Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair) - Hermann Hesse

"Chú chim non đấu tranh thoát khỏi quả trứng. Quả trứng là thế giới. Ai muốn được sinh ra, Trước hết, phải phá hủy một thế giới" Giống như chúng ta, nếu muốn trưởng thành, nếu muốn được sống thật sự thì phải dám bước ra khỏi ngưỡng cửa an toàn của bản thân. Câu chuyện kể về Emil Sinclair, một cậu bé được sinh ra trong một gia đình trung lưu và bước tới ngưỡng tuổi trưởng thành. Cậu có những nhận thức đầu tiên về sự tồn tại của “hai thế giới”, đang băn khoăn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác. Đây là câu chuyện của một người trẻ, đại diện cho biết bao người trẻ tuổi khác, bước lên hành trình đi tìm bản ngã của mình. “Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair)” là cuốn sách khơi gợi cảm hứng cho MV 'Blood, Sweat & Tears' và còn là mạch nguồn xuyên suốt album 'WINGS' của BTS. Trong chương trình Culture Plaza của đài KBS vào ngày 17/10/2016 các thành viên BTS đã chia sẻ suy nghĩ về tác phẩm này.  RM: “Chúng tôi cảm thấy có những nét tương đồng giữa cuốn sách và những điều mà nhóm muốn nhắn gửi nên chúng tôi đã sử dụng rất nhiều những chất liệu của tác phẩm trong jacket photos và MV”. Và suốt từ năm 2016 đến 2018, BTS đã liên tiếp phát hành chuỗi Album “Love Yourself” – tất cả đều được lấy cảm hứng từ cuốn sách này “Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair)” *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Trọn một chu kỳ đã trôi qua kể từ khi tôi bắt tay lần cuối cùng với Hermann Hesse. Thật ra, thời gian dường như còn dài hơn, trong lúc ấy biết bao sự việc đã xảy ra – biết bao điều đã xảy đến trong lịch sử thế giới và ở cả giữa sự xôn xao, hỗn loạn của cái thời đại rối loạn này, biết bao điều đã đến từ sự tận tụy không ngừng nghỉ do bàn tay của chính chúng ta. Những biến cố bên ngoài, đặc biệt là sự sụp đổ không thể tránh được của nước Đức bất hạnh, cả hai chúng tôi đã thấy trước và cả hai đã từng chứng kiến – mỗi người ở cách xa hẳn trong không gian, xa đến nỗi có những lúc không thể liên lạc với nhau được, song luôn luôn cùng có nhau, luôn luôn nghĩ đến nhau. Lộ trình phổ quát của chúng tôi, rõ ràng là tiến hành một cách riêng rẽ qua lãnh vực tinh thần; theo một lề lối cái này xa cách với cái kia. Và tuy vậy trong một vài ý nghĩa thì chúng tôi là bạn đồng hành và là bằng hữu với nhau, hay có lẽ tôi nên nói, là một sự thân thiết không che đậy của những kẻ cùng chung một đoàn thể; bởi vì tôi thích nghĩ đến mối liên quan của chúng tôi, trong những giới hạn của sự gặp gỡ giữa các nhân vật của ông là Joseph Knecht và tu sĩ Jacobus Dòng thánh St. Benedict, trong tác phẩm Tuồng ảo hóa1 không thể xảy ra mà không “đầy thú vị và kéo dài ra cái cử chỉ lễ phép của những cái cúi đầu vô tận, giống như sự chào nhau giữa hai vị thánh hay những tay cự phách của giáo hội” – một cử chỉ lễ phép, nửa hài hước, trong đặc tánh của người Trung hoa, mà Knecht hết sức thích thú điều ấy, y nhận xét, Magister Ludi Thomas von der Trave cũng là bậc thầy quá khứ. Tự nhiên cho tới bây giờ tên tuổi của chúng tôi chỉ thỉnh thoảng mới được đề cập đến cùng nhau, và ngay khi việc này xảy ra trong cái cách thức kỳ lạ nhất nó lại làm cho chúng tôi dễ chịu. Một soạn nhạc gia tuổi tác nổi tiếng ở Munich, một người Đức cố chấp và giận dữ cay cú, trong một bức thư gửi cho nước Mỹ mới đây, đã gọi cả hai chúng tôi, Hesse và tôi, là “những kẻ đê tiện” bởi vì chúng tôi không tin rằng dân tộc Đức là những người cao cả và cao thượng nhất, là “một con chim kim tước ở giữa bầy chim se sẻ”. Chính sự so sánh thì đặc biệt yếu đuối và điều gàn dở hoàn toàn không ăn nhập gì với sự vô học, nội cái tính ngạo mạn bướng bỉnh phô bày ra đó khiến người ta sẽ nghĩ rằng, chỉ cái điều ấy không thôi, cũng đủ mang đến nỗi khốn khổ cho dân tộc xấu số này. về phần tôi, tôi đã chấp nhận X với sự cam chịu điều phán xét này của “linh hồn Đức”. Rất có thể ở trong nước tôi, tôi không là gì cả mà chỉ là một con chim se sẻ xám xịt thông minh, giữa một bầy chim hay hót đa cảm, và như thế, vào năm 1933, họ đã hết đỗi hân hoan tống cổ tôi đi, mặc dù ngày nay họ cố hết sức chứng tỏ là đã bị thương tổn sâu xa vì việc tôi không trở lại. Nhưng còn Hesse? Những gì là dốt nát, những gì là thiếu thốn văn hóa, để xua đuổi con chim họa mi này, bởi vì dù thực ông không phải là con chim kim tước giai cấp trung lưu từ lùm cây Đức quốc của nó, nhà thi sĩ trữ tình này mà Moerike đã từng ôm siết vào lòng với mối cảm kích, người đã tạo nên từ ngôn ngữ của chúng ta những hình ảnh thuần túy nhất và hình thức tinh tế nhất, người đã sáng tạo nên từ những bài hát và châm ngôn, sự sáng suốt thâm trầm có nghệ thuật nhất – gọi ông là một “kẻ đê tiện”, kẻ bội phản di sản Đức quốc của ông, đơn thuần chỉ vì ông giữ cái ý kiến riêng rẽ từ cái hình thức mà nó thường được ngụy tạo đến như vậy; bởi vì ông nói với người đời cái sự thực mà nguồn gốc của nó vốn là những điều từng trải hãi hùng nhất vẫn không thể làm cho họ hiểu, và bởi vì những hành động bất chánh đã phạm phải bởi cái chủng tộc này trong sự hãnh tiến của nó đã đánh động lương tâm ông. Nếu ngày nay, khi chủ nghĩa cá nhân quốc gia đang hấp hối, khi không một vấn đề đơn thuần nào còn có thể giải quyết dược từ một quan điểm quốc gia thuần túy, khi tất cả đã liên quan với “tổ quốc”, trở nên chủ nghĩa địa phương ngột ngạt, phi tinh thần và không hề tiêu biểu cho truyền thống Âu châu như một toàn thể những phẩm giá được kính trọng gì cả, nếu ngày nay cái tinh thần quốc gia chân thật, đặc biệt thuộc về dân gian, vẫn còn bất cứ giá trị nào – và một giá trị tốt đẹp có thể nó vẫn còn giữ – rồi thì chắc chắn điều cốt yếu là, như bao giờ cũng vậy, không phải là cái ý kiến huyên náo om sòm mà là sự thành tựu hiện tại. Đặc biệt ở nước Đức, những kể nào ít bằng lòng với những điều thuộc về Đức quốc thì bao giờ cũng là những người Đức chân thật nhất. Và ai có thể không thấy rằng, nội cái việc làm giáo hóa lao khổ của Hesse, con người văn sĩ – ở đây tôi không nói đến nhà văn sáng tạo – bao quát những hoạt động tận tụy của ông như nhà xuất bản và người sưu tầm, có cái phẩm chất đặc biệt Đức quốc? Cái ý niệm “văn học thế giới” tác tạo ra bởi Goethe, thì tự nhiên và bẩm sinh nhất đối với ông. Một trong những tác phẩm của ông, mà thật ra nó đã xuất hiện ở Mỹ, “xuất bản trong những lợi tức công cộng bởi uy thế của Người Bảo quản Quyền Sở Hữu người Ngoại Quốc, 1945”, mang đúng cái tiêu đề này: “Thư viện Văn học Thế giới” và là cái chứng tích đọc rộng và nhiệt thành với việc đọc sách, đặc biệt thân thuộc với những đền đài cẩn trọng của Đông phương và của một người theo chủ nghĩa nhân bản cao thượng thân thiết với “những tặng vật thiêng liêng và cổ nhất của tinh thần con người”. Các nghiên cứu đặc biệt của ông là những tiểu luận viết về Francis Assisi và Boccaccio mang niên hiệu 1904, và ba chương của ông viết về Dostoievski mà ông gọi là Blick in Chaos (Thoáng nhìn vào sự hỗn loạn). Những ấn bản truyện trung cổ, trung thiên và truyện ngắn của các văn gia Ý tiền bối, những chuyện thần tiên Đông phương, Ca khúc của các thi sĩ Đức, các ấn bản mới của Jean Paul, Novalis và các nhà lãng mạn Đức khác mang tên ông. Chúng tiểu biểu việc làm cần mẫn, trang trọng, chọn lọc, sắp đặt bài vở, tái bản và viết những bài tựa giới thiệu – đủ choán nhiều cuộc sống của một người cầm bút thông thái. Với Hesse nó chỉ là một sự yêu thích quá nhiều (và năng lực nữa chứ) một hoạt động tiêu khiển ưa thích thêm vào với cá nhân ông, một cá nhân lạ thường nhất, làm việc – làm việc mà trong nhiều bình diện của tưởng đã động cập và liên quan đến những vấn đề của thế giới và của cái tự ngã mà không để ý đến những người đương thời với ông. Ngoài ra, ngay như một thi sĩ, ông thích cái vai trò nhà xuất bản và người bảo quản văn khố, một trò chơi của cuộc khiêu vũ hóa trang đằng sau bề ngoài của kẻ “đưa ra ánh sáng” các trang giấy của những kẻ khác. Thí dụ lớn nhất của điểm này là tác phẩm tuyệt vời của tuổi già của ông, Tuồng ảo hóa, tác phẩm rút ra từ tất cả các nguồn văn hóa nhân loại, cả Đông phương và Tây phương, với phụ đề “Thử Phác họa Cuộc đời của Magister Ludi Thomas Knecht cùng với Di cảo của Knecht, Hermann Hesse xuất bản”. Lúc đọc nó tôi đã cảm thấy rất quả quyết rằng, (như tôi đã viết cho ông vào lúc đó), biết bao yếu tố mô phỏng, sự mơ hồ và nhẹ chế giễu của một tiểu sử dựa trên những ước đoán lượm lặt được, nói tóm lại, bằng lời lẽ khoái hoạt, đã giúp giữ trong vòng những giới hạn tác phẩm cuối cùng này, với sự tiến bộ trí năng hiểm nguy và việc góp phần vào sự bi đát hiển nhiên của nó. Người Đức ư? Vâng, nếu đó là câu hỏi, thì tác phẩm cuối cùng này cùng với hết thảy tác phẩm trước quả là người Đức, người Đức với một độ gần như không thích hợp, người Đức trong sự lỗi lầm của nó ‘đã từ chối cố gắng làm hài lòng thế giới, một sự khước từ mà chung cục sẽ là vô hiệu, bất cứ điều gì mà người tuổi tác có thể làm, bởi danh tiếng thế giới; vì một lý do giản dị thì đây là thuộc về người Đức trong tuổi già, hạnh phúc, tự do và ý nghĩa trí thức mà tên tuổi Đức quốc nợ nó cái tiếng tốt nhất, mà đối với điều ấy nó nợ sự giao cảm của nhân loại. Tác phẩm táo bạo và trong trắng này đầy sự lạ lùng và đồng thời tinh thần cao cả, thì đẩy truyền thống, trung tín, ký ức, kín đáo – quyết không hề bị chuyển nghĩa. Nó xây dựng sự thân thiết và quen thuộc với một tinh thần mới. Vâng; bình diện cách mạng – cách mạng không trực tiếp với chính trị hoặc ý thức xã hội, nhưng có phần thuộc về tâm linh, một thứ cách mạng đầy thi vị; trong cái phương thức chính tông và chân thật thì nó là tiên tri của tương lai. Tôi không biết làm cách nào khác diễn tả sự đặc biệt, sự hỗn tạp và sự quyến rũ vô song mà tác phẩm ấy gợi ra cho tôi. Nó sở hữu cái thanh sắc lãng mạn, mỏng manh, sự phức tạp, tính tình ưu uất của linh hồn Đức – khí quan và cá nhân buộc chặt với những yếu tố rất khác biệt và ít xa vời đặc tính của tình cảm, những yếu tố của sự phê bình ở Âu châu và của Tâm lý phân tích pháp. Mối liên quan của nhà văn Swabian trữ tình và chất phác này với sự phân tích sâu xa về luyến ái quan của thành Vienne chẳng hạn, đã được phô diễn trong tác phẩm Narziss und Goldmund, một cuốn tiểu thuyết thi vị, độc đáo, hấp dẫn tuyệt vời và là cái tinh thần nghịch thường hấp dẫn nhất của loại đó. Sự hấp dẫn lạ thường và độc đáo của tác giả này không thua gì thiên tài Tiệp Khắc – Do thái, Franc Kafka mà trước đây ông ta đã được gọi là một “Hoàng đế không ngai của văn xuôi Đức” và đối với ông ta, ông đã phê bình tỏ lòng tôn kính ở mỗi cơ hội thuận tiện – trước rất lâu, trước khi tên tuổi của Kafka trở thành cái mốt ở Paris và New York như thế. Nếu ông là “người Đức”, rõ ràng về ông không có chi xấu xa hay đáng trách. Sự ảnh hưởng đầy phấn khích của tác phẩm Demian, đến cả một thế hệ ngay sau cuộc đệ nhất thế chiến, từ ngòi bút của anh chàng Sinclair huyền diệu, chắc chắn không sao quên được. Với sự chính xác kỳ bí, tác phẩm thơ mộng này đã đánh vào cân não thời đại và kêu gọi lòng hoan hỉ biết ơn của cả một thế hệ tuổi trẻ mà họ tin rằng sự chú giải cuộc sống nội tâm của họ đã mọc dậy từ giữa con người họ – trong khi đó thì một người đã bốn mươi hai tuổi đầu dâng hiến cho họ những gì mà họ tìm kiếm. Và cần bày tỏ rằng, như một cuốn tiểu thuyết thực nghiệm, thì cuốn Sói đồng hoang táo bạo đâu có thua gì Ulysses2 và The Counterfeiters3. Đối với tôi, tác phẩm cả đời ông, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn của quê hương Đức quốc, trong mọi cơ hội lại là chủ nghĩa cá nhân một cách kỳ lạ, lúc thì nó nóng nảy buồn cười, khi thì nó tỏ vẻ khao khát sự làm mất thiện cảm một cách huyền bí từ thế giới và thời gian, những chí nguyện tinh thần cao cả và thuần khiết nhất và những việc làm vất vả của thời đại chúng ta. Cái thế hệ văn học mà tôi thuộc vào, trước hết tôi chọn ông, người mà nay đã thực hiện được cái tuổi già đạt đạo, như một người gần gũi và thân thiết nhất với tôi và tôi đã theo dõi sự khai triển của ông với một mối giao cảm nổi bật lên từ những khác biệt cũng như những tương tự của chúng tôi. Tuy nhiên, điều sau đôi khi đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Ông đã viết những điều – tại sao tôi sẽ không nhìn nhận nó nhỉ? – như là Badegast và quả thật, có nhiều trong tác phẩm Tuồng ảo hóa, đặc biệt là sự giới thiệu trang trọng, mà tôi đã đọc và cảm thấy, “như thể nó là một phần của tôi”. Tôi cũng yêu Hesse như một con người, tính vui vẻ thâm trầm của ông, những lối nô đùa ầm ĩ, cái đẹp xa vời của cái nhìn của ông, ôi chao, cặp mắt đau khổ, mà ánh biếc của nó đã làm sắc sảo cho cái khuôn mặt của lão nông phu miền Swabian tinh khôn sắc sảo. Tôi mới chỉ biết ông một cách thân mật lần thứ nhất, trước đây mười bốn năm, khi đau đớn do sự xúc động về sự thất bại của xứ sở tôi và quê hương tôi, tôi thường ở với ông trong căn nhà và khu vườn xinh xắn của ông ở Ticino. Trong những ngày đó tôi đã thèm thuồng cuộc sống của ông biết bao! – không nói chỉ việc ẩn dật của ông ở một xứ tự do, mà trên hết cả là cái mực độ khó nhọc để thu đoạt cái tinh thần tự do mà do việc làm ấy ông đã vượt hơn tôi, bởi cái triết lý tách riêng ra tất cả các chính sách Đức quốc của ông. Không có gì vui thú hơn, xoa dịu hơn trong những ngày xáo trộn nọ hơn là sự đàm thoại với ông. Bởi vì trong một chu kỳ và hơn nữa, tôi đã từng thúc giục là tác phẩm của ông phải được ban tặng giải thưởng văn chương quốc tế của nước Thụy điển. Điều ấy cũng không đến ngay vào giáp lục tuần của ông, và sự chọn lựa làm công dân của quốc gia trung lập Thụy Điền sẽ là một lối xử thế khôn ngoan, ở một cải thời khi mà Hitler (vì Ossielky) đã ngăn cấm việc nhận giải thưởng cho tất cả công dân Đức ở bất cứ lúc nào. Nhưng nay cũng đã có nhiều danh dự xứng đáng hơn, khi một tác giả bảy mươi tuổi thọ chính ông ta tưởng thưởng cho mình cái tác phẩm dồi dào phong phú với một cái gì tuyệt vời cao nhã, tiểu thuyết giáo dục trọng đại của ông. Giải thưởng này mang đến khắp thế giới cái tên tuổi mà cho tới nay đã không được chú ý thích đáng tại khắp các quốc gia và cũng như nó không thể nào không làm nổi lên thanh danh của tên tuổi này ở Mỹ. Vì vậy tôi lấy làm thích thú viết một lời tựa giao cảm cho ấn bản Anh ngữ của tác phẩm Demian nồng nàn đáng ca ngợi này, tác phẩm được viết trong một thứ văn xuôi vị thi khích động, được viết trong thời trung niên cường tráng của ông. Một tác phẩm mỏng manh, nhưng đó là những tác phẩm cỡ nhỏ thường hàm chứa cái cơ năng vĩ đại nhất, chẳng hạn như tác phẩm Die Leiden des jungen Werthers trong việc lưu tâm đến kết quả của nó ở Đức, thì Demian mang một sự tương tự xa xôi. Tác giả ắt đã có một giác quan rất linh hoạt ở hiệu lực của khả năng sáng tạo, vượt trên cá nhân ông như đã được chứng tỏ bởi cái chủ tâm không cho rõ nghĩa của nhan đề, “Câu chuyện của Tuổi Trẻ”, mà nhan đề ấy có thể ứng dụng cho cả thế hệ thanh niên tuổi trẻ cũng như cho một cá nhân. Cảm tưởng này cũng đã được bày tỏ bởi cái sự kiện là Hesse, không muốn cho tên mình xuất hiện trên cuốn sách đặc biệt này mà nó đã được biết đến và trở thành đặc trưng tiêu biểu. Thay vì thế, ông dùng bút hiệu là Sinclair – một tên được tuyển chọn trong giới Hoerlderlin – cho in trên cái bìa rời bên ngoài và trong một thời gian dài đã cẩn thận giấu tên tác giả của ông. Lúc đó tôi đã viết thư cho ông giám đốc nhà xuất bản, ông s. Fischer củng là người xuất bản tác phẩm độc đáo, cảm động này, và “Sinclair” có thể là kẻ nào vậy. Ông ta đã nói dối một cách trung thành: ông nhận bản thảo từ Thụy điển qua một người thứ ba. Song le, sự thật dần dà trở nên biết được, một phần qua sự phê bình phân tích bút pháp nhưng một phần cũng qua những sự khinh xuất để lộ ra. Tuy nhiên, tới lần tái bản thứ mười là ấn bản đầu tiên có mang tên Hesse. Ở cuối tác phẩm (thời gian là năm 1914), Demian nói với bạn cậu Sinclair: “Sẽ có chiến tranh… Nhưng Sinclair ạ, cậu sẽ thấy rằng đây chỉ là mới bắt đầu. Có lẽ nó sẽ trở thành một cuộc chiến tranh trên một bình diện khổng lồ. Nhưng ngay cả điều ấy nó cũng chỉ là mới khởi đầu. Thế giới mới đang bắt đầu: và đối với những kẻ nào còn khư khư bám vào cái cũ thì thế giới mới ấy sẽ là một điều khủng khiếp. Cậu sẽ làm gì?” Câu trả lời đúng sẽ là: “Nâng đỡ cái mới mà không hy sinh cái cũ”. Những tên nô bộc tuyệt nhất của cái mới – Hesse chẳng hạn – có thể là người hiểu biết và yêu cái cũ và mang nó vào trong cái mới. Mời các bạn đón đọc Tuổi Trẻ Băn Khoăn (Demian: Câu Chuyện Tuổi Trẻ Của Emil Sinclair) của tác giả Hermann Hesse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.
Bước Chạy Thanh Xuân - Miura Shion
ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT CỦA THANH XUÂN LÀ KHÔNG BAO GIỜ BỎ CUỘC! Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể. Mãi mãi không thể chạm vào vạch đích đó. Như tuổi thanh xuân lỡ mơ mộng và chỉ mơ mộng mà thôi. Không dám thử sức, không dám hết mình. Trong những năm tháng tuổi trẻ ấy, ở khu trọ Chikusei, có 9 chàng trai trẻ tuổi, mang trong mình những trăn trở, những sở thích và tính cách hoàn toàn khác biệt, cùng nhau ngày qua ngày sống một cuộc đời giản đơn, nhạt nhẽo. Ngỡ như tuổi trẻ của họ sẽ trôi qua mà chẳng có gì đáng nhớ. Cho đến khi chàng trai Kakeru như ngọn lửa sáng xuất hiện khiến đóm tàn trong ý chí của Kiyose – người say mê điền kinh và khao khát trở lại đường đua cháy bừng rực rỡ trong phút chốc. Hai người họ, bằng cách nào đó đã khiến 8 chàng trai khác trong khu trọ Chikusei, những người ban đầu vốn không mấy ưa chuyện vận động và chẳng hề có chút kinh nghiệm nào trong bộ môn điền kinh, bỗng nhiên cũng nuôi mộng Hakone - đường đua được cả Nhật Bản dõi theo và bao người mơ ước được đặt chân đến một lần trong đời. Thanh xuân của họ bắt đầu với ngọn lửa đam mê nhen nhóm rồi rực sáng như thế. Những giờ tập đẫm mồ hôi, những đánh đổi trong thói quen sinh hoạt và sở thích, những tranh cãi nảy lửa, một quá trình đầy rẫy khó khăn và thiếu thốn. Nhưng những chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết ấy chưa bao giờ từ bỏ, ngược lại ngày một khao khát mãnh liệt hơn để chạm đến vạch đích trên đường đua Hakone. *** “Cậu có biết lời khen tặng quý giá nhất đối với một người chạy trên đường đua là gì không? Nhanh. Không phải, là mạnh mẽ.” Phải rồi, tuổi trẻ cũng giống như đường đua. Sự quý giá nhất không phải nhanh hay chậm, giỏi hay tệ mà là sự mạnh mẽ. Mạnh mẽ đối đầu với thử thách, mạnh mẽ theo đuổi những thứ mình đặt ra, mạnh mẽ vươn đến những ranh giới mà mình nghĩ mình không thể chạm vào. Đó chính là điều tuyệt vời nhất của thanh xuân, những bước chạy không ngừng nghỉ để phá vỡ giới hạn của bản thân. Những bước chạy ấy, có thể sẽ không hoàn hảo, có thể sẽ không phải là nhanh nhất, nhưng quan trọng là họ đã dám vượt lên chính bản thân, dám đánh đổi để thành công, dám mơ ước để đạt đến những ranh giới cao hơn, xa hơn và rực rỡ hơn trong tuổi trẻ của mình! *** Bước chạy thanh xuân - cuốn sách tràn đầy nhiệt huyết dành cho những người trẻ của Miura Shion, tác giả tiểu thuyết xuất sắc của Nhật Bản. Cuốn sách sẽ khiến bạn nhận ra rằng chẳng có giới hạn nhất định nào cho con người. Chỉ cần chúng ta đủ kiên nhẫn, đủ can đảm và đủ tin tưởng vào chính bản thân mình, mọi chuyện nhất định sẽ thành công. *** Đi bộ từ tuyến đường số 8 đến khu vực này mất chừng 20 phút. Không khí ban đêm thật trong lành. Đèn đường trong khu phố đơn điệu chỉ còn sáng vài cây. Xung quanh trở về với vẻ tĩnh lặng. Vừa bước đi trên con đường hẹp một chiều dành cho người đi bộ, Kiyose Haiji vừa ngước nhìn bầu trời đêm. Màn sao ở đây không thể so với quê nhà Shimane của anh được, nhưng rõ ràng Tokyo vẫn có riêng của mình vài đốm sáng yếu ớt. Anh ước gì bây giờ có thể thấy được sao băng. Nhưng nền trời vẫn lẳng lặng chẳng hồi đáp. Gió gợn qua cổ anh. Sắp tới tháng tư rồi mà trời vẫn còn rét căm căm. Làn khói bốc lên từ nhà tắm "Tsurunoyu" bay về phía những mái nhà thấp lè tè. Kiyose không nhìn trời nữa, mà vùi cằm vào cổ chiếc áo khoác kiểu Nhật, chân bước nhanh hơn. Nước nóng của nhà tắm công cộng ở Tokyo nóng thật. Hôm nay kiyose cũng đứng lên ngay sau khi trầm hết cơ thể trong bồn. Bác thợ xây - khách quen của"Tsurunoyu" nhìn thấy cảnh đó liền bật cười: "Vẫn nhát như mọi khi nhỉ, Haiji? Dân Edo chính gốc hồi ấy tắm nước nóng đến nỗi bỏng mông luôn đó." Giọng của bác thợ xây vọng lại từ trần nhà lát gạch men. Chẳng có bóng người nào phía nhà tắm nữ. Có lẽ trong đây chỉ có mỗi kiyose và bác thợ xây. "Cháu lúc nào cũng thắc mắc, không biết có nên hỏi chuyện này không..." "Gì đó?" "Khu này không phải vùng ngoại ô mà là nằm trên đồi bác nhỉ?" Cạo râu xong, kiyose lại bước đến bên bồn. Vừa nhìn vào ánh mắt bác thợ xây anh vừa vặn vòi nước. Nhiệt độ của nước lần này khác với lần trước. Kiyose yên tâm bước chân vào. "Có thể phân biệt đâu là khu ngoại ô đâu là khu trên đồi, xem ra cậu cũng quen với cuộc sống ở đây rồi?" "Cũng được bốn năm rồi mà ạ." "Chikusei thế nào rồi? Năm nay nhắm hết phòng nổi không?" "Còn một người nữa. Cháu cũng chẳng biết phải tính sao." "Thế tức là nổi chứ gì?" "Vâng." Kiyose thật lòng nghĩ thế. Đây là năm cuối cùng rồi. Cơ hội ngàn năm có một sắp sửa cận kề. Chỉ một người nữa thôi. Kiyose theo bác thợ xây bước ra khỏi nhà tắm. Bác dắt xe đạp, còn anh thong dong rảo bước bên cạnh. Nhờ tắm nước nóng nên kiyose hoàn toàn không thấy lạnh. Lúc anh tính cởi áo khoác ra thì đằng sau lưng chợt vang lên tiếng chân chạy, rồi tiếng la hét. Ngoái đầu lại, Kiyose trông thấy con đường hẹp phía trước có hai bóng người. Để thoát khỏi bóng người đàn ông đang hét toáng lên, bóng đen còn lại đang phóng về phía Kiyose và bác thợ xây. Trong chớp mắt, cái bóng ấy đã áp sát hai người bọn họ. Là một thanh niên, vẫn còn quá trẻ, Kiyose vừa nghĩ thế thì cậu ta đã kịp chạy biến. Nhân viên cửa hàng tiện lợi đuổi theo sau với tốc độ chậm hơn nhiều. Cậu thanh niên vừa này tông qua vai Kiyose không có lấy một nhịp thở dốc. Kiyose theo phản xạ định đuổi theo, nhưng bác thợ xây đã lên tiếng càm ràm. "Mấy thằng ăn cắp dạo này kinh thật." Nói mới nhớ, người nhân viên khi nãy cũng có kêu lên "Ăn cắp" thì phải. Nhưng Kiyose lại chẳng để ý đến chuyện đó vì trong phút chốc, anh đã bị thu hút bởi sức lực và đôi chân linh hoạt của cậu thanh niên kia. Kiyose vớ lấy chiếc xe đạp của bác thợ xây rồi leo lên. "Cho cháu mượn." Bỏ lại bác thợ xây với gương mặt ngơ ngác, Kiyose dốc toàn lực đạp xe đuổi theo vết tích cậu thanh niên đã biến mất vào đêm tối. Chính là cậu ta. Mình phải tìm cậu ta cho bằng được. Con tim Kiyose như bị nuốt chửng bởi dòng dung nham đặc quánh. Không có lý nào anh lại để mất dấu cậu ta. Trên con đường hẹp tối tăm này, thứ toả sáng duy nhất chỉ có hình dáng cậu thanh niên nọ. Áo khoác của Kiyose no gió. Cuối cùng thì xe đạp cuối cùng cũng chiếu đến cậu thanh niên kia. Thăng bằng tốt lắm. Kiyose cố gắng nén sự phấn khích để quan sát bước chạy của cậu ta. Lưng thẳng theo trục. Chân từ đầu gối trở xuống duỗi thẳng. Bờ vai thả lỏng, cổ chân nhịp nhàng nhận lấy sung động mỗi lần bàn chân chạm đất. Bước chạy vừa mềm mại vừa đầy uy lực. Có vẻ cậu ta đã phát hiện ra có người đang đuổi theo nên đến chỗ có ánh đèn đường liền ngoảnh đầu lại. Trông thấy khuân mặt nhìn nghiêng ấy, Kiyose không khỏi à lên một tiếng. Là cậu sao? Lòng anh dâng lên một cảm xúc, chẳng biết là niềm vui hay nỗi sợ hãi. Kiyose có linh cảm rằng đây nhất định là khởi đầu cho điều gì đó. Anh tăng tốc, lao lên chạy song song với cậu thanh niên. Như thể bị ai đó xui khiển, Kiyose vuột miệng hỏi: "Cậu thích chạy bộ à?" Cậu thanh niên đột ngột dừng lại rồi nhìn Kiyose với vẻ mặt không phải bối rối, cũng chẳng phải tức giận. Con ngươi đen láy ẩn chứa nhiệt huyết mãnh liệt soi ngược vào anh. Khoảnh khắc đó chính là lúc Kiyose nhận ra: Hạnh phúc và những điều tốt đẹp có lẽ tồn tại trên thế gian này thật. Đối với mình, tất cả những thứ ấy chính là chàng trai này.   Mời các bạn đón đọc Bước Chạy Thanh Xuân của tác giả Miura Shion.
Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối - Louis Ferdinand Céline
Louis Ferdinand Céline (1894-1961) tên thật: Louis-Ferdinand Destouches, vừa là nhà văn vừa là thầy thuốc. Ông lấy tên bà ngoại, Céline, làm bút danh. Năm 1912, ông tình nguyện nhập ngũ và giải ngũ năm 1914 với 75% thương tật. Sau đó, ông sang châu Phi tham gia việc chiếm đóng một thuộc địa cũ của Đức là Cameroun; trở về nước năm 1916, với bệnh sốt rét mạn tính. Năm 1918, ông theo học đại học y khoa, từng làm thầy thuốc cả ở New York, Mỹ lẫn Paris, Pháp. Đây là những chi tiết sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết đầu tay của ông năm 1932 với tựa đề Hành trình đến tận cùng đêm tối. Đây là một trong những cuốn sách hiếm hoi vừa ra mắt đã lập tức trở thành một sự kiện lịch sử văn học. Céline đã dựa vào thứ ngôn ngữ truyền khẩu và bình dân mà văn học Pháp đã không biết đến suốt ba thế kỷ, để kịch liệt tố cáo thực trạng xã hội, từ đó tạo ra một sức mạnh chưa từng có và dùng nó đế đặt một nghi vấn siêu hình về con người và thân phận làm người. Nhiều từ điển bách khoa Pháp đặt Hành trình đến tận cùng đêm tối ngang với các tác phẩm văn học kinh điển và thường dành một mục từ riêng cho tác phẩm và cho rằng tác phẩm đã "được viết với một văn phong méo mó, tràn ngập những lộng ngôn", nhưng cũng phải thừa nhận "tác phẩm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Pháp hiện đại". Năm 1995, tờ tuần báo Pháp L’Évènement du Jeudi cùng Đài Phát thanh và Trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris đã tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến để chọn lấy 10 cuốn sách hay nhất trong văn học Pháp cho thế hệ năm 2000. Kết quả là, cuốn Hành trình đến tận cùng đêm tối được xếp thứ hai, sau cuốn Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, nhưng đứng trên các tác phẩm xưa nay nổi tiếng của Albert Camus, André Malraux, Marguerite Yourcenar hay Jean- Paul Sartre. Hoàng Phong​ *** Chuyện ấy đã bắt đầu như thế đấy. Tôi thì tôi chẳng bao giờ nói gì đâu. Chẳng nói gì cả. Nhưng Arthur Ganate lại gợi cho tôi nói. Arthur, một thằng bạn sinh viên, cùng khoa y với tôi. Hai đứa gặp nhau ở quảng trường Clichy. Lúc ấy đã sau bữa trưa. Cậu ta có chuyện gì đó muốn nói với tôi. Tôi nghe cậu ta. “Thôi, không ngồi ngoài này nữa, chúng mình về đi”, cậu ta bảo. Tôi về với cậu ta. Thế đấy. Rồi cậu ta bắt đầu câu chuyện. “Ngoài hiên này dành cho khách ăn trứng la-coóc. Chúng mình lại đằng kia đi!” Lúc ấy đường phố vắng tanh, chẳng có ma nào, vì trời nóng bức; xe cộ cũng không, chẳng có gì hết. Trời lạnh thì cũng chẳng ma nào ngoài phố; tôi nhớ rằng chính cậu ta nói với tôi cái ý này: “Dân Paris cứ làm ra vẻ lúc nào cũng bận bịu, nhưng thật ra họ dong chơi suốt từ sớm đến tối. Chứng cớ là khi nào thời tiết không đẹp để họ đi chơi, hoặc lạnh quá hoặc nóng quá thì có thấy họ quái đâu, tất cả còn chúi mũi vào quán cà phê hay quầy bia hơi. Là thế đấy! Họ bảo rằng thế kỷ của chúng ta là thế kỷ tốc độ! Đâu nào? Rồi lại nói đến những thay đổi lớn! Nói thế thôi, thay đổi gì nào? Thật ra chẳng thay đổi cái quái gì cả. Họ chỉ bốc nhau lên đó thôi. Mà cái chuyện bốc nhau thì cũng chẳng mới mẻ gì. Toàn chuyện ngôn từ, mà ngôn từ thì cũng có đổi mới được bao nhiêu đâu! Hai ba cái ở chỗ này, chỗ kia, toàn những đồ nhỏ nhoi, vặt vãnh”. Khoái trí vì gióng được lên những hồi chuông tưởng như là chân lý hữu ích, cả hai đứa chúng tôi ngồi lỳ ở đó, thích thú, nhìn ngó các cô hàng cà phê. Sau đó, câu chuyện quay về với tổng thống Poincaré vừa cắt băng khai mạc, đúng vào sáng hôm ấy, cuộc triển lãm chó cún; và thế rồi, chuyện tán róc rỉ rả trên tờ Thời báo (Le Temps). Arthur nói chọc tôi: “Thằng cha Thời báo quả là bậc thầy làng báo. Không thể có lấy hai tờ báo như thế để mà bênh vực cái giòng giống Pháp này!” Tôi bảo: “Rõ ràng là cần có một giòng giống Pháp, nhưng làm quái gì có!” Trả miếng hắn ta như thế để tỏ ra rằng tôi cũng là thằng nói năng có sở cứ lắm chứ. “Có đấy! Có một giòng giống Pháp, mà lại là giòng giống tốt nữa cơ - hắn nhấn mạnh - thậm chí còn là giòng giống tốt nhất thế giới cơ đấy. Chỉ tội một nỗi là rất khỏe bị cắm sừng mà lại cứ nói ngược!” Thế là hắn ta bắt đầu nổi khùng với tôi. Tất nhiên tôi phải tự trấn tĩnh và vững vàng. “Không đúng đâu. Cái mà cậu gọi là giòng giống, chỉ là một mớ táp nham những kẻ khố rách áo ôm như loại tớ thôi, toàn là một bầy chấy rận, toét mắt, run rẩy trôi giạt vào đất này, lại còn bị đủ thứ đói rét, dịch hạch bám đuổi, những kẻ thất thế khắp bốn phương trời đổ về đây. Họ không còn đi xa hơn được nữa vì biển cả đã ngăn bước chân họ lại. Đấy, nước Pháp và dân Pháp là thế đấy”. Trầm hẳn giọng xuống và đượm vẻ buồn, cậu ta bảo tôi: -     Bardamu ơi, ông cha mình đáng tự hào lắm, chớ có nói bậy! -     Cậu có lý, Arthur ạ. Cái ấy thì cậu có lý! Luôn luôn hằn học và dễ bảo, bị xâm phạm, bị đánh cắp, bị moi ruột và ngốc nghếch... Ông cha ta đáng tự hào lắm chứ! Cậu có thể nói là thế! Chúng ta có gì thay đổi nào? Giầy tất, không thay đổi; chúa tể, không thay đổi, chính kiến cũng không, hay có chăng thì cũng quá muộn mằn, chẳng còn đáng để trông đợi nữa. Chúng ta bẩm sinh đã là những kẻ trung thành, điều ấy thì rõ quá đi rồi! Lính tráng không lương, anh hùng cho tất cả mọi người, cho tất cả những con khỉ biết nói tiếng người... Những từ ngữ đã làm khổ tai nhau quá rồi. Chúng ta chỉ là những thần dân của Đức Vua Khốn khổ. Ngài chính là chúa tể của chúng ta. Chừng nào mà ta không ngoan ngoãn thì ngài siết chặt lại. Những ngón tay ngài siết chặt cổ tất cả chúng ta, nói đã chẳng ra lời, còn phải liệu, thần hồn nếu muốn ăn nuốt cho trôi... Ngài bóp hầu bóp cổ ta chẳng cần có nguyên cớ gì hết... cứ thế thì còn cóc gì là đời nữa... -     Còn chứ, còn tình yêu, Bardamu ơi! ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối của tác giả Louis Ferdinand Céline.
Về Trong Mưa Bão - Tô Đức Chiêu
Mỗi nhà văn đều có một miền quê suối nguồn cho tác phẩm, với ông Tô Đức Chiêu, đó là bầu trời của quân chủng phòng không và quê hương Hải Dương. Đọc sách của nhà văn Tô Đức Chiêu, như thể nghe thấy hơi thở một thời của thị xã Hải Dương và một vùng Cẩm Giàng nhỏ bé. *** Nhà văn Tô Đức Chiêu sinh năm 1942. Quê ông ở Gia Lộc - Hải Dương. Ông chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết. Các tác phẩm đã xuất bản: Ngày về (1978); Chàng rể (1990); Chân pháo (1986); Về trong mưa bão (1991); Nhớ đàn chim vàng anh (1996). *** Vào những ngày sát Tết âm lịch năm ấy, tôi có dịp về thăm làng Thị. Bởi đó cũng chính là quê tôi. Tôi đạp xe từ phía Thọ Chương, qua khóm tre đầu làng Kim Trang về chùa Mận. Tôi xuống xe dắt mà không đạp nữa vì có quá nhiều người làm đồng vẫy gọi. Đang mùa cấy chiêm. Người ta tháo nước theo các máng nhỏ vào đồng. Đất ải bị bừa vỡ làm nước bạc sàu sàu xô những bãi bọt vô bờ. Những con dế trũi khoét trong vồng đất khô khốc gặp nước nổi lên, bơi chới với, làm mồi cho những con chim có thể bay đứng, phát hiện mồi, lao xuống mổ đánh tốp rồi vút lên không. Nhưng chính những con chim ấy lại làm mồi cho những chú bé đặt bẫy. Đồng đang mùa làm ăn vui say như ngày hội của làng. Bà con phấn khởi. Người người đi lại vội vàng. Anh Thùy gặp tôi ngay chỗ Lò Gạch gần nổ tát Ao Phe. Anh giữ tôi lại và bao nhiêu người tranh thủ kéo đến. Anh nói nhanh: - Chú về vui lắm. Bà con đang mong. Tôi nói: - Em có qua huyện, nhưng bí thư sang Tây Kỳ còn chủ tịch họp trên tỉnh. Chẳng hiểu tình hình hợp tác xã bây giờ thế nào? Anh Thùy khẳng định: - Tốt! Bà con phấn chấn lắm. Huyện và xã đồng ý tạm thời với phương án của nhân dân làng Thị là cứ thử để ban điều hành sản xuất làm việc hết năm nay. Ao hồ cho đấu thầu thả cá hết. Cánh đồng Mạn Điền thì xóm Cổng Và làng Cao đồng ý nhường lại cho một nửa. Còn mười mẫu đồng Mè qua thương lượng được bà con bên ấy đồng ý để lại cho làng Thị. Nếu phương án này tỏ ra ưu việt thì cấp trên sẽ xem xét ra quyết định chính thức. ... Mời các bạn đón đọc Về Trong Mưa Bão của tác giả Tô Đức Chiêu.