuốn sách Bí mật của Người kể chuyện đã nói đến 50 người kể chuyện từ nhiều lĩnh vực khác nhau, mang lại cho chúng ta nhiều góc nhìn đa dạng, mới mẻ. Sách có bố cục rõ ràng, dễ hiểu, dễ chắt lọc thông tin. Mỗi chương trong cuốn sách đều có phần phân tích chi tiết các công cụ của mỗi người kể chuyện, lý do tại sao chúng hiệu quả và cách để chúng ta có thể áp dụng chúng. Tôi đánh giá rất cao các phân tích này. Vì chúng giúp ta hiểu thấu đáo hơn và biết cách áp dụng vào thực tiễn tốt hơn. Điều đặc biệt nữa là sau mỗi chương đều có tóm tắt ngắn gọn về bài học mà chúng ta có thể rút ra. Mọi thứ đều rất cô đọng và có tính ứng dụng cao. Tôi cũng cực kỳ thích phong cách sử dụng ngôn từ cụ thể và hữu hình của Carmine Gallo – tác giả của rất nhiều đầu sách hay về thuyết trình. Hùng biện kiểu TED và Steve Jobs – Những bí quyết đổi mới và sáng tạo là hai trong số nhiều cuốn sách nổi tiếng của ông đã được Alpha Books biên dịch và xuất bản sang tiếng Việt. Ở phần cuối của cuốn sách cũng có hai phần rất thú vị về “tóm tắt các bí mật của người kể chuyện” và “danh sách của người kể chuyện”, giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về những điều quan trọng. Và khi đã nắm được các bí mật kể chuyện này, bạn hoàn toàn có thể áp dụng vào bất kỳ hình thức giao tiếp nào: hùng biện trước đám đông, thuyết trình PowerPoint, viết blog, e-mail, quảng cáo và cả marketing nữa. Xu hướng thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, nghệ thuật kể chuyện – storytelling vẫn sẽ là chìa khóa vàng cho mọi kế hoạch truyền thông, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp hay cá nhân. Storytelling vẫn sẽ là sợi chỉ đỏ kết nối con người với nhau trong kỷ nguyên của công nghệ số hóa, và là mảnh ghép xanh cần thiết lấp đầy những khoảng trống trong các phương thức giao tiếp hiện nay. Với tất cả những điều đó, tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn sách mới của Alpha Books – Bí mật của Người kể chuyện, mà với tôi, nó là một cuốn sách rất hay! Tin rằng khi chắt lọc những thông tin hữu ích này, các bạn sẽ có thể đánh thức khả năng kể chuyện trong chính mình, thổi hồn và truyền cảm hứng cho nhiều người qua câu chuyện của chính bạn. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Bùi Ngọc Thu Chuyên gia huấn luyện và khai vấn về Storytelling Founder of Presentation by Storytelling CEO & Founder of ICTS Training & Coaching *** LỜI NÓI ĐẦU Tôi đang nằm sõng soài. Tôi vừa mới bị trượt chân trên một tảng băng bên ngoài căn hộ rộng hơn 46m2 của mình tại Tây Wisconsin. Hôm ấy, nhiệt kế chỉ 0o, nhưng trong gió lạnh nhiệt độ có thể thấp hơn tới 20o nữa. Tôi làm rách bộ com-lê duy nhất của mình, một bộ cánh đắt tiền của Ý mà tôi rất tự hào khi mua được ở San Francisco vài ngày trước – trước khi bước vào xe và lái 2.000 dặm đến nhận công việc người dẫn chương trình tin tức. Khi nằm trên vỉa hè giữa làn gió lạnh buổi sáng, nhìn lên những căn hộ bẩn thỉu trong khu phố tồi tàn nhất của thành phố, những câu hỏi liên tiếp vụt qua trong đầu tôi: Liệu tôi có quyết định đúng khi ngừng học trường Luật – lựa chọn “an toàn” – để theo đuổi đam mê của mình – một sự nghiệp trong ngành báo hình? Liệu tôi sẽ chỉ kiếm được 15.000 đô-la mỗi năm trong suốt phần còn lại của cuộc đời? Liệu cha tôi, người đã đặt chân lên bờ biển nước Mỹ với tư cách là một người nhập cư từ Ý với chỉ 20 đô-la trong túi sau Thế Chiến II, có tự hào về quyết định của tôi, hay người đã từng phải vào trại tù binh chiến tranh này cảm thấy con trai ông đang lãng phí cơ hội để thành công ở Mỹ? Lúc đó, tôi không trả lời được câu hỏi nào, nhưng đã đưa ra hai kết luận. Thứ nhất, nếu bạn chỉ có vừa đủ 400 đô-la tiền thuê nhà hằng tháng, lựa chọn tốt nhất là chi tiền cho những bộ com-lê mua một tặng một, nếu được khuyến mại thêm thì càng tốt. Thứ hai, việc đuổi theo đam mê sẽ cực kỳ khó khăn, thậm chí còn kinh khủng hơn tảng băng mà tôi vừa mới đập đầu vào. Với những suy nghĩ đó, tôi lồm cồm bò dậy, nhặt giấy tờ vương vãi trên vỉa hè đóng băng, phủi tuyết khỏi bộ quần áo và tiếp tục đi tới chỗ làm. Tôi vẫn chưa chuẩn bị cho mùa đông ở Wisconsin, nhưng đã chuẩn bị để đối mặt với bất kỳ chướng ngại nào sắp tới. Bởi suy cho cùng, bạn không thể chọn niềm đam mê cho mình, mà nó chọn bạn. 25 năm sau, một lần nữa tôi nhận thấy mình đang tự hỏi: Tại sao tôi lại ở đây? Vào tháng Năm năm 2014, tôi được mời tới diễn thuyết tại một hội thảo đặc biệt cho những nhà khởi nghiệp và CEO tại Khosla Ventures Summit trong một khu nghỉ dưỡng dưới chân Cầu Cổng Vàng ở Hạt Marin. Người tổ chức sự kiện, tỷ phú chuyên đầu tư mạo hiểm Vinod Khosla, đã đích thân mời tôi mặc dù ban đầu tôi không hiểu tại sao. Những diễn giả khác bao gồm Bill Gates; hai nhà sáng lập Google là Sergey Brin và Larry Page; CEO hãng Salesforce, Marc Benioff; cựu Bộ trưởng Ngoại giao Condoleezza Rice; và cựu Thủ tướng Anh Tony Blair. Trong bữa ăn sang trọng của buổi tối đầu tiên tại hội thảo, tôi cảm thấy mình là người duy nhất trong phòng cần phải được giới thiệu. Tôi băn khoăn tự hỏi vai trò của mình tại sự kiện đó: Tôi không phải là tỷ phú, cũng không phải là người tìm ra thuốc chữa bệnh đậu mùa, hay là người điều hành cả một đất nước. Vậy tại sao tôi lại ở đây? Nhưng Khosla ngay lập tức khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi bước lên sân khấu, nói với tất cả những nhà khởi nghiệp trong khán phòng, rằng: “Tất cả các bạn là những người cực kỳ tuyệt vời, và đó là lý do tôi đã đầu tư vào bạn. Nhưng nhiều người trong số các bạn không thể kể một câu chuyện khơi gợi cảm xúc, chính vì thế tôi đã mời tới đây Carmine Gallo để diễn thuyết.” Mặt khác, tôi kinh ngạc nhìn quanh phòng và nhận ra, tất cả những người ngồi ở đó đều đã là những người kể chuyện. Thực tế, tôi từng viết về những người nổi tiếng và phương pháp giao tiếp hiệu quả của họ. Và những nhà khởi nghiệp trẻ tuổi đầy ấn tượng ngồi ở hàng ghế khán giả cũng đều là những người kể chuyện. Một số người làm việc này hiệu quả hơn người khác, nhưng tất cả đã đều phải học để kể được một câu chuyện của riêng mình nếu họ hy vọng thay đổi thế giới bằng những ý tưởng của bản thân. Thực chất, những người nổi tiếng bậc nhất đã hiểu những gì mà các nhà thần kinh học và nhà nghiên cứu chỉ mới bắt đầu thấu hiểu: Một câu chuyện khách hàng đầy cảm xúc và sống động có sức thuyết phục hơn nhiều so với 85 slide PowerPoint chứa đầy số liệu. Một người có thể có ý tưởng tuyệt vời nhưng nếu người đó không thể truyền cảm hứng cho người khác tin vào ý tưởng của mình, mọi thứ chỉ là vô ích. Điều khiến tôi còn kinh ngạc hơn khi tương tác với nhóm đó chính là tất cả những nhà khởi nghiệp thành công nhất và nhà tư tưởng hàng đầu này – những bậc thầy giao tiếp trong nhiều lĩnh vực, và nhiều người trong số đó có vẻ giống như những người kể chuyện bẩm sinh – đều rất nóng lòng được học hỏi thêm về những yếu tố căn bản và vô cùng quan trọng để trình bày về bản thân, ý tưởng, và công việc. Họ nhận ra những tiềm năng to lớn của việc cải thiện từng chút một. Khi hội thảo Khosla diễn ra, tôi đang nghĩ tới chủ đề cho cuốn sách tiếp theo. Trước đó, tôi đã diễn thuyết rất nhiều để quảng bá cho cuốn Talk Like TED (Hùng biện kiểu TED)(*), trong đó giải mã những bí mật về thuyết trình của những nhà tư tưởng và nhà khởi nghiệp hàng đầu thế giới, đã khiến khán giả phải kinh ngạc trên sân khấu TED. Khi đi vòng quanh đất nước để quảng bá cuốn sách, tôi nhận thấy bất kể khán giả ở nơi tôi đến là ai đi nữa, một chương trong cuốn sách đó luôn có tác động mạnh mẽ nhất với họ: Cách các diễn giả TED làm chủ nghệ thuật kể chuyện – những câu chuyện hay nhất dường như là nền móng của mọi hình thức giao tiếp hiệu quả. Khi tương tác với khán giả, tôi nhận ra nghệ thuật kể chuyện nắm giữ chìa khóa không chỉ cho một bài TED talk hoàn hảo, mà còn cho cả sứ mệnh lớn lao hơn để tận dụng hết tiềm năng của mỗi người. (*)Cuốn sách đã được Alpha Books mua bản quyền và xuất bản năm 2017. (BTV) Tôi nhận ra tầm quan trọng của việc kể chuyện không chỉ trong quá trình quảng bá cho cuốn sách của mình, mà còn trong nhiều bối cảnh khác. Khi tôi phỏng vấn nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng Ben Horowitz, ông đã nhận xét rằng đối với các nhà khởi nghiệp: “Kể chuyện là kỹ năng thường bị đánh giá thấp nhất.” Richard Branson đã viết một bài blog về cách sử dụng nghệ thuật kể chuyện để đem lại sự thay đổi. Trên một chuyến bay mà tôi được ngồi cạnh một chuyên viên bán hàng của Salesforce, anh ta nói: “Chúng tôi có một cách mới để ghi lại mọi nhận xét của khách hàng trên video, nhưng chúng tôi đang rất chật vật sử dụng chúng để kể được một câu chuyện.” Trên chuyến bay khác tới Paris, tôi gặp một giám đốc của gã khổng lồ trong lĩnh vực công nghệ toàn cầu SAP, và ông nói: “Công ty của chúng tôi vừa mới thuê một giám đốc marketing mới, với chức danh ‘Giám đốc Kể chuyện’. Trong khi công ty của tôi đang đơn giản hóa câu chuyện của mình ở mức độ vĩ mô, thì tôi lại đang vật lộn để đơn giản hóa câu chuyện của mình trên PowerPoint. Người ta từng nói với chúng tôi rằng các bài thuyết trình không nên dài hơn một bài hùng biện kiểu TED 18 phút.” Cố gắng để kể chuyện một cách hiệu quả và ngắn gọn trở thành một thử thách khó khăn với nhiều người. Trên một chuyến đi khác, tôi gặp những giám đốc cấp cao của một công ty toàn cầu trong lĩnh vực năng lượng. Và họ nói với tôi rằng CEO của công ty đã đưa ra yêu cầu mới: Tất cả các bài thuyết trình bán hàng không được dài quá 10 slide. “Làm thế nào chúng tôi có thể kể câu chuyện của mình chỉ trong 10 slide được?” ông ta hỏi. Trên cùng chuyến đi đó, một giám đốc sắp gặp Thủ tướng Việt Nam vào tuần sau đã hỏi tôi: “Làm thế nào tôi có thể kể cho ông ấy trong 20 phút câu chuyện chúng tôi là ai, lý do chúng tôi hoạt động trong ngành này, và lý do Việt Nam nên hợp tác với công ty chúng tôi chứ không phải với công ty đối thủ của chúng tôi?” Tôi đã từng gặp CEO của những công ty lớn nhất thế giới và cả các nhà khởi nghiệp trẻ tuổi đang chuẩn bị bài thuyết trình định đoạt thành bại cả đời trên chương trình Shark Tank của kênh ABC. Họ đặt ra cùng một câu hỏi: Làm thế nào tôi có thể kể được câu chuyện đằng sau ý tưởng của mình? Tất cả chúng ta đều là “những người kể chuyện.” Chúng ta không tự gọi mình là những người kể chuyện, nhưng chúng ta làm điều đó hằng ngày. Mặc dù chúng ta vẫn chia sẻ các câu chuyện trong hàng nghìn năm, nhưng những kỹ năng mà chúng ta cần để thành công trong thời đại công nghiệp rất khác so với ngày nay. Khả năng bán những ý tưởng của chúng ta dưới dạng câu chuyện trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Những ý tưởng chính là tiền tệ của thế kỉ XXI. Trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức, bạn chỉ có giá trị ngang với những ý tưởng của mình. Câu chuyện là phương tiện để chúng ta truyền đạt các ý tưởng đó cho người khác. Đóng gói ý tưởng với cảm xúc, bối cảnh và sự liên quan chính là kỹ năng quan trọng nhất có thể khiến bạn trở nên có giá trị hơn trong thập niên tiếp theo. Kể chuyện chính là hành động diễn đạt ý tưởng dưới dạng một câu chuyện để truyền đạt thông tin, soi sáng và truyền cảm hứng. Bí mật của Người kể chuyện nói về những câu chuyện mà bạn sẽ kể để thúc đẩy sự nghiệp, xây dựng công ty, trình bày một ý tưởng và biến giấc mơ thành hiện thực. Khi trình bày về sản phẩm hoặc dịch vụ cho một khách hàng mới, bạn đang kể chuyện. Khi hướng dẫn đội nhóm hoặc dạy học, bạn đang kể chuyện. Khi xây dựng bài thuyết trình PowerPoint cho buổi gặp mặt bán hàng tiếp theo, bạn đang kể chuyện. Khi đến phỏng vấn xin việc và nhà tuyển dụng hỏi về những kinh nghiệm trước đây của bạn, bạn đang kể chuyện. Khi viết e-mail, blog hoặc bài đăng trên Facebook, quay video cho kênh YouTube của công ty, bạn đang kể chuyện. Nhưng có sự khác biệt giữa một câu chuyện, một câu chuyện hay và một câu chuyện có ý nghĩa đột phá giúp xây dựng niềm tin, thúc đẩy doanh số và truyền cảm hứng cho người khác về giấc mơ lớn hơn. Trong phần này, tôi sẽ giới thiệu cho bạn một số người kể chuyện xuất sắc nhất ở thời đại của chúng ta: Richard Branson, Howard Schultz, Sheryl Sandberg, Joel Osteen, Herb Kelleher, Gary Vaynerchuk, Mark Burnett, Oprah Winfrey, Elon Musk, Steve Wynn, Tony Robbins, Steve Jobs và một số người khác mà bạn có thể chưa biết lắm, nhưng cũng đã trở thành những người dẫn đầu trong lĩnh vực của họ nhờ vào khả năng kể các câu chuyện có ý nghĩa lớn lao. Nhiều người được đề cập trong cuốn sách này đã có những bài phát biểu trên TED được chia sẻ rộng rãi trên mạng, không phải vì các dữ liệu họ trình bày, mà bởi những câu chuyện họ đã kể. Các ý tưởng được nhiều người tin tưởng cũng thường được kể dưới dạng câu chuyện. Tôi đã đích thân phỏng vấn rất nhiều người kể chuyện trong cuốn sách này. Tất cả họ đã làm chủ được nghệ thuật và khoa học kể chuyện để truyền cảm hứng, động lực và sau cùng là thuyết phục những người khác thực hiện các hành động mong muốn. Tất cả họ đều đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và luôn sẵn sàng chia sẻ những bài học mà họ nhận được. Một trong những kết luận cốt lõi của cuốn sách này chính là việc đa số những người kể chuyện giỏi nhất đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, và họ đã biến chúng thành thắng lợi. Những thất bại khiến họ trở nên thú vị hơn, bởi như bạn sẽ thấy sau đây, tất cả chúng ta sinh ra đều đã yêu thích câu chuyện của những người từ tay trắng trở nên giàu có. Chiến đấu là một phần của tự nhiên, chính vì lý do đó, chúng ta thường bị thu hút bởi các câu chuyện kể về những khó khăn mà người khác phải trải qua. Ngọc trai, kim cương và rượu đại diện cho chiến thắng của tự nhiên trước những khó khăn. Ngọc trai được hình thành khi con trai tự bảo vệ mình trước những hạt cát khó chịu. Kim cương được tạo thành dưới sức ép và nhiệt độ vô cùng lớn trong lớp vỏ Trái đất. Và những loại nho ngon nhất lại thường đến từ những rặng núi dốc đứng hay những vùng đất sỏi đá, gây sức ép lên bộ rễ để sau cùng tạo nên những quả nho thơm ngon; chúng có “khí chất” cao nhất. Tất cả chúng ta đều thích những câu chuyện mà ở phần cuối có một viên kim cương, một kết thúc có hậu cho cuộc đấu tranh. Những nhà lãnh đạo truyền cảm hứng vẫn thường kể câu chuyện vượt qua khó khăn để tạo nên sự gắn bó về mặt cảm xúc với khán giả. Hãy trân trọng những gì bạn đã trải qua, bởi đó chính là thứ tạo nên huyền thoại và di sản. Kể chuyện không phải là việc chúng ta làm. Kể chuyện là chính bản thân chúng ta. *** GIỚI THIỆU Chúng ta có thể sử dụng nghệ thuật kể chuyện để thúc đẩy sự thay đổi. – Richard Branson Trên một mảnh đất nhỏ bé ở Quần đảo British Virgin, một nhóm các nhà khởi nghiệp tham vọng chia sẻ lãnh thổ đó với những cư dân lâu năm: hồng hạc, một con rùa chân đỏ, và 35 con vượn cáo Madagascar. “Trên thế giới chỉ còn 200 con vượn cáo mà thôi,” Richard Branson giải thích khi một con vượn cáo cố nhảy từ cây này sang cây khác. “Và nếu con này không thực hiện thành công cú nhảy, sẽ chỉ còn 199 con,” Branson nói đùa. Những loài động vật quý hiếm là món quà mà chúng ta phải trân trọng, còn các nhà khởi nghiệp đang hy vọng sẽ nhận được món quà tài chính từ Branson, chủ sở hữu của hòn đảo. Nhà sáng lập Tập đoàn Virgin sở hữu 30ha của thiên đường nhiệt đới đầy sức sống có tên Đảo Necker này. Đây là ngôi nhà và nơi trú ẩn của ông. Ngày hôm đó cũng là ngày diễn ra cuộc thi Extreme Tech Challenge, một trong những cuộc thi hùng biện khác thường nhất mà thế giới từng biết tới. Các thí sinh của vòng chung kết – một số người đã được chính tôi huấn luyện để kể câu chuyện về sản phẩm của họ một cách hiệu quả hơn – tới đây để bán ý tưởng của mình cho Richard Branson. Bill Tai, một nhà đầu tư mạo hiểm lâu năm kiêm nhà tài trợ của cuộc thi hùng biện này, đã đầu tư vào các công ty từ năm 1991. Tai đã chứng kiến nhiều làn sóng công nghệ tại Thung lũng Silicon và biết rằng lúc này đây, hơn bao giờ hết, khả năng truyền đạt ý tưởng một cách đơn giản và rõ ràng, đồng thời có thể kể các câu chuyện hấp dẫn chính là yếu tố vô cùng quan trọng để bất cứ ai trở nên nổi bật trong cuộc đua cạnh tranh ý tưởng. Các chuyên gia kỹ thuật và nhà khoa học không còn chỉ nói chuyện với đồng nghiệp nữa. Nếu họ không thể giải thích những lợi ích của sản phẩm cho khách hàng, các ý tưởng của họ sẽ không thể thu hút được ai. Họ phải dịch ngôn ngữ chỉ toàn những bit và byte thành một câu chuyện mà mọi người tiêu dùng đều hiểu được. Tai nhận thấy sự đồng điệu ở Richard Branson, người cực kỳ tin tưởng vào nghệ thuật kể chuyện để thúc đẩy sự thay đổi. “Kể chuyện là một trong những cách tốt nhất để nghĩ ra các ý tưởng mới, học hỏi về những người khác và thế giới,”[1]Branson nói. Theo trực giác, Branson đã biết rõ những gì mà các nhà thần kinh học đang cố xác nhận trong phòng thí nghiệm – bộ não của chúng ta được sinh ra cho các câu chuyện. Để hiểu được niềm tin của Branson rằng nghệ thuật kể chuyện có thể tạo nên ảnh hưởng tích cực trong tương lai, chúng ta phải nhìn về quá khứ. Một triệu năm trước, con người để kiểm soát được một yếu tố vô cùng quan trọng cho sự sống còn của cả giống loài. Yếu tố này giúp giải thích tại sao một số bài thuyết trình thất bại thảm hại, trong khi những bài khác lại giúp một nhãn hiệu gia nhập thị trường thành công. Nó giải thích tại sao nhiều ý tưởng không thể thu hút được người khác trong khi những ý tưởng khác lại tạo nên trào lưu trên toàn thế giới. Nó giải thích tại sao nhiều nhà lãnh đạo không thể truyền cảm hứng cho đội nhóm, trong khi những người khác lại thuyết phục được mọi người vượt qua khó khăn. Yếu tố đó chính là lửa. Ánh Lửa Và Thổ Dân Kalahari Các nhà khảo cổ học coi lửa là thứ đã soi sáng sự tiến hóa của loài người. Điều này hoàn toàn hợp lý vì khi kiểm soát được lửa, tổ tiên của loài người có thể nấu thức ăn, và từ đó, giúp tăng đáng thể kích thước bộ não. Lửa cũng giúp xua đuổi thú săn mồi ban đêm – một điều quan trọng nếu bạn muốn sống tới sáng hôm sau. Tuy thế cho tới gần đây, rất ít nhà khoa học nghiên cứu lợi ích quan trọng nhất của lửa – đánh thức trí tưởng tượng của chúng ta thông qua nghệ thuật kể chuyện. Ánh lửa giúp ngày như dài hơn, cho chúng ta thêm thời gian để thực hiện những việc khác ngoài săn thú và hái lượm. Khi chia sẻ những trải nghiệm quanh đống lửa, mọi người học được cách tránh nguy hiểm, săn thú hiệu quả hơn theo nhóm, và củng cố những truyền thống văn hóa. Các nhà khảo cổ học xã hội tin rằng, việc kể chuyện chiếm 80% thời lượng trong những cuộc chuyện trò bên ánh lửa của tổ tiên chúng ta. Trên sa mạc Kalahari ở Namibia, một nhóm thổ dân được biết đến với cái tên Bushmen vẫn kiếm thức ăn bằng cách hái lượm dưa hấu, lạc, hạt giống và săn linh dương. Họ săn bắn và hái lượm lúc ban ngày và là những người kể chuyện khi đêm xuống. Khi mặt trời lặn trên đất Kalahari, các thổ dân đốt lửa và kể những câu chuyện như tổ tiên của họ đã làm hàng nghìn năm trước. Ban ngày, cuộc trò chuyện của các thổ dân tập trung vào vấn đề sinh tồn, chiến lược săn bắn, quản lý nguồn tài nguyên, hòa giải mâu thuẫn,… Chỉ 6% các cuộc nói chuyện của họ là để kể chuyện.[2] Thế nhưng, khi đêm xuống thì lại là một câu chuyện khác, theo đúng nghĩa đen. Khi ánh lửa giúp ngày dài thêm, các thổ dân dành đến 81% thời gian nói chuyện quanh đống lửa để kể chuyện. Đàn ông và phụ nữ kể chuyện, chủ yếu là về những người mà các dân làng khác đều biết hoặc những cuộc phiêu lưu thú vị và sôi động. Với các thổ dân Bushmen, việc kể chuyện giúp khơi dậy trí tưởng tượng, tạo nên sự gắn bó giữa những người không quen biết nhau, và truyền đạt các thông tin quan trọng cho sự sinh tồn. Không phải tất cả nhà truyền đạt đều có kỹ năng kể chuyện, ngay cả trong xã hội bộ lạc. Trong những nhóm thổ dân, cũng như giữa các diễn giả TED hoặc lãnh đạo doanh nghiệp, những người diễn thuyết giỏi nhất khiến khán giả bò lăn ra cười, trong khi vẫn hồi hộp hoặc tràn đầy cảm hứng muốn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu cho riêng mình. Những người lãnh đạo của khu trại thường là những người kể chuyện giỏi. Và người giỏi nhất trong số những người kể chuyện được ngưỡng mộ nhất sử dụng các phương pháp “giao tiếp đa phương diện” như cử chỉ, bắt chước, hiệu ứng âm thanh và bài hát. Những người kể chuyện ở Kalahari biết rằng họ phải truyền đạt thông tin, kể lại những trải nghiệm, truyền cảm hứng và giải trí cho mọi người. Nếu mọi người không cảm thấy được giải trí, họ sẽ không nghe nữa mà đi ngủ, không khác gì chuyện vẫn thường xảy ra trong hàng triệu bài thuyết trình bán hàng được thực hiện mỗi ngày. Con người đã tiến hóa để nhận thức các câu chuyện là mang tính giải trí bởi nếu không để tâm lắng nghe, họ có thể biến thành bữa trưa của một con sư tử nào đó. “Những câu chuyện được kể bên đống lửa đặt người nghe vào cùng tần số cảm xúc, củng cố sự thấu hiểu, tin tưởng và cảm thông, xây dựng cái nhìn tích cực về những tính cách như sự hài hước, ăn ý và sáng tạo,”[3] Giáo sư khảo cổ học Polly Wiessner tại Đại học Utar phát biểu. “Thông qua các câu chuyện và cuộc thảo luận, mọi người thu thập những kinh nghiệm của người khác và tích lũy kiến thức về các lựa chọn mà người khác đã từng thử qua. Những cuộc nói chuyện ban đêm đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền đạt bức tranh toàn cảnh.” Wiessner, người từng dành ba tháng sống cùng với các thổ dân Kalahari tại tây bắc Botswana và ghi lại các cuộc nói chuyện của họ đã nói rằng, sự yêu thích bối cảnh bên đống lửa vẫn còn tồn tại quanh chúng ta cho tới tận ngày hôm nay. Sự yêu thích các câu chuyện của công chúng chính là điều khiến một số người trở nên cực kỳ giàu có. Hơn 2500 năm trước, một diễn giả có tên Gorgias đã nhận ra những người kể chuyện giỏi nhất có thể truyền cảm hứng cho khán giả. Ông đi vòng quanh Hy Lạp cổ đại, truyền bá nghệ thuật diễn thuyết và tranh luận rằng việc đưa thêm các câu chuyện mang tính cảm xúc vào bài phát biểu có thể giúp ngăn chặn sự sợ hãi, xóa bỏ nỗi buồn, tạo ra niềm vui và nuôi dưỡng lòng mộ đạo. Gorgias giúp mọi người tạo ra những luận điểm mạnh mẽ hơn, và điều đó giúp ông được rất nhiều người ngưỡng mộ. Ông trở thành một trong những người giàu có nhất Hy Lạp chỉ nhờ nghệ thuật kể chuyện. Ngày nay, việc kể những câu chuyện thật hay vẫn có thể giúp con người trở nên giàu có, đặc biệt là những người khởi nghiệp đang cần bán ý tưởng của mình. Các Công Cụ Đã Thay Đổi Trở lại hòn đảo Necker, những nhà khởi nghiệp sử dụng sức mạnh của các câu chuyện khiến Branson bật cười, suy nghĩ, và truyền cảm hứng cho ông đầu tư vào ý tưởng của họ. Những câu chuyện đem lại cho Branson một cách nhìn mới về thế giới, và sau cùng khơi dậy trí tưởng tượng trong ông rằng những phát minh thay đổi thế giới không chỉ khả thi trong cuộc đời ông, mà chính Branson có thể đóng vai trò giúp phát triển chúng. Branson yêu thích kể chuyện quanh đống lửa trại đến nỗi ông thuê một nghệ sĩ chế tác thủ công một khối cầu bằng kim loại cực đẹp để chứa một quả cầu lửa khổng lồ. Những cuộc nói chuyện quanh đống lửa có thể đã xuất hiện 400 nghìn năm trước, nhưng bộ não của chúng ta vẫn thèm muốn các câu chuyện ngay cả ở thời hiện đại. Dĩ nhiên, tầm quan trọng của nó đã thay đổi. Thay vì săn bắn để kiếm thức ăn, những nhà khởi nghiệp thuyết trình trước Richard Branson đang dùng những câu chuyện để kiếm tiền. Và các công cụ đã thay đổi. PowerPoint đã thay thế những bức vẽ trên vách hang. Nhưng có một điều vẫn nguyên vẹn, đó chính là khát vọng của chúng ta, sự thèm muốn được nghe những câu chuyện hấp dẫn. Những người đã làm chủ được nghệ thuật kể chuyện có thể tạo ra tác động cực lớn đối với người khác. Theo nhà thần kinh học Uri Hasson tại Đại học Princeton, người kể được những câu chuyện thu hút thực sự có thể “gieo” những ý tưởng, ý nghĩ và cảm xúc vào bộ não của người nghe. Nghệ thuật kể chuyện chính là vũ khí quan trọng nhất trong cuộc chiến của những ý tưởng. Trên hòn đảo Necker, trong vòng 10 phút, mỗi nhà khởi nghiệp phải nói lên tầm nhìn phía sau ý tưởng hoặc sản phẩm và phải thu hút được sự chú ý của Branson, đồng thời thuyết phục ông rằng ý tưởng đó có tiềm năng đem lại ảnh hưởng tích cực cho thế giới, và truyền cảm hứng để ông đầu tư tài chính cho công ty. Phần lớn những người khi được trao 10 phút để nói về ý tưởng của mình vẫn mặc định một cách sai lầm rằng các nhà đầu tư tiềm năng muốn nghe tất cả thông tin về tài chính, các số liệu và dữ kiện. Họ chỉ đúng một phần thôi. Các nhà khởi nghiệp đó đang bỏ quên kết luận cốt lõi của khoa học thần kinh: Cảm xúc luôn chiến thắng logic. Bạn không thể tác động đến lý trí của một người nếu trước đó không chạm vào trái tim họ, và đường đến trái tim cũng đi qua bộ não, bắt đầu với hạch hạnh nhân. Hạch Hạnh Nhân: Người Bạn Tốt Nhất Của Người kể chuyện Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu y học đã tin rằng con người chỉ có thể nghiện thuốc và rượu. Sau đó, công nghệ chụp ảnh não bộ ra đời đã cho phép các nhà nghiên cứu nhìn thấy sự lưu thông máu trong não, và nhờ đó, họ phát hiện ra con người cũng nghiện các hoạt động khác như tình dục, cờ bạc, ăn uống và mua sắm. Một số hoạt động cũng khống chế bộ não hệt như những loại ma túy mạnh nhất. Những loại ma túy như hê-rô-in làm tăng mạnh lượng dopamine(*) – đến nỗi chỉ dùng một lần có thể khiến người nào đó nghiện cả đời. Các nhà khoa học nhận ra chính hệ thần kinh tưởng thưởng của não bộ cũng tham gia thuyết phục, truyền cảm hứng, và ghi nhớ. Những phát hiện này sẽ có tác động cực lớn lên thành công của bạn. (*) Chất dẫn truyền thần kinh giúp cơ thể cảm thấy hưng phấn, khoái cảm. (BTV) Ví dụ, các nhà nghiên cứu ngày nay biết rằng một ý nghĩ có thể tạo nên “trạng thái cơ thể”, nghĩa là ý nghĩ kích hoạt các vùng não bộ vốn chỉ hoạt động nếu bạn thực sự trải nghiệm sự kiện đó trong thực tế. Giả sử bạn thắng xổ số 20 triệu đô-la, bạn sẽ cực kỳ sung sướng vì hạch hạnh nhân – một khối tế bào thần kinh có hình giống quả hạnh nhân ở thùy não trước trán – sẽ tiết ra rất nhiều dopamine. Giờ hãy nhắm mắt lại và tưởng tượng bạn thắng giải xổ số. Hãy hình dung hình ảnh, âm thanh và cảm giác của sự kiện đó. Khi bạn biết tin này, ai đang ở đó với bạn? Khuôn mặt của họ như thế nào? Bạn sẽ làm gì với số tiền đó? Bạn có thể không nhận ra nhưng khuôn miệng bạn sẽ nhẹ nhàng vẽ nên một nụ cười. Bạn đang nhận được một liều dopamine nhỏ khiến bản thân cảm thấy thoải mái, vì bạn đang kích hoạt chính những vùng của não vốn sẽ hoạt động nếu bạn thực sự thắng giải. Đó chính là sức mạnh của hạch hạnh nhân. Một câu chuyện hay cũng khiến não tiết ra rất nhiều chất như cortisol, oxytocin và dopamine. Nhờ có thần kinh học, chúng ta đã biết nhiều về nghệ thuật kể chuyện trong 10 năm qua, hơn là tất cả những gì chúng ta đã khám phá ra kể từ khi con người bắt đầu vẽ tranh lên vách hang. Giờ chúng ta biết chất nào trong não khiến chúng ta chú ý tới một diễn giả (cortisol) và chất nào khiến chúng ta cảm thấy thông cảm với người khác (oxytocin). Chúng ta cũng biết điều gì châm ngòi cho các phản ứng hóa học thần kinh. Chúng ta biết các câu chuyện vận hành như thế nào, tại sao chúng có tác dụng, và có thể chứng tỏ điều đó bằng khoa học. Nghiện các câu chuyện không phải là một điều xấu. Nếu những người kể chuyện truyền cảm hứng không tồn tại, thế giới sẽ là một nơi rất khác, và tôi nói vậy không hề với nghĩa tích cực. Ví dụ, trong loạt sáu bài phát biểu năm 1940, Thủ tướng Anh Winston Churchill đã thành công trong việc thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của cộng đồng về Thế Chiến II. Một đất nước vừa mới chấp nhận nhượng bộ Đức Quốc Xã chỉ 14 ngày trước lại quyết định chiến đấu tới hơi thở cuối cùng sau khi nghe luận điểm vô cùng mạnh mẽ của Churchill. Mặc dù Đức đã chiếm được những vùng rộng lớn ở Tây Âu, nhưng Churchill đã vô cùng khéo léo vẽ nên bức tranh người Anh đánh bại được quân đội của Hitler. “Mục tiêu của chúng ta là gì?” Churchill hỏi. “Chiến thắng. Chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Chiến thắng bất chấp mọi nỗi kinh hoàng, chiến thằng dù con đường có dài và khó khăn đến đâu; vì nếu không chiến thắng thì cũng không còn sự sống.” Nhờ khả năng kể chuyện, Churchill đã thay đổi hẳn vận mệnh của cả một nền văn minh. Điều thú vị là Churchill không có năng khiếu kể chuyện bẩm sinh. Giống như để làm chủ bất kỳ nghệ thuật nào, ông cũng phải tập luyện rất nhiều. Ở giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị, Churchill mắc chứng sợ nói trước đám đông. Richard Branson, mục sư nổi tiếng Joel Osteen, tỷ phú Barbara Corcoran và Warren Buffett cũng vậy. Những người kể chuyện giỏi khiến việc này trông có vẻ nhẹ nhàng vì họ đã dồn rất nhiều tâm sức để trở nên tài giỏi đến thế. Các nhà lãnh đạo truyền cảm hứng nhất trong lịch sử cũng là những người kể chuyện: Chúa Jesus, John F. Kennedy, Martin Luther King Jr., Ronald Reagan, Nelson Mandela, Henry Ford, và Steve Jobs. Rất nhiều người trong số những nhà khởi nghiệp và nhà lãnh đạo tài giỏi ngày nay cũng là những người kể chuyện giỏi: Richard Branson, Bill Gates, Mark Burnett và Sheryl Sandberg. Rất nhiều người kể chuyện được đề cập trong cuốn sách này đã thay đổi cả lịch sử. Một vài người là những anh hùng trong lĩnh vực kinh doanh. Một vài người khác truyền cảm hứng cho những phong trào vĩ đại. Và trên hết, họ là những người thực hiện ước mơ. Họ vươn tới các vì sao và truyền cảm hứng cho tất cả những người còn lại hướng đến mặt trăng của mình. Cuốn sách này nói về những người có tầm nhìn xa trông rộng và dám chấp nhận mạo hiểm đã làm chủ nghệ thuật kể chuyện, và truyền cảm hứng cho chúng ta sống tốt hơn. Một số người khiến chúng ta bật cười, một số người khiến chúng ta suy nghĩ, và một số người khiến chúng ta thay đổi. Thông qua việc kể chuyện một cách đầy nghệ thuật, vừa truyền đạt thông tin vừa thách thức người nghe, họ đã xây dựng được các công ty, thúc đẩy thế giới phát triển, và khiến tất cả chúng ta cảm thấy chính mình cũng có thể làm được những điều tưởng như bất khả thi. Tất Cả Chúng Ta Đều Là Những Người kể chuyện Kể chuyện là yếu tố căn bản của giao tiếp. Trong thế giới mà con người luôn phải đối diện với những lựa chọn, câu chuyện thường là yếu tố quyết định để xác định chúng ta sẽ làm việc với ai. Tất cả chúng ta đều là những người kể chuyện. Chúng ta kể chuyện để bán ý tưởng. Chúng ta kể chuyện để thuyết phục các nhà đầu tư hỗ trợ cho một sản phẩm nào đó. Chúng ta kể chuyện để giáo dục học sinh, sinh viên. Chúng ta kể chuyện để truyền cảm hứng cho đội nhóm. Chúng ta kể chuyện để thuyết phục những người đóng góp viết một tấm séc. Chúng ta kể chuyện để khuyến khích con cái tận dụng hết tiềm năng của chúng. Hãy học cách kể chuyện để cuộc sống của bạn và của những người mà bạn tiếp cận thay đổi hoàn toàn. Bí mật của Người kể chuyện nói về 50 người kể chuyện đã thay đổi thế giới hoặc tạo ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp nhờ vào việc làm chủ được nghệ thuật và khoa học kể chuyện. Mỗi người kể chuyện đều thuộc một trong năm hạng mục tương ứng với năm phần nhằm khuyến khích bạn suy nghĩ khác đi về câu chuyện của chính mình, và cách bạn đưa nghệ thuật kể chuyện vào việc giao tiếp hằng ngày. - Những người kể chuyện khơi dậy ngọn lửa bên trong chúng ta - Những người kể chuyện giáo dục - Những người kể chuyện đơn giản hóa - Những người kể chuyện truyền động lực - Những người kể chuyện khơi dậy phong trào Mỗi chương được chia thành ba phần. Trước tiên, bạn sẽ tìm hiểu câu chuyện của chính người kể chuyện đó. Đa số những người được nhắc tới trong cuốn sách này đều từng là những người bình thường sử dụng nghệ thuật kể chuyện để đạt được các kết quả phi thường. Phần thứ hai của mỗi chương sẽ thảo luận chi tiết các công cụ của mỗi người kể chuyện, lý do tại sao chúng hiệu quả, và cách áp dụng chúng. Cuối cùng, mỗi chương kết thúc bằng một phần tóm tắt ngắn gọn về bài học mà chúng ta có thể rút ra – bí mật của người kể chuyện. Khi đã học được những bí mật của người kể chuyện và lý do tại sao chúng hiệu quả, bạn có thể áp dụng những kỹ thuật này vào bất kỳ hình thức giao tiếp nào: hùng biện trước đám đông, thuyết trình PowerPoint, viết blog, e-mail, quảng cáo và marketing, hoặc đơn giản là trình bày ý tưởng về cà phê tại Starbucks. Bạn sẽ học cách đóng khung ý tưởng để truyền đạt thông tin, làm sáng tỏ và truyền cảm hứng. Trong 10 năm tới, khả năng kể chuyện một cách thuyết phục sẽ đóng vai trò quyết định – kỹ năng quan trọng nhất – giúp bạn đạt được ước mơ của mình. Vì thập niên tiếp theo đánh dấu những hứa hẹn vĩ đại nhất mà nền văn minh con người từng biết tới, câu chuyện mà bạn kể cho chính mình và câu chuyện mà bạn chia sẻ cho những người khác sẽ khơi mở tiềm năng của bạn và hoàn toàn có thể thay đổi thế giới. Chẳng phải đã đến lúc bạn chia sẻ câu chuyện của mình rồi sao? Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Người Kể Chuyện của tác giả Carmine Gallo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điểm Đến Của Cuộc Đời
Điểm đến của cuộc đời kể lại một hành trình không thể nào quên cùng những người cận tử. Dấn thân vào “một thế giới của những bi kịch và tổn thất khổng lồ, của phẩm giá và lòng tự trọng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, của sự phản bội và sợ hãi, của tình yêu mãnh liệt và hy vọng khôn nguôi, tóm lại, của tất cả những gì thuộc về con người, ở mức độ dữ dội nhất”, tác giả muốn đi tìm câu trả lời cho thôi thúc nội tâm: ta nên ứng xử thế nào trước cái chết, và sự chết có thể dạy ta điều gì cho cuộc sống? Kỳ lạ thay, những số phận được kể trong cuốn sách, dù đang ở tầng bậc tột cùng của nỗi đau đớn, lại cho thấy những điều đẹp đẽ đến mức khiến ta nghẹn ngào: bản lĩnh để đi qua bi kịch khó diễn đạt bằng lời, thái độ bình tĩnh của con người tự do trước cái chết, khao khát làm việc có ích, trỗi dậy vào những ngày tháng cuối cùng. Đồng hành với họ, ta thấy biết ơn, hạnh phúc và giàu có. Gấp lại cuốn sách, ta có thể được rất nhiều: một nhận thức thấm thía về sự hữu hạn của con người, một thái độ điềm tĩnh trước điểm kết, lòng trân trọng cuộc sống, để từ đó bắt đầu rời xa những phù phiếm ồn ào, sắp xếp lại các ưu tiên, tập trung vào những điều cốt lõi khiến cuộc sống có ý nghĩa. Một hành trình dũng cảm. Một cuốn sách tràn đầy tính nhân văn và và sức lay động tâm hồn. *** Cách đây vài hôm, bạn tôi có đăng trên mạng xã hội dòng trạng thái: “Bạn còn trẻ và bạn có một trái tim lương thiện, bạn còn sợ điều chi?”. Lúc ấy nảy lên trong đầu tôi là câu: “Sợ chết!”. Không phải bi quan khi nghĩ như vậy đâu, cái chết là điều không ai có thể tránh khỏi, mà sai lầm của tuổi trẻ là cảm giác mình-bất-tử. “Sợ” không phải để rụt mình vào vỏ ốc tự xây, sợ để nhận thức rằng mình hay người thân yêu – ai rồi cũng sẽ trở về với cát bụi, sợ để thấy được sự quý giá từ những thứ nhỏ nhoi trong cuộc đời này. Giá trị của cái chết là nó giục giã chúng ta sống một cuộc sống có ý thức. Kẻ nào dám nhìn thẳng vào cái chết, kẻ ấy sẽ biết sống “Điểm đến của cuộc đời” là cuốn sách mà bạn có thể biết được khái quát nội dung ngay từ bìa trước, thậm chí không cần đọc lời bạt ở bìa sau, rất rõ ràng: Đồng hành với người cận tử và những bài học cho cuộc sống. Còn đồng hành như thế nào và bài học gì thì phải đọc hết cuốn sách mới biết được! Tôi bắt đầu đọc quyển này từ ngày cuối cùng của năm ngoái, và kết thúc trong những ngày còn “mồng” của tháng giêng năm nay. Tết mà đọc về cái chết thì có nên không? Ồ, nên chứ! Bởi đó là dịp chúng ta nhận ra rằng thời gian sống lại ngắn thêm một chút nữa. Câu chuyện của chị Hà và Nam, của chị Ánh, của Hùng, của Liên và của Vân mà tác giả Đặng Hoàng Giang ghi lại chỉ là cuộc đời của một vài trong số rất nhiều số phận ngoài kia – những con người đang sống, đang chết và đã chết, trong đó có tôi, có chúng ta… Xa lạ và quen thuộc như vậy. Điểm sáng là qua cuộc song hành cùng những người cận tử ấy, tác giả gợi lên những điều mà xưa nay con người ta vốn nhầm tưởng. Một là, xã hội thường ca ngợi kiểu anh hùng “chữa chạy tới hơi thở cuối cùng”, nhưng chúng ta cũng cần ca ngợi một kiểu người hùng gọi là “buông bỏ”. “Nhiều gia đình không hình dung được có gì tệ hơn cái chết của người thân. Nhưng có điều tệ hơn, đó là cái chết tồi tệ, chết trong đau đớn, hành hạ, với đầy dây dợ, máy móc trên người.” Ira Byock – bác sĩ Mỹ và là tác giả cuốn “Chết thanh thản: Viễn cảnh phát triển lúc cuối đời”, viết. Hãy đọc câu chuyện của chị Hà và bé Nam, người mẹ trẻ ấy bảo rằng “Với em khi bác sĩ bảo dừng thì em ok. Cái bệnh của cháu đến cả thế giới còn chưa có biện pháp. Lúc bác sĩ nói thì em hiểu luôn là số trời đã định rồi.” Để rồi bạn sẽ chẳng bao giờ giận chị vì khúc mắc tại sao không cầu xin bác sĩ cố gắng thêm với ước mong kỳ tích, rồi bạn sẽ phải rơi nước mắt về những điều sau đấy, về buông bỏ nhưng không buông xuôi. Để biết được rằng “chữa chạy tới hơi thở cuối cùng” không phải là cách duy nhất để bày tỏ lòng yêu thương, trách nhiệm, hay ý thức về đạo lý, bởi nhiều lúc nó chỉ xoa dịu được lòng người sống chứ không phải ý muốn thực sự của bệnh nhân. Người sống mấy ai hiểu được rằng, cái đau làm người ta không biết trốn đi đâu được, nhiều người sợ đau hơn sợ chết. Hai là, quan niệm về hiến tạng đối với nhiều người còn khá là bảo thủ, với suy nghĩ rằng chết thì phải toàn thây, nguyên vẹn. Mà suy nghĩ ấy, lại đa phần là đến từ thân nhân của người muốn hiến tạng. Tôi nhớ như in cái câu “Đau xót lắm, chú ạ.” mà mẹ chị Vân nói với chú Giang. Vâng, vẫn là cán cân muôn thuở giữa cái đau trong lòng người sống và ước nguyện cuối cùng của một số phận sắp từ giã cõi đời. Nói cho cùng thì cơ thể ta ư, nó là cái gì? Nó chỉ là một cái bao tải bằng da đựng một đống bùng nhùng mà thôi. Trong “Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm” (Satippatthana Sutta – Kinh Tứ Niệm Xứ) do thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch, có đoạn: “Lại ví như khi thấy một xác chết bị liệng vào bãi tha ma, đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính mình: ‘Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.’ ” Vậy thì tại sao không để một phần trong ta sống trong hình hài khác, cứu sống sinh linh khác, mang đến niềm vui và hạnh phúc cho gia đình khác, khi mà lỡ như ta có gì đó bất trắc? Đầu năm 2019, nền y học Việt Nam tôn vinh anh Dương Hồng Quý – người hiến 7 mô tạng, cứu sống 6 người. Mẹ của bệnh nhân nhi được anh Quý hiến phổi bày tỏ: “Hiến tạng là một nghĩa cử nhân văn cao đẹp. Chồng chị ấy giờ đang sống trong thân thể con tôi, đúng là sự kỳ diệu của y học.” Tôi thực sự hi vọng, ngày mình cầm tờ giấy hiến tạng của bản thân, với vai trò là người làm chứng – người thân của tôi sẽ thoải mái ký tên. Cái chết là một điều gì đó thật kỳ lạ, thật bí ẩn, thiêng liêng. Cái nôi lật ngược thì thành nấm mồ. Có lẽ sinh và tử cùng bản chất, đều là những hiện tượng vĩnh hằng của thiên nhiên? Đứng trước chúng, chúng ta thấy khiêm nhường. Ta không thể làm gì khác, chỉ có thể ngắm chúng và ngợi ca Tạo hóa. Khép lại Điểm Đến Của Cuộc Đời, tôi cũng chỉ nguyện cầu như lời tác giả: “Mong tất cả chúng ta có một cuộc sống an lành và một cái chết thanh thản.” (Bùi Mỹ Duyên review) *** Người ta không có tự do để khước từ bất hạnh hay chạy trốn khỏi bi kịch, nhưng có tự do chọn lựa thái độ của mình trước những gì xảy ra. Viktor Frankl, nhà tâm lý học người Áo, đúc kết từ trải nghiệm sống của ông qua những năm tháng khủng khiếp trong trại tập trung của phát xít Đức. Tôi có thể chuẩn bị cho mình dể đối diện với bi kịch khi nó xảy ra như thế nào, tôi làm gì để có thể vượt qua nỗi sợ bệnh tật và chia ly, khi nó xảy ra với người thân, và khi nó xảy ra với chính mình, đó là những câu hỏi tôi dặt cho bản thân. Nhiều người không muốn nói tới cái chết, dường như hy vọng rằng không nhắc tới nó thì nó sẽ quên ta đi. Tôi muốn chọn một cách tiếp cận ngược lại. Tôi muốn lấy khỏi cái chết sự lạ lẩm của nó, muốn nhìn thẳng vào nó, để làm quen, và cuối cùng, chấp nhận nó, sống với nó một cách bình thản. Đó là lý do tôi tìm tới những người cận tử, và xin phép họ cho tôi đi cùng trong những ngày tháng cuối cùng của đời họ. Ý thức về cái chết trước mặt khiến tôi ý thức rõ ràng hơn về thời gian tôi còn có trong tay, về những may mắn mà tôi đang được hưởng, về vẻ đẹp của vũ trụ. Tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đối mặt và suy ngẫm vổ cái chết khiến tôi trân trọng cuộc sống hơn, sống có chánh niệm hơn, loại bỏ dễ dàng hơn những điều phù phiếm, tầm phào, và tập trung vào những điều quan trọng với tôi. “Khi cuối cùng chúng ta biết là chúng ta sẽ chết, và mọi sinh linh khác cũng sẽ chết cùng ta, ta bắt đầu có một cảm giác cháy bỏng, gần như khiến trái tim thổn thức, rằng mọi khoảnh khắc mới mong manh và quý báu làm sao,” thiền sư Sogyal Rinpoche viết trong cuốn Tạng thư sóng chết. “Và từ cảm giác đó, trỗi dậy một lòng trắc ấn sâu sắc, sáng tỏ và vô hạn, hướng tới vạn vật.” Sau khi tôi gần gũi với những người gần đất xa trời và người thân của họ, những dòng trên không hiện ra như những câu lý thuyết trừu tượng hay khô khan nữa. Những người cận tử mà tôi đã gặp, nhiều người ở thời điểm này đã qua đời, đã xác nhận bằng cách giản dị mà sâu sác nhất điều mà Rinpoche viết. Tôi hy vọng những trải nghiêm của họ sẽ phần nào giúp cho độc giả sống một cuộc sống có ý nghĩa và an lạc, như là họ đã giúp tôi. *** Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang là chuyên gia phát triển, nhà hoạt động xã hội và tác giả chính luận. Các hoạt động nghiên cứu và vận động chính sách của anh nhằm nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, minh bạch và tiếng nói của người dân. Anh nỗ lực mở rộng không gian xã hội dân sự, truyền bá tri thức, phá bỏ định kiến và kỳ thị, và xây dựng một xã hội khoan dung và trắc ẩn. Đặng Hoàng Giang tốt nghiệp kỹ sư tin học tại Đại học Công nghệ Ilmenau, Đức, và có bằng tiến sĩ kinh tế phát triền của Đại học Công nghệ Vienna, Áo. Anh hiện sống và làm việc tại Việt Nam. Anh cũng là tác giả của các cuốn sách Bức xúc không làm ta vô can và Thiện, Ác và Smartphone cùng nhiều bài viết có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội. https://www.facebook.com/giangdang.9469 Mời các bạn đón đọc Điểm Đến Của Cuộc Đời của tác giả Đặng Hoàng Giang.
Để Thành Công Trong Cuộc Sống - Thư Gửi Con Trai Của Cha
Khi đọc cuốn sách “Để thành công trong cuộc sống – Thư gửi con trai của cha” của bá tước Earl Chesterfield (1694 – 1773), ta dễ lên tưởng tới những bức thư trong cuốn “Những tấm lòng cao cả” của Edmondo De Amicis. Bởi hình thức cuốn sách chính là những bức thư đầy tình cảm nhưng rất nghiêm khắc để dạy bảo con trai về những đạo lý trong cuộc sống. Đây là cuốn sách có quyền năng kỳ diệu đã tồn tại hơn 200 năm của bá tước Chesterfield với những lời rất tâm huyết gửi cho con trai về những bài học thành công trong cuộc sống, về sự nhạy bén, dám đối đầu với thử thách và sự cố gắng không ngừng trong cuộc đời sẽ giúp bạn có được hạnh phúc lâu dài trong cuộc đời này. Bá tước Earl Chesterfield là một nhà chính trị, nhà ngoại giao và còn là nhà văn nổi tiếng nước Anh. Con trai ông cũng đã trở thành một nhà ngoại giao tài giỏi sau này. Đó có lẽ chính là nhờ những bức thư mang đầy tấm lòng người cha này. *** Con thân yêu! Bây giờ chính là lúc con cần nghiêm túc xây dựng nền tảng vững chắc cho cuộc đời, nếu con biết sử dụng trọn vẹn quãng thời gian này, đồng thời phát huy hết ý nghĩa của nó thì sự tích góp trong giai đoạn mấu chốt này sẽ mang tới cho con nhiều lợi ích trong tương lai, những điều con nhận lại được sẽ lớn hơn những điều con tưởng tượng. Cha muốn con biết nhiều điều, nhưng tất cả những điều đó không quan trọng bằng điều cha sẽ nói nói với con lúc này. Đó là thời gian vô cùng quý giá và phải biết cách sử dụng nó một cách hiệu quả. Rất nhiều người đều nói thời gian là vàng là bạc nhưng những người hiểu thời gian quý hơn vàng và trân trọng thời gian lại không nhiều, và những người làm được điều đó ngày một ít. Có rất nhiều câu ngạn ngữ nói về thời gian, cho dù là người thờ ơ nhất với sự trôi qua của thời gian vẫn có thể nói được những câu như: “Thời gian như nước cuốn trôi, một đi không trở lại”. Cha nghĩ phải đợi đến khi họ lãng phí thời gian một cách vô ích, lúc đó họ mới hiểu được tầm quan trọng của thời gian và họ sẽ phải thốt lên những lời kêu than. Với bất cứ ai, việc nói một hai câu ngạn ngữ hay danh ngôn về thời gian là điều không khó; cũng như thế, đôi khi con người ta cảm thấy sự gấp gáp của thời gian, việc ấy cũng không có gì là kì lạ, bởi cho dù con người đi tới bất cứ nơi đâu, thì những chiếc đồng hồ treo trên những tòa nhà to lớn đều gióng lên những âm thanh “tích tắc, tích tắc”, mỗi giờ mỗi giây đều nhắc nhở chúng ta rằng: “Thời gian đang trôi đi mà không chờ đợi ai!”. Thế nên việc học thuộc những câu ngạn ngữ, những lời răn dạy về thời gian là không đủ, nếu một người không biết tự mình trải nghiệm thì sẽ không thể hiểu được ý nghĩa thực sự của thời gian và càng không biết sử dụng thời gian thế nào cho hiệu quả. Theo kinh nghiệm của cha, để biết được ai đó hiểu thế nào về tầm quan trọng của thời gian thì chúng ta có thể nhìn vào cách anh ta sử dụng thời gian. Hiểu tầm quan trọng của thời gian sẽ có ảnh hưởng chặt chẽ đến con đường tương lai của anh ta. Cuộc sống của hai người, một là người biết sử dụng hiệu quả thời gian, hai là người không ý thức được sự trôi qua của thời gian khác nhau một trời một vực. Ở đầu thư cha đã nhắc tới rất nhiều câu danh ngôn, ngạn ngữ nên giờ đây cha không muốn nói quá nhiều, cha chỉ muốn nhắc nhở con về quãng thời gian có ảnh hưởng lớn nhất tới cuộc đời sau này của con - những điều con nên làm một vài năm trước khi con bước vào tuổi trưởng thành. Đầu tiên, bước vào tuổi mười tám con cần tích lũy cho mình một nền tảng kiến thức vững chắc, theo kinh nghiệm của cha, ở tuổi này nếu con không chuẩn bị kiến thức thì cho dù kế hoạch tương lai của con có tốt thế nào cũng khó thực hiện. Đến khi con lớn hơn một chút, kiến thức sẽ trở thành bến đỗ nghỉ ngơi, là nơi tĩnh dưỡng sau những tháng ngày lao động vất vả. Bởi thế cha không thể không chân thành nhắc nhở con rằng: “Bây giờ lãng phí một phút, tương lai con sẽ hối hận một đời”. Khi cha đã đi gần hết con đường đời, quay đầu nhìn lại những điều được mất, cảm xúc lớn nhất của cha là: chính bởi cha tự mình hạ quyết tâm và kiên quyết gạt bỏ những tác động của thế giới bên ngoài để chuyên tâm đắm mình trong thú vui đọc sách nên cha mới có được ngày hôm nay. Điều làm cha vui hơn cả là khi ở tuổi như con bây giờ cha không có thời gian nhàn rỗi vô ích, cha đã từng dốc sức cố gắng hết mình! Đương nhiên không phải là cha không có chút nuối tiếc nào, cha tiếc rằng nếu khi đó cha nỗ lực hơn một chút thì bây giờ cảm giác thỏa mãn sẽ càng lớn hơn. Tựu trung lại, sự chăm chỉ và vượt khó trong học tập khi ấy của cha đã giúp cha có được niềm vui tách mình khỏi thế giới bên ngoài và thói quen đó cũng khiến cha cảm thấy thoải mái suốt đời này. Cha rất hi vọng con cũng sẽ có niềm vui giống như cha, sau này khi đến tuổi nghỉ hưu con cũng được sống trong không khí của sách vở. Những năm tháng tuổi trẻ chúng ta tích luỹ kiến thức giống như những chú ong chăm chỉ làm mật ngọt là điều đúng đắn, nhưng điều này không có nghĩa vui chơi giải trí là lãng phí thời gian. Giải trí có thể thỏa mãn nhu cầu vui chơi của những người trẻ tuổi, giúp tăng ước mơ khát vọng, đạt được mục tiêu quan trọng trong cuộc sống. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng vui chơi giải trí cũng là một hoạt động làm cho tinh thần sảng khoái. Khi cha còn trẻ cha cũng đã từng vui chơi hết mình, chính nhờ trải nghiệm này cha mới hiểu được những điều mình muốn. Nếu khi đó cha thiếu trải nghiệm qua những cuộc vui, không có được những cảm giác như thế thì giờ đây chắc có lẽ cha vẫn coi việc vui chơi giải trí là điều quan trọng nhất - con người ai cũng cảm thấy hứng thú đối với những điều mới lạ. Ngày hôm nay cha hồi tưởng về những điều đã qua nhưng cha không cảm thấy nuối tiếc bởi bản thân cha đã hiểu được những điều thú vị trong vui chơi giải trí và qua đó cha hiểu ý nghĩa công việc hơn bất cứ người nào khác. Cha thấy rằng những người chỉ chú ý đến bề ngoài của công việc thường hay nghĩ rằng vùi đầu vào công việc là điều thú vị, từ đó nảy sinh tâm lý nóng lòng muốn thử. Trên thực tế, sau khi bắt tay vào làm, con mới hiểu được ý nghĩa công việc là gì. May mắn là cả trong công việc và giải trí cha đều rất thông thạo, mọi người xung quanh thấy cha hiểu công việc và hiểu cuộc vui như vậy đều rất ngạc nhiên và khâm phục, họ cho rằng có lẽ trong đời này cha sẽ không còn điều gì phải nuối tiếc. Nhưng thật ra cũng không hẳn như thế, sự thực chỉ có cha mới hiểu rõ nhất. Nếu muốn nói cuộc đời này còn điều gì làm cha phải nuối tiếc thì đó là những ngày tháng sống không mục đích khi cha còn trẻ, cha đã lãng phí quãng thời gian quý giá ấy. Đối với con hai năm tới đây sẽ là khoảng thời gian vô cùng quan trọng, bởi thế cha phải nhắc lại với con rằng: hãy biết tận dụng quãng thời gian này, để biến nó trở nên có ý nghĩa. Nếu con vứt bỏ cái tôi cá nhân, không phấn đấu vươn lên thì thứ con mất không chỉ là thời gian. Con còn làm giảm đi lượng kiến thức tích luỹ được, thiếu kinh nghiệm sống là tổn thất to lớn. Ngược lại, nếu con biết nắm bắt và sử dụng tốt quãng thời gian ấy, biến nó thành giá trị tích lũy thì sau này con có thể nhận được thành quả hậu hĩnh. Hai năm đó sẽ là thời kỳ hoàng kim để con củng cố kiến thức đã học được, chỉ cần con nắm bắt bắt được quãng thời gian này, tích lũy nền tảng kiến thức vững chắc thì sau này bất cứ lúc nào con cũng có thể sử dụng những kiến thức mà con tích lũy được. Khi nhận ra sự nghèo nàn kiến thức, con có thể tự học hỏi để tích lũy thêm những kiến thức mới trên nền tảng cũ. Nếu hiện tại con không chịu củng cố kiến thức thì trong tương lai con muốn sử dụng chúng sẽ không còn kịp nữa. Cha không muốn thấy con sau này bước vào đời lại nhận được lời răn dạy của người khác rằng: “Bạn cần phải đọc thêm sách”. Tới khi đó con mới nghiên cứu sách vở thì con đã không còn nhiều thời gian đẹp đẽ như vậy. Hơn nữa, cho dù có thời gian con cũng không thể giống như trước kia, chỉ đọc sách và sống. Vẫn còn một điều nữa mà cha muốn nói với con. Nếu lúc còn trẻ con không xây dựng tốt nền tảng học vấn thì khi trưởng thành con sẽ trở thành một chàng trai thiếu sức hấp dẫn, một người vô vị nhạt nhẽo. Con thân yêu! Cha nói với con nhiều điều như thế nhưng mục đích của cha chỉ có một, đó là hi vọng con biết sử dụng tốt quãng thời gian mà con đang có. Bởi đây chính là quãng thời gian tốt nhất để con phấn đấu, tiến bộ, không ai có thể làm phiền tới con, con có thể toàn tâm toàn ý đắm mình trong niềm vui cùng sách vở. Cha biết đôi khi con thấy chán nản với việc đọc sách, cha không có cách nào để giải quyết vấn đề này giúp con, cha chỉ có thể nói với con rằng: “Khi tâm trạng không tốt, con nên nghĩ đây là con đường duy nhất mà con phải đi, nếu bây giờ con chăm chỉ một giờ con có thể rút ngắn quãng đường đi tới mục đích sớm hơn một giờ”. Vậy thì con có thể sớm có sự tự do hay không? Điều này có quan hệ mật thiết với việc con sử dụng thời gian như thế nào. Nhiệm vụ quan trọng duy nhất của con lúc này là phải hoàn thiện bản thân. Mời các bạn đón đọc Để Thành Công Trong Cuộc Sống - Thư Gửi Con Trai Của Cha của tác giả Earl Chesterfield.
Người Đi Tìm Tặng Vật Của Biển
Có bao giờ bạn ngồi một mình trước biển, lặng ngắm những con sóng thay nhau vỗ bờ và xa xa là những cánh hải âu chập chờn trên sóng? Hay có bao giờ bạn lang thang một mình bên bờ biển, nhìn những dấu chân mình in hằn trên cát và tự hỏi về ý nghĩa thực sự của cuộc đời? Nếu đã một lần lắng lòng trước biển, hẳn bạn cũng nhận thấy rằng, không nơi nào diệu kỳ như biển. Con người thường tìm về với biển như một cách trốn chạy khỏi cuộc sống xô bồ và nhộn nhịp, để thấy lòng mình thanh thản sau nhiều ngày tháng bôn ba. Và đứng trước biển, mỗi người lại có một cảm nhận khác nhau. Biển, sự mâu thuẫn giữa ồn ào và lặng lẽ, dữ dội và dịu êm, cuồng nộ và bao dung. Biển có thể khiến người ta nếm trải tận cùng đau khổ khi mất đi người thân trong những cơn bão tố, nhưng cũng chính biển chữa lành những nỗi đau ấy bằng tình yêu thương rộng lớn của mình. Khi đến với biển, mỗi người đều cảm nhận được sự nhỏ bé của bản thân, sự vô thường của cuộc sống, để rồi nhận được sự vỗ về trong tĩnh lặng của biển mà hàn gắn những tổn thương… Richard Bode đã từng được bạn đọc yêu thích với cuốn sách “Biển cả và những giá trị cuộc sống”. Cuốn sách đã giúp nhiều người tìm thấy những bài học bổ ích về cách nuôi dưỡng ước mơ cũng như lựa chọn cho mình một hướng đi thích hợp. Trong cuốn Người đi tìm tặng vật biển khơi này, với óc quan sát cùng những cảm nhận tinh tế trước cuộc đời và biển cả, Richard Bode mang đến một thông điệp thật sâu sắc: Trước sự mênh mông của biển, con người thường thấy mình bé nhỏ và đơn độc. Nhưng cũng chính nơi ấy, giữa những cơn thủy triều đều đặn lên xuống và giữa những con sóng ào ạt xô bờ, ta sẽ tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống. Tặng vật mà chúng ta nhận được từ biển không chỉ là những chú ốc, những vỏ sò hay tất cả những gì thuộc về vật chất hữu hình. Có một tặng vật ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, vô hình, nhưng là vô giá. Đó là sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Bằng trái tim đa cảm và ngòi bút tinh tế, Richard Bode mang đến cho chúng ta những cảm nghĩ nhẹ nhàng mà lắng đọng. Thành công – Thất bại, Yêu thương – Hờn oán, Sự sống – Cái chết…, tất cả đều được tác giả đề cập và nhìn nhận bằng một quan điểm riêng, khác lạ nhưng thật thuyết phục. Cuộc sống là một hành trình dài tìm kiếm và khám phá những điều mới mẻ, thú vị. Có rất nhiều con đường để chúng ta lựa chọn nhằm chạm khắc tên mình vào cuộc sống. Chạy đua để suốt đời tất bật hay chậm rãi chiêm nghiệm những giá trị vĩnh hằng của cuộc sống phụ thuộc vào sự chọn lựa của mỗi người. Sống thật với lòng mình hay hóa trang thành một con người khác cũng tùy thuộc vào quyết định của chúng ta. Nhưng khi đi hết hành trình đời mình, ngoảnh đầu nhìn lại, chúng ta có phải hối tiếc về những lựa chọn của mình hay không, đó mới thật sự là điều quan trọng. Thế giới trong quyển sách này là nội tâm của chúng ta trong những sớm bình minh, những chiều hoàng hôn lặng ngắm mặt trời hay những đêm nằm nghe sóng dội vào bờ, thả hồn vào bầu trời bạt ngàn sao và chênh chếch ánh trăng. Và giữa thế giới bao la rộng lớn ấy, bạn sẽ tìm thấy và nhận biết đâu là “cuộc sống thực” của mình. - First News *** Một năm qua, dấu chân tôi đã in hằn trên những bãi cát dài ở Miramar. Trong suốt thời gian ấy, có nhiều người bảo với tôi rằng họ cũng muốn trở thành một kẻ lang thang dọc các bờ cát để tìm kiếm, nhặt nhạnh những tặng vật của biển như tôi. Có lẽ họ cho rằng đó là một công việc dễ dàng nhất, chỉ cần bước ra biển với một chiếc quần dài bằng vải thô trắng xắn lên tận gối, một áo sơ mi xanh bạc màu, một chiếc mũ rơm che nắng là đủ. Và vài người trong số họ đã không ngần ngại chọn cho mình những bộ cánh đắt tiền trong những cửa hàng sang trọng, như thể họ cho rằng bộ cánh sẽ làm họ trở thành người sưu tập thực thụ. Sau khi đã trang bị đầy đủ, họ hăng hái men theo bờ biển và nhặt nhạnh từng hòn đá, vỏ sò trên bãi cát, mặc cho cái nắng đang thiêu đốt và đôi chân bỏng rộp trong cát. Gặp tôi, họ dừng lại tán gẫu đôi câu; và với thái độ trân trọng đặc biệt, họ cho tôi xem những tặng vật của biển. Thế nhưng không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để gắn bó lâu dài với công việc này. Quả thật, công việc tưởng chừng rất đơn giản này yêu cầu những người theo đuổi nó phải có thái độ nghiêm túc và tràn đầy nhiệt tâm. Họ phải cống hiến hết mình cho công việc, luôn trong tư thế sẵn sàng chống chọi với những cơn sóng dữ, hoặc quên đi sự bỏng rát của đôi chân trần dưới ánh nắng trưa gay gắt. Việc được nhìn ngắm những đợt thủy triều lên xuống, những đám rong hay những chú sao biển dễ thương có thể được xem là một trong những yếu tố nuôi dưỡng tâm hồn. Thế nhưng, không phải ai cũng có thể cảm nhận được sự thú vị đó, nên họ thường nhanh chóng cảm thấy chán nản. Tôi không phải là một kẻ thích sưu tầm cũng không phải là một họa sĩ dù trước đây tôi đã từng mơ ước những công việc ấy. Tôi đến vùng biển xinh đẹp này chỉ với mục đích tìm lại những hình ảnh của tuổi thơ cũng như để trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?” trong hiện tại. Bố tôi là một họa sĩ vẽ tranh sơn dầu. Lúc còn là một cậu bé chưa đầy sáu tuổi, tôi đã được ông dạy một số những nét cơ bản để vẽ người như: đầu, thân và tay chân. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở đó, bởi ông đã ra đi trước khi kịp dạy tôi bài học tiếp theo. Và cho đến bây giờ, tôi cũng chỉ vẽ được hình người như lúc nhỏ. Cuộc sống với những lo toan đã khiến tôi từ bỏ niềm đam mê của mình. Tôi không theo nghề họa sĩ mà bắt đầu khắc họa cuộc sống của mình bằng những nét vẽ giữa đời thực. Và rồi, một cách tự nhiên, tôi được dẫn dắt đến bãi biển Miramar, như thể tôi là một con hải âu hay mòng biển. Tôi đến nơi này để tìm kiếm tất cả hình ảnh đã khắc sâu trong ký ức tuổi thơ tôi. Cuộc sống là một chuỗi dài những yêu thương, mất mát mà chẳng ai có thể biết trước được. Trên hành trình của cuộc đời mình, tôi chờ đợi tình yêu thương và luôn nâng niu, trân trọng nó. Bởi vì tôi hiểu rằng những điều tốt đẹp mà mình yêu quý cũng có lúc sẽ bị mất đi. Những con sóng nghịch ngợm ở bãi biển Miramar đùa giỡn dưới chân tôi, mang theo một đám rong nhẹ nhàng trườn vào bờ cát. Tôi cho ít nước vào chiếc cốc trên tay mình, giữ cho nó thôi sóng sánh, và chỉ sau một cái búng tay, cái thế giới tĩnh lặng tôi vừa nhìn thấy bỗng chốc vỡ ra. Nhưng trong tâm hồn mình, tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh êm đềm trước đây của nó. Trước mặt tôi, một cặp vợ chồng xa lạ đang đẩy đứa con nhỏ trong chiếc xe nôi ba bánh. Đi được một đoạn, họ dừng lại trên bãi biển tập các động tác khởi động. Khi đã sẵn sàng, hai vợ chồng đẩy xe nôi vào một chỗ cát ẩm an toàn rồi bắt đầu chạy về phía tôi. Đầu cúi thấp nhưng ánh mắt họ luôn hướng về phía trước, và dần tăng tốc. Quả thật khi nhìn họ chạy, tôi có cảm giác họ như những vận động viên chuyên nghiệp. Một con quạ bay ngang qua đồi cát, một con sư tử biển trồi lên theo những con sóng lớn vỗ bờ, đôi vợ chồng không hề hay biết. Nhưng đứa trẻ đang nằm trong chiếc xe nôi đã phát hiện ra điều đó và liên tục ngoái đầu nhìn về phía biển. Nó bắt đầu quan sát cuộc sống muôn màu xung quanh mình... Mời các bạn đón đọc Người Đi Tìm Tặng Vật Của Biển của tác giả Richard Bode.
Giá Trị Học
Thật là một ngẫu nhiên hiếm có, một may mắn lớn cho tôi làm một số công việc cuối cùng của cuốn sách này vào các dịp kỉ niệm: - 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - 65 năm ngày thành lập nước VNDCCH nay là CHXHCNVN - 56 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - 35 năm ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Các sự kiện lịch sử trọng đại này rất gắn bó với nhau trong dòng giá trị tinh thần bất diệt của dân tộc. Và mỗi một chúng ta, trong đó có tác giả các dòng chữ này, là một thành phần, đều có quan hệ keo sơn với các giá trị bất hủ của những chiến công thần thánh đem lại cho chúng ta cuộc sống ngày hôm nay. Tác giả cuốn sách xin được bày tỏ lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới Bác Hồ, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân Việt Nam và Liên Xô (cũ) đã đào tạo tôi thành một cán bộ khoa học, các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, các bà mẹ anh hùng, các chiến sĩ, nhất là các bạn cùng trang lứa, trong đó có các nhà giáo đi B và các nhà giáo kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm, đồng bào đã hy sinh thân mình hoặc một bộ phận thân thể, đã chịu đựng những năm tháng biết bao gian khổ cực kỳ mà ngày nay không thể tưởng tượng nổi, cho nền độc lập, thống nhất Tổ quốc, cuộc sống hoà bình, an vui, hạnh phúc, cho nền giáo dục nhân dân, nền khoa học nước nhà từng bước sánh vai với bạn bè năm châu, bốn biển, như Bác Hồ hằng mong ước. Nước nhà không được như ngày nay, chắc khó có tác phẩm này. Tác giả hy vọng có đóng góp nhỏ, dù chỉ như hạt cát, giữ gìn và phát triển, phát huy các giá trị của dân tộc và con người Việt Nam. Tôi đi từ giáo dục học, tâm lý học đến với giá trị học trong thời điểm nhấn mạnh hơn bao giờ hết đường lối “giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại” và cũng là lúc trong xã hội, thang giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị có những biến động mạnh, những thay đổi lớn lao, thậm chí có chỗ đảo lộn, gây nhiều bức xúc, băn khoăn, lo lắng có khi đến cay đắng, đau lòng từ trong nhà ra ngoài ngõ. Người người, nhà nhà quan tâm đến giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, nhân cách. Cuốn sách này mong được đáp ứng, dù phần nhỏ, vào công việc hết sức trọng đại này của dân tộc. Để làm được việc đó, vì là một công trình khoa học, nên lại phải đi từ ngọn nguồn, dù chưa có điều kiện, cả về thời gian cả về tư liệu, có khi cả trình độ cũng có chỗ hạn chế, thực hiện đến nơi đến chốn, mong bạn đọc thông cảm. Thế là một cuộc hành trình không ít gian nan bắt đầu từ tìm tòi xem ý tưởng “Giá trị con người” có tự bao giờ, ai là tác giả, ý tưởng đó phát triển qua vài mốc chính đến khoa học về giá trị hiện đại, quan tâm nhiều hơn tới hệ giá trị một số nơi trên thế giới – châu Âu, Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á – bao gồm những gì và tác dụng của chúng đối với tiến bộ xã hội trở thành văn minh, giàu có - mục đích chính của cuốn sách nhỏ này. Cuộc hành trình muốn đến đích này, lại phải dừng lại một số vấn đề cơ bản, như đối tượng và cơ sở triết học của giá trị học, trải nghiệm là cơ chế tạo lập và vận hành của giá trị và thái độ giá trị. Một điều tác phẩm nhất thiết phải đề cập đến, dù chưa được như mong muốn, là tìm hiểu các giá trị chung của loài người và con người: Tính người, tình người, các giá trị “Chân, Thiện, Mỹ”, giá trị sống còn, giá trị lao động, quan hệ người - người, giá trị trách nhiệm xã hội... Tóm lại, giá trị học trình bày trong tập sách này là bước đi mới ban đầu ở nước ta, gắn bó mật thiết với các khoa học: - Đạo đức học, - Văn hoá chính trị học, - Nghiên cứu con người – Nhân học văn hoá, - Tâm lý học – Tâm lý học giá trị, - Giáo dục học – Giáo dục học giá trị. Nội dung sách này có thể hỗ trợ các khoa học kể ra ở đây. Ngược lại, tri thức của các khoa học này có phần trợ giúp đắc lực cho tiếp thu sách này. Nhưng công trình này không nhằm đơn thuần trình bày một số hiểu biết về giá trị học, mà, như tên gọi cuốn sách, chủ yếu nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận để đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực, với thế giới (nói gọn: Thời nay). Vạn sự khởi đầu nan, hy vọng, khó khăn ban đầu được khắc phục, công việc sẽ thu được kết quả. Tiếp nối truyền thống dân tộc, từng người, gia đình và cả xã hội... hơn bao giờ hết giáo dục vun xới giá trị bản thân và cộng đồng, nhất là các nhà chức trách, các tổ chức, doanh nghiệp... thực sự trọng dụng, phát huy giá trị của từng con người, để chúng ta có nguồn nhân lực, “vốn người” hoàn toàn đủ sức (trên thực tế chúng ta có đủ tiềm năng, như lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh) đồng thuận, đoàn kết đưa nước ta thành một nước văn hiến phát triển, độc lập, giàu có, dân chủ, an bình, hạnh phúc. Đây cũng là ước muốn của tác giả, như tất cả các bạn. Như trên đã nói, tác phẩm còn xa mới đạt mức hoàn thiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chỉ mong sao có bạn đọc và chờ đợi các bạn chỉ giáo những khiếm khuyết. Được vậy, tôi xin vô cùng cảm ơn! Hà Nội những ngày lịch sử năm 2010 TÁC GIẢ *** Bài mục thứ nhất Đi vào nghiên cứu giá trị học: Ý tưởng và triển khai Cuốn sách này viết về Giá trị học là Khoa học về Giá trị. Bài mục này (mục lục sách không theo “Phần...”, “Chương...”, mà theo “Bài mục...”) trình bày “lịch sử” quá trình lao động viết nên công trình này. Trong quá trình viết luận án Tiến sĩ khoa học “Hành vi và hoạt động” ở khoa tâm lý học, trường Đại học Tổng hợp Lômônôsốp (1973-1977), tôi đã quan tâm đến Giá trị học - Khoa học về Giá trị. Nhưng hồi ấy ở Liên xô chưa cho phép trình bày suy nghĩ đó, mãi khi về nước, tại Hội thảo tâm lý học toàn quốc tổ chức năm 1978 tại Nha Trang, trong báo cáo khoa học “Tâm lý học và khoa học nghiên cứu con người” tôi mới có thể trình bày khẳng định: “... tâm lý học phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan...”, coi đó là “nội dung cơ bản của cuộc sống thực, trong đó đời sống người nảy sinh và phát triển...”(1). Khi nghiên cứu Tâm lý học Hành vi ở Mỹ - nơi có nền kinh tế thị trường từ lâu và đã thu được nhiều thành quả phát triển kinh tế rất khả quan - tôi ngày càng thấy rõ việc nghiên cứu tâm lý người trong trường tác động của quy luật giá trị, chính là con đường nghiên cứu tâm lý, như Các Mác đã chỉ ra, của “... những cá nhân hiện thực..., hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”(2). Tuy nhiên, cuối thập kỷ 70 và suốt thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi được giao một số đề tài nghiên cứu khoa học khác, nên chưa đi vào đề tài giá trị học được, ngoại trừ dịp tôi nhận làm Tổng chủ biên tập sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục, 1981). Khi lập đề cương cho tập sách trên, tôi vẫn đeo đuổi ý tưởng đưa giá trị học vào khoa học giáo dục nên đã giao cho PGS. TS. Trần Tuấn Lộ viết một bài theo hướng này. Rất tiếc bài viết đó lại chủ yếu nói về các giá trị thẩm mỹ. Kể từ sau “Đổi Mới”, Đảng và Nhà nước ta mới quan tâm thực sự thích đáng (cả về lý luận và thực tiễn) đối với quy luật giá trị, được tính đến không phải chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, nhất là đối với con người. Chính sách sử dụng nhân lực đã tạo thêm cơ sở xã hội thôi tôi thúc suy nghĩ tìm cách triển khai ý tưởng nghiên cứu giá trị học. Rất may mắn, những năm 1989 và 1990 tôi được Uỷ ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học – Công nghệ) mời tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị một số chương trình nghiên cứu khoa học, rồi tiếp đó làm Chủ nhiệm Chương trình khoa học – công nghệ Nhà nước (KHCN NN) KX-07 “Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” theo tư tưởng ghi trong Cương lĩnh của Đảng ta (1991). Phải nói thêm rằng đây là lần đầu tiên trong khoa học nước nhà có chương trình KHCN NN về con người: Cách tiếp cận mới với “nhân tố con người”, nhấn mạnh vai trò quan trọng của “nhân tố con người”. Với tư cách là Chủ nhiệm chương trình, tôi đề xuất 19 đề tài, được Ban chủ nhiệm chương trình nhất trí thông qua. Trong đó có đề tài về “Nhân cách”(3). Khi triển khai đề tài này cùng với đề tài “Phương pháp luận”, Chương trình đã vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào triển khai; đồng thời, có đề tài nhánh nghiên cứu “Định hướng giá trị nhân cách” và “Giáo dục giá trị” (một đề tài do PGS (nay là GS) TSKH. Thái Duy Tuyên, một đề tài do PGS. (nay là GS.) TS. Nguyễn Quang Uẩn phụ trách(4). Có thể nói, KX – 07 là công tình đầu tiên triển khai ý tưởng đi vào nghiên cứu khoa học về giá trị (giá trị học) ở Việt Nam và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Trong đó, đặc biệt, đã nêu lên nhận định khái quát về những biến đổi rất đáng kể trong định hướng giá trị ở thanh niên ta (nhận định này lần đầu tiên được công bố trong sách “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, KX – 07, Hà Nội, 1994) và khẳng định một số giá trị chung của thế giới, như: Hoà bình, Phát triển, Dân chủ... và một số giá trị của dân tộc ta, như: Yêu nước, Cần cù, Hữu nghị... Giai đoạn những năm 2000-2006, theo tư tưởng bên cạnh cột trụ chính trị, cột trụ kinh tế, cột trụ xã hội, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cột trụ “văn hoá, con người và nguồn nhân lực”. Chương trình KHCN NN “Phát triển văn hoá, con người và nguồn lực trong thời kỳ CNH, HĐH” do tôi làm Chủ nhiệm, có ba mảng: Văn hoá - Con người - Nguồn nhân lực, rất gắn bó với nhau và do đó phải có sự kết nối trong quá trình nghiên cứu. Chương trình đưa ra kết luận: từ giá trị văn hoá đến giá trị con người, cuối cùng ra giá trị nhân lực chứa đựng “lực lượng bản chất của con người” (Các Mác) là một dòng chảy - sức mạnh vô tận quan trọng nhất của nội lực dân tộc. Đây chính là ý nghĩa của giá trị học đối với cuộc sống, cũng như với chính trị học, ngày nay thường gọi là giá trị quan: vận dụng quan điểm giá trị vào văn hoá chính trị. Chương trình có cơ hội vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào tâm lý học khi dành hẳn một đề tài nghiên cứu “giá trị nhân cách” theo phương pháp thực nghiệm đang dùng rộng rãi trên thế giới, kết quả phản ảnh trong một tập sách khá dày(5) những số liệu và nhận định rất lý thú, phần nào được giới thiệu ở bài mục Tâm lý học giá trị trong tác phẩm này. Do những kết quả nghiên cứu về con người trong mười năm (1990-2000), nhất là với sự kiện ngày 20 tháng 9 năm 1999, Viện nghiên cứu Con người (NCCN) thuộc Viện Khoa học Xã hội (KHXH) Việt Nam, Dự án Điều tra Giá trị Thế giới (ĐTGTTG) - viết tắt là WVS - đã quyết định kết nạp Việt Nam vào Dự án ĐTGTTG. Với việc tham gia hai đợt điều tra vào năm 2001 và 2006 theo một phương pháp chung, tham gia một số hội thảo quốc tế trong khuôn khổ Dự án (có báo cáo khoa học) và công bố một số kết quả nghiên cứu trên sách và tạp chí quốc tế nên chúng tôi có thêm nhiều thông tin mới để cập nhật hơn về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nói theo ngôn ngữ thường nhật bây giờ, đề tài của chúng tôi đã “hội nhập” với thế giới. Thực ra, khoa học từ sau thời Cổ đại, đặc biệt từ giữa thiên niên kỷ trước, luôn luôn mang tính quốc tế. Ở ta, khoa học còn mới mẻ, chắc có thể tính từ sau Cách mạng tháng Tám hoặc chính xác hơn từ sau năm 1954. Từ lâu chúng ta đã nói về các giá trị di sản văn hoá - lịch sử - cách mạng, nhưng chủ đề Giá trị học, như trình bày trong sách này, mới được đề cập lần đầu tiên trong thời kì Đổi mới và mãi sang đầu thế kỷ XXI chúng tôi mới có điều kiện bước đầu tìm hiểu lịch sử khoa học này: Năm 2004 công bố bài đầu tiên và phần lớn các bài mục trong tập sách này đã công bố trong 6 năm qua (2004 - 2010) trên tạp chí Nghiên cứu Con người, đôi bài trên tạp chí Giáo dục, Khoa học giáo dục, Tuyên giáo. Ngày 25 tháng 4 năm 2008 đánh dấu một mốc đáng ghi nhớ của công trình này: Theo sự phân công của Hội đồng lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) và Viện KHXH Việt Nam, với tư cách nguyên là Viện trưởng Viện NCCN, tôi được trình bày báo cáo khoa học “Vấn đề xây dựng con người và nguồn nhân lực: Quan niệm, chính sách” với Bộ Chính trị. Báo cáo rút ngắn đã được HĐLLTƯ in trong một tập sách(6) và Viện NCCN đăng tải trong sách nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện(7). Trong phần cuối của báo cáo chúng tôi đề xuất và kiến nghị Đảng và Nhà nước công bố đúc kết Hệ giá trị Việt Nam. Được chính thức báo cáo như vậy đối với chúng tôi hết sức có ý nghĩa: đó là đã có “đầu ra” (phục vụ xã hội) có ý nghĩa quan trọng nhất đối với công trình khoa học – điều mà ai trong giới khoa học cũng mong muốn. Triển khai kết luận của Bộ Chính trị, tháng 9 năm 2008, Viện KHXH VN đã giao cho tôi đề tài NCKH cấp Bộ “Những luận cứ khoa học của việc xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập dưới tác động của toàn cầu hoá”, thực hiện trong 2 năm 2009 và 2010, theo đó tập trung vào cơ sở lý luận, chủ yếu sử dụng các cứ liệu của các chương trình, đề tài kể trên và chỉ điều tra định tính bổ sung cứ liệu cần thiết. Đề tài đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn tất bản thảo cuốn sách này; mạnh dạn đề xuất đúc kết, xây dựng Hệ thống giá trị chung của Việt Nam thời nay; thử đưa ra một phương án để xin ý kiến rộng rãi, phát huy tác dụng của Giá trị học, hy vọng có đóng góp - dù rất nhỏ nhoi - vào giữ gìn và xây đắp nền tảng tinh thần của dân tộc, từng cộng đồng..., đặc biệt, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ, làm sao mỗi người đều tự mình, cũng như nhà trường, gia đình, xã hội giúp từng người kiến tạo nên những giá trị bản thân – giá trị nhân cách: Tâm lực, trí lực, thể lực; Phát huy các giá trị này, đồng thời (yêu cầu này rất quan trọng) cộng đồng xã hội tạo môi trường (điều kiện) lành mạnh cho mọi người tạo lập và sử dụng các giá trị bản thân: Quý trọng con người, đề cao, tận dụng giá trị con người (nguồn nhân lực - vốn người), nhất là trọng dụng nhân tài - đầu tàu của nguồn nhân lực, tạo nên cuộc sống an bình, thịnh vượng, hạnh phúc. Đóng góp nhỏ bé này, nếu thực hiện được, là mục tiêu tối thượng của tập sách và nói chung, của cả cuộc đời làm khoa học của tác giả. Lời nói đầu tiên không thể thiếu: tự đáy lòng tôi muốn được bầy tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, các cán bộ quản lý khoa học nước nhà, các cơ quan chủ trì chương trình, đề tài cùng các bạn đồng nghiệp cộng tác trong các chương trình, đề tài do tôi phụ trách, các nhà xuất bản, các tạp chí đã công bố các sản phẩm của tôi trong suốt 20 năm qua (1990 - 2010) - nhờ vậy mà hôm nay có tác phẩm này. Giá trị học là một lĩnh vực khoa học rất phức tạp, khá nhạy cảm, đặc biệt trong thời gian này, lại là một chủ đề mới đối với tôi, nhiều chỗ có tính chất nêu vấn đề hơn giải quyết vấn đề. Cho nên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong các bạn gần xa chỉ giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK) 1. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập tâm lý học. tr.493, tr.647, NXB. Giáo dục (GD), Hà Nội (HN), 2001; NXB. Chính trị quốc gia (CTQG), HN, 2005. 2. Các Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.3, tr.28. NXB. CTQG, HN,1995. 3. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH. NXB. CTQG, HN, 2001. 4. Thái Duy Tuyên (Chủ biên), Lê Đức Phúc, Nguyễn Đức Uy, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Thanh Hoàn, Nguyễn Thế Hùng. Giá trị Định hướng giá trị - Sự biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam hiện nay (tư liệu). KX-07-10.HN, 1993. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới. KX- 07, HN, 1994. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. KX- 07 – 04, HN, 1995. 5. Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Vũ Thị Minh Chi, Nguyễn Văn Huy, Lê Thanh Hương, Phạm Mai Hương, Đào Thị Minh Hương, Nguyễn Công Khanh, Lê Đức Phúc. Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên. NXB. Khoa học xã hội (KHXH), HN, 2007. 6. Hội đồng lý luận Trung ương. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay. Tập I. NXB. CTQG, HN, 2008. 7. Mai Quỳnh Nam (Chủ biên). Con người, Văn hoá - Quyền và phát triển. NXB. Từ điển bách khoa, HN, 2009. Công trình 20 năm 1991 - 2010 --------------- 3 Chương trình KHCN NN 1 đề tài cấp Bộ: Kết quả bước đầu Mời các bạn đón đọc Giá Trị Học của tác giả Phạm Minh Hạc.