Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Bé - Jules Vallès

JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Lừa Dối
Hai cái xác không quần áo trong phong cô gái gọi cao cấp cùng những cuốn băng video hành nghề của cô ta liên quan gì tới một tài liệu quân sự tuyệt mật và thời kỳ Đông – Tây Đức còn chìa cắt ? Tại sao nguyên một con tàu vũ khí của nhóm khủng bố IRA khét tiếng bị “bắt sống” giữa biển khơi ? Và ai dám mạo nhận Nữ Hoàng Anh ban sắc chỉ tự phong cho mình chức Thống đốc một vùng lãnh thổ. Sau khi đã làm tan rã một tập đoàn ma tuý Columbia ? Chỉ một người trả lời được những câu hỏi ấy. Đó là Sam McCready. Kẻ Lừa Dối khét tiếng trong nghề song lại trung hậu, đáng yêu nhất trong đời. Và số phận của con người ấy ra sao !!?? ***   Mời các bạn đón đọc Kẻ Lừa Dối của tác giả Frederick Forsyth & Trần Hưng (dịch).
Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith
Cuốn sách Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith bao gồm các bình luận xã hội đáng kể về tình trạng và triển vọng của y học ở Hoa Kỳ trong những năm 1920. Arrowsmith là một người tiến bộ, thậm chí là một kẻ nổi loạn, và thường thách thức tình trạng hiện có của mọi thứ khi anh ta thấy nó muốn. Cuốn tiểu thuyết Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith này đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ sinh viên tiền y và y khoa. Có rất nhiều đau khổ trên đường đi liên quan đến các quyết định sự nghiệp và cuộc sống. Trong khi kể chi tiết việc Arrowsmith theo đuổi những lý tưởng cao đẹp của nghiên cứu y học vì lợi ích của nhân loại và lòng tận tụy quên mình trong việc chăm sóc bệnh nhân, Lewis đã ném ra nhiều cám dỗ và sự tự lừa dối ít cao thượng hơn trong con đường của Arrowsmith. Sự hấp dẫn của sự an toàn tài chính, sự công nhận, thậm chí cả sự giàu có và quyền lực khiến Arrowsmith rời khỏi kế hoạch ban đầu để theo bước người cố vấn đầu tiên của mình, Max Gottlieb, một nhà vi khuẩn học tài giỏi nhưng có tính mài mòn. Trong cuốn tiểu thuyết, Lewis mô tả nhiều khía cạnh của đào tạo y tế, thực hành y tế, nghiên cứu khoa học, gian lận khoa học, đạo đức y tế, sức khỏe cộng đồng và xung đột cá nhân / nghề nghiệp vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay. Sự ghen tuông nghề nghiệp, áp lực thể chế, lòng tham, sự ngu ngốc và sự cẩu thả đều được miêu tả một cách châm biếm, và bản thân Arrowsmith cũng đang bực tức tự cho mình. Nhưng cũng có sự cống hiến không mệt mỏi, và tôn trọng phương pháp khoa học và trí tuệ trung thực. *** Sinclair Lewis sinh ở Sauk Centre, Minnesota trong gia đình một bác sĩ. Học tiểu học tại Minnesota, sau đó học Đại học Yale. Tại đây Lewis in thơ và tham gia vào ban biên tập tạp chí văn học của trường. Trong kì nghỉ hè rảnh rỗi, Lewis viết cuốn tiểu thuyết The Village Virus (Virus nhà quê), mười lăm năm sau được phát triển thành tác phẩm danh tiếng Main Street (Phố chính). Năm 1912, cuốn sách đầu tiên của Lewis Hike and the Aeroplane (Cuộc dạo bộ và chiếc máy bay) được in dưới bút danh Tom Grame. Năm 1914, ông in tiểu thuyết Our Mr. Wrenn: The Romantic Adventures of a Gentle Man (Ông Wren của chúng ta) và tiếp tục viết nhiều truyện giải trí nhưng không được chú ý. Trong 15 năm sau đó, ông lang thang qua 40 tiểu bang nước Mỹ và nhiều nước trên thế giới để kiếm sống, tìm việc làm và thu thập tài liệu viết văn. Nguồn cảm hứng sáng tạo thực sự của Sinclair Lewis được khơi dậy chính là từ những ngày tháng sống trong toa xe ngủ tại nông trại Vermont ở Minnesota và các nhà trọ ở thành phố Kansas hoặc Savannah. Tất cả sự phong phú của cuộc sống qua các câu chuyện kể và sự tiếp xúc với giới bình dân và nhiều tầng lớp xã hội khác đã mang lại cho nhà văn nguồn tư liệu vô tận để miêu tả cuộc sống thật sinh động. Sinclair Lewis trở nên nổi tiếng thật sự bắt đầu từ tiểu thuyết Main Street (Phố chính, 1920) - cuốn sách gây nên hai luồng dư luận trái ngược nhau: một bên ca ngợi hết lời, một bên phê bình kịch liệt. Tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông là Babbitt (1922). Với hai cuốn tiểu thuyết này Lewis đã tạo ra hai hình tượng điển hình trong văn học cận đại Mỹ: Babbitt điển hình cho người Mỹ tiểu tư sản tầm thường, nhạt nhẽo, ba hoa, và hám lợi; Main Street điển hình cho cuộc sống tỉnh lẻ, hẹp hòi, ngột ngạt ở các thị trấn, thành phố nhỏ của nước Mỹ. Năm 1925 cuốn Arrowsmith được trao giải Pulitzer nhưng ông không nhận. Còn giải Nobel năm 1930 dành cho Sinclair Lewis bị một số báo chí Mỹ phản ứng, coi là không xứng đáng vì cho rằng Lewis bôi nhọ nước Mỹ trong các tác phẩm của mình. Tiểu thuyết World So Wide (Thế giới quả là rộng lớn, 1951) là tác phẩm cuối cùng của ông. Cuối đời nhà văn nghiện rượu nặng và mất tại Roma ở tuổi 65. HARRY SINCLAIR LEWIS là con một bác-sĩ ở vùng quê, sinh tại Sauk Centre, Minnesota, năm 1885. Thuở thơ- ấu và niên-thiếu, ông ở Middle West và sau học tại Đại Học Đường Yale; ở đây ông làm chủ bút tờ văn-học tập-san. Sau khi tốt-nghiệp năm 1907 ông đến New York viết báo một thời-gian, rồi làm việc trong bộ biên-tập của nhiều tờ báo ở nhiều nơi từ East Coast tới California. Sau khi đã viết một số truyện đăng trong các tạp chí và xuất-bản được cuốn truyện đầu tay, Our Mr. Wrenn (1914) ông bỏ nghề viết báo. Tuy nhiên, Main Street (1920) mới thực là tác-phẩm thành công đầu tiên của ông, và cuốn Babbitt (1922) làm cho ông nổi danh thêm. Năm 1926, ông được thưởng giải Pulitzer về cuốn Arrowsmith (1925) , nhưng ông từ chối danh-dự này. Tuy nhiên, ông nhận giải Nobel người ta tặng ông năm 1930 và ông chính thức đến Stockholm để lãnh thưởng. Trong khoảng cuối đời ông, ông thường hay ở tại Âu-Châu và tiếp-tục viết cả hai thứ tiểu-thuyết và kịch. Năm 1950, sau khi hoàn thành cuốn truyện cuối cùng, World so Wide (1951) , ông dự định làm một vòng du-lịch xa rộng, nhưng ông bị đau và bắt buộc phải ở tại Rome mấy tháng để làm thơ. Ông mất tại đây năm 1951.   *** Một buổi chiều tháng Năm, nghị- sĩ Almus Pickerbaugh đương dùng cơm chiều với Tổng-Thống Hoa-Kỳ. Tổng-Thống nói, “Khi tuyển-cử xong rồi, tôi mong Bác-sĩ sẽ nhận một chức trong nội-các... chức Bộ- Trưởng Y-Tế đầu tiên của Hoa-Kỳ!" Chiều hôm đó, Bác-sĩ Holabird đọc diễn-văn trong một cuộc hội-họp những tư-tưởng-gia trứ danh do Hội Liên-Hiệp Văn-hóa tổ- chức. Trong số những “Nhân Vật Chỉ Vui có Hạn" lên diễn đàn có Bác-sĩ Aaron Sholtheis, Tân Giám-Đốc Viện McGurk và Bác-sĩ Angus Duer, Giám-đốc Dưỡng-đường Duer kiêm Giáo-sư giải-phẫu tại Y-Khoa Đại-Học-Đường Fort Dearbron. Bài diễn-văn lịch-sử của Bác-sĩ Holabird được vô-tuyến truyền-thanh đi cho hàng triệu thính-giả nhiệt-thành yêu khoa-học nghe. Cũng chiều hôm ấy, Bert Tozer ở tại Wheatsylvania tại North Dakota, đương dự một khóa lễ bán tuần. Chiếc xe hơi mới hiệu Buick của ông đậu bên ngoài nhà thờ đợi ông, và ông hoan-hỷ một cách khiêm-nhường, nhũn-nhặn nghe mục-sư giảng: "Thượng-đế đã dạy rằng: những kẻ chính-trực, ngay cả những ‘Đứa Con Của Ánh Vinh-Quang’, sẽ được thưởng một phần thưởng vĩ-đại và sẽ đi trên đường hỷ- lạc, còn những kẻ hay nhạo báng, những ‘Đứa Con của Ác Quỷ’ sẽ bị sát hại và quăng xuống hang sâu vực thẳm, và bị quên lãng trong chốn chợ đời tấp nập". Cũng chiều hôm ấy, Gottlieb ngồi im một mình không nhúc-nhích, trong một căn buồng tối tăm bé nhỏ trên lầu cao một ngôi nhà trong con đường ồn-ào nhộn-nhịp. Chỉ có đôi mắt của Ông là còn linh-động. Cũng chiều hôm ấy, một làn gió nóng miền nhiệt-đới thổi vật-vờ trong kẽ lá của dặng cây gồi nơi mà di-hài của Gustaf Sondelius đã tan ra cùng than bụi, và một quãng đất lún xuống trong một mảnh vườn ghi dấu mộ phần của Leora. Cũng chiều hôm ấy, sau một bữa cơm chiều vui vẻ khác thường với Latham Ireland, Joyce thú-nhận, "Vâng, nếu em ly-dị hẳn với anh ấy rồi, có lẽ em sẽ lấy anh. Em biết! Chẳng bao giờ anh ấy nhận thấy anh ấy có tính tự- tôn tự- đại kinh-khủng, tự cho mình là con người duy nhất ở đời bao giờ cũng có lý, không bao giờ lầm-lẫn cả!" Cũng chiều hôm đó, Martin Arrowsmith và Terry Wickett nằm dài trên một con thuyền xấu xí, một con thuyền bất tiện hết chỗ nói, trôi xa-xa ra giữa hồ. Martin nói, “Tôi cảm thấy như bây giờ tôi mới thật sự bắt tay vào làm việc. Cái thuốc ký-ninh mới này có lẽ khá lắm. Chúng mình còn phải vất-vả vài ba năm nữa may ra mới chế được thứ thuốc hoàn hảo – mà cũng rất có thể chúng mình sẽ thất bại!”   Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith của tác giả Sinclair Lewis & Bảo Sơn (dịch).
Những Lá Thư Ngày Thứ Tư
Sau cái chết bất ngờ của vợ chồng Jack và Laurel, các con của họ đã tìm được những lá thư mà Jack từng viết cho Laurel vào mỗi ngày thứ Tư hàng tuần trong suốt những năm dài họ chung sống. Đó là những bài thơ dễ thương Jack dành riêng cho vợ, là lời xin lỗi chân thành của Jack về tính khí nóng nảy của mình, là tình cảm không thể thành lời đối với những đứa con, là những buồn vui trong cuộc sống thường ngày... Những lá thư thấm đẫm tình yêu thương ấy đã giúp họ vượt qua sóng gió trong cuộc sống, khiến tình yêu của họ được thắt chặt và bền vững đến tận ngày cả hai cùng nhắm mắt lìa đời. Chính những lá thư vừa hóm hỉnh vừa sâu sắc ấy đã giúp con trai họ là Malcolm lần ra được bí mật lớn nhất của đời mình, đồng thời chúng còn là cầu nối để anh tìm lại tình yêu đích thực với Rain. Những lá thư ngày thứ Tư khắc họa nên một câu chuyện đời thường dễ thương và gần gũi, qua đó Jason F. Wright đã gửi gắm những thông điệp chân thành về tình yêu thương gia đình, về nét đẹp của những điều giản dị trong cuộc sống và về giá trị của lòng vị tha. Khép lại câu chuyện, độc giả sẽ bắt đầu muốn viết “Những lá thư ngày Thứ Tư” của riêng mình bởi những giá trị thiêng liêng mà quyển sách mang lại. *** NHỮNG LÁ THƯ NGÀY THỨ TƯ: "NƠI HỒI SINH TÌNH YÊU SAU CÁI CHẾT…" Jason Wright là tác giả của tiểu thuyết Christmas Jars bán chạy nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết: Những lá thư ngày thứ tư ẩn chứa thông điệp về lòng vị tha, tình yêu thương, kể cả khi họ không còn trên thế gian này nữa. Trong cuộc sống, điều gì tạo nên mật ngọt nuôi dưỡng tình yêu và cuộc hôn nhân của những đôi vợ chồng đã bước sang tuổi xế chiều? Tình yêu và sự mãnh liệt của tình yêu có thể hồi sinh sau cái chết? Thông điệp: “Những lá thư ngày thứ tư kể về một câu chuyện ấm nồng, nhân văn như thế. Jack và Laurel là cặp vợ chồng hạnh phúc trong suốt nhiều năm trời. Mỗi ngày sống bên nhau Jack đều viết cho vợ những bức thư tràn đầy tình yêu thương, sự lãng mạn, ngọt ngào. Những bức thư viết tay ấy không được gửi đi cho đến khi cả hai người đột ngột qua đời. Tình yêu làm cho con người luôn cảm giác về sự bất tận của khoảng cách. Rồi một ngày thật hi hữu, Laurel lên cơn đau tim và đột tử. Jack trong nỗi đau mất vợ, nỗi đau của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, cũng vô tình mất trong ngày định mệnh ấy. Nhưng điều kì lạ, Jack và Laurel mất đi, vẫn đầy ắp tình thương yêu của của họ hiện hữu trong cuộc sống của những đứa con khi bất chợt tìm thấy những lá thư họ viết cho nhau. Những bức thư lúc ấy không chỉ là thông điệp về tình yêu mà còn là bài học sâu sắc, vô giá cho họ phải biết trân trọng từng giá trị bé nhỏ của cuộc sống khi còn được bên nhau, còn được yêu thương trên thế gian này. Và tình yêu khác mất đi, một tình yêu sau này sẽ hồi sinh và sẽ gìn giữ những giá trị quý giá đó. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Những bức thư viết tay thấm đẫm yêu thương ấy được đặt vào câu chuyện như một điểm nhấn tạo nên những giá trị nhân văn cho câu chuyện cảm động trên. Nội dung cuốn tiểu thuyết được mô tả trong một khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng của vùng thung lũng Shenandoah, bang Virginia khi nhà văn Jason đang tìm cảm xúc để viết tiểu thuyết Những Lá thư ngày Thứ Tư.  *** Nhận xét “Jason là một tài năng thiên phú trong việc sáng tác ra những tiểu thuyết hấp dẫn. Dĩ nhiên tôi sẽ viết thư cho người vợ 44 tuổi của tôi vào mỗi ngày Thứ Tư” ––Kieth Merrill, đạo diễn điện ảnh đạt giải OSCAR “Một câu chuyện đáng yêu: đầy tính khích lệ, trong sáng, khôi hài, lôi cuốn cùng một kết thúc có hậu làm thỏa mãn độc giả.” ––Nhà xuất bản Weekly “Đó là một câu chuyện tình yêu lãng mạn với những giá trị tuyệt vời. Qua câu chuyện của họ, chúng ta sẽ thấy phép màu vẫn tồn tại!” –– Glenn Beck, phát thanh viên của chuyên mục trò truyện trên radio và đài CNN *** Lời cảm ơn   Xin được gửi lời cảm ơn đến những người luôn toàn tâm vì công việc: Kodi, Beverly, Sandi Lou, Sterling, Ann, Jeff, Terilynne, John, Adrienne, Lauren, Jon, Wilma, Stephanie, Amanda, Marshall, Katy, Emma, Ethan và Bailey. Cũng xin cảm ơn Monica, Kerri, Caren, Kalley, Nancy, Taylor, Ramona, Jeanette, Laurel, Matt, Christa, Laura, Janeal, Randa, Nicole, Cammy, Amanda, Cindy và Kathi. Thêm một lời cảm ơn đặc biệt đến Allyson Condie vì đã kiên nhẫn xem những trang bản thảo chưa hoàn chỉnh của tôi. Xin được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hết lòng của các anh chị em tại Nhà xuất bản Shadow Mountain, điển hình là Chris Schoebinger vì đã có một tầm nhìn chiến lược; Lisa Mangum vì phần biên tập tinh tế; Sheryl Dickert Smith vì kiểu thiết kế trang bìa đầy sáng tạo; Gail Halladay vì một khả năng tiếp thị đáng kinh ngạc; Tonya Facemyer vì tài năng đánh máy lão luyện; Angie Godfrey vì đã giữ cho tâm trí tôi luôn gắn bó với công việc và cuối cùng là Sheri Dew vì đã chấp nhận rủi ro đề xuất việc xuất bản. Cảm ơn người quản lý của tôi, Laurie Liss, vì những điều cô đã chia sẻ và tình bạn đáng quý mà cô dành cho tôi. Xin được dành lòng biết ơn vô hạn đến gia đình Schwartz và Faulkner vì đã cho tôi mượn nhà trong những ngày cuối tuần khi tôi cần sự yên tĩnh để sáng tác. Cảm ơn những con người tuyệt vời của Woodstock, bang Virginia, vì đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong công tác nghiên cứu và vì đã nồng nhiệt chào đón gia đình tôi gia nhập vào cộng đồng của họ. Xin gửi lời cảm ơn đầy yêu thương đến những đứa con của cha là Oakli, Jadi, Kason và Koleson vì đã chịu hy sinh “những ngày vui vẻ của cha và con” khi cha đang vật lộn để hoàn thành quyển tiểu thuyết này. Hẹn gặp các con ở Công viên W.O. Riley. Cảm ơn người vợ yêu dấu và tận tụy của anh, Kodi, vì đã luôn ở bên anh, kiên nhẫn đọc những bản thảo chưa hoàn chỉnh của anh, thay anh nhận phần lớn trách nhiệm nuôi dạy con cái, và vì hình ảnh em luôn nhắc nhớ trong anh để xây dựng nên nhân vật Laurel Cooper một cách chân thực nhất. Mời các bạn đón đọc Những Lá Thư Ngày Thứ Tư của tác giả Jason F. Wright.
Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola
Có bao giờ bạn cảm thấy chán nản, mệt mỏi vì mất cân bằng giữa công việc và niềm hạnh phúc riêng cho bản thân? Có bao giờ bạn tự hỏi mỗi giờ hằng ngày mình dành ra thực sự mang lại giá trị hay ý nghĩa nào cho cuộc sống? Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã định nghĩa lại thế nào là một cuộc sống tuyệt vời mà bất cứ ai trong chúng ta cũng khao khát và tìm cách đạt được nó. Đó là cuộc sống cân bằng, mãn nguyện về sức khỏe (fitness), tài chính (finance), gia đình (family), công việc (field), đức tin (faith), bạn bè (friends) và niềm vui (fun). Không phải là những lời khuyên sáo rỗng, “Oola Tìm bình yên giữa vạn biến” chứa đựng những mẩu truyện nhỏ khiến bạn có thể ngạc nhiên “à ra thế” và cùng một loạt những lời khuyên thực tế mà bạn có thể chuyển hóa ngay thành hành động hoặc thói quen. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học được ba bước đơn giản để cân bằng và phát triển cuộc sống, khám khá những gì ngăn cản bạn đến “cuộc sống trong mơ” và cách đến được đó nhanh hơn cũng như tại sao, dù bạn thành công hay thất bại bạn luôn xứng đáng với một cuộc sống tốt hơn… và rất nhiều điều thú vị, hữu ích khác. Cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã nhận được một loạt khen ngợi từ các giả giả hàng đầu, vận động viên chuyên nghiệp, những nhà lãnh đạo uy tín. 100,000 bản in lần đầu của cuốn sách “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” đã được hai tác giả Troy Amdahl và Dave Braun tự xuất bản và bán hết mà không cần đến bất kỳ NXB nào; 25,000 bản in tái bản cũng được bán hết trong vòng 1 tháng ngay sau đó. Nếu bạn muốn có được một cuộc sống hạnh phúc, ý nghĩa và vẫn đạt được những thành công trong sự nghiệp, “Oola – Tìm bình yên giữa vạn biến” là lựa chọn không thể bỏ qua. *** [Review Sách] "Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến": Hành Trình Đi Tìm Hạnh Phúc Dù bạn là tỷ phú trong lâu đài lộng lẫy hay một người bình phàm với trời đất tự nhiên thì phải chăng, mục đích cuối cùng của chúng ta trên cõi đời này chỉ là tìm kiếm một cuộc đời bình yên và hạnh phúc? Chúng ta luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, để khi nhắm mắt yên nghỉ có thể mãn nguyện với mấy chục năm sống không uổng phí. Tuy nhiên, hạnh phúc là gì, khổ đau là gì chúng ta không thể phân biệt rạch ròi. Bình yên vì thế cũng lạc lối giữa những hình sắc trần ai mà ta không thể nắm giữ. Mỗi chúng ta sẽ có những cách khác nhau, những ngọn hải đăng riêng biệt để soi tỏ mây mù tìm đường đến ánh sáng của an vui. Và tôi tin cuộc sống Oola chính là thứ bạn đang kiếm tìm, phương pháp Oola chính là một ngọn hải đăng dành cho những ai vẫn còn mơ hồ. Cuốn sách “Tìm bình yên giữa vạn biến” sẽ giúp bạn nắm rõ trong lòng bàn tay mọi thứ về Oola. Ai cũng muốn tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, và Oola chính là phương pháp. Oola là một nguồn cảm hứng đầy thú vị! -Mark Victor Hansen, đồng tác giả của loạt sách Chicken Soup for the Soul Bằng những câu chuyện hấp dẫn và trải nghiệm cá nhân của mình, hai tác giả Dave Braun và Troy Amdahl sẽ hướng dẫn bạn cách đạt được cuộc sống mà bạn hằng mong muốn – cuộc sống Oola của riêng bạn. Tất nhiên đây không phải một cuốn sách kĩ năng với những lời chỉ dẫn vô cảm mà thực sự khá lôi cuốn khi có nhận định cho rằng: Quyển sách này có giá trị giải trí đến 70%, giá trị giáo dục 30%, và giá trị làm thay đổi cuộc sống là 100%. Nếu bạn muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống Oola, hãy đọc quyển sách này. -Brant Boyer, cầu thủ kiêm huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp Điều tôi thấy khá thú vị ở cuốn sách này chính là việc tác giả đề cao vị thế của người đọc khi lấy họ làm trung tâm và có sự tương tác. Hai tác giả đã đề cao giấc mơ của mỗi người, biến mình thành người bạn đồng hành trên mỗi chặng đường. Chúng tôi rất biết ơn khi được đồng hành cùng bạn trong chuyến phiêu lưu này. Bạn giỏi giang hơn bạn nghĩ, và phía trước là những ước mơ đang đợi bạn biến thành hiện thực. Bất kể ước mơ của bạn là gì, chúng tôi rất vinh dự được mang ước mơ đó theo cùng trên chiếc xe buýt của chúng tôi. Bây giờ hãy lật sang trang và bắt đầu hành trình Oola! Cuốn sách gồm 5 phần chính với những đề mục rõ ràng giúp người đọc dễ hiểu nhất về hành trình đang đi. Phần 1. Giới thiệu về Oola. Chắc chắn bạn sẽ thắc mắc rất nhiều về từ “Oola” vì nó hoàn toàn lạ tai. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng liên tưởng nó giống một từ cảm thán đầy thích thú giống “Bingo” chẳng hạn. Tuy nhiên, đây là một cụm từ có rất nhiều ý nghĩa. o’la /danh từ, tính từ/ 1 a: bắt nguồn từ cách diễn đạt oh-la-la! trong tiếng Pháp b: một trạng thái tuyệt vời c: một cuộc sống cân bằng và phát triển ở các mặt then chốt như sức khỏe, tài chính, sự nghiệp, các mối quan hệ và hạnh phúc về tinh thần cũng như thể chất d: một đích đến (ví dụ, tìm đến Oola) 2 a: mô tả những hành động, hiểu biết và mục tiêu dẫn đến cuộc sống cân bằng (ví dụ: Điều đó thật Oola) 3 a: kế hoạch nền tảng để đạt được sự cân bằng trong một thế giới chông chênh. Định nghĩa của Oola có vẻ khá dài nhưng nếu để ý, chúng ta thấy trọng tâm dồn lại vào “sự cân bằng”. Không thừa không thiếu, vuông vắn trọn vẹn mới chính là cuộc sống Oola, chính là hạnh phúc. Nhiều người trong số chúng ta đã nghĩ rằng một cuộc sống xa hoa vương giả mới thực sự là chân ái. Tuy nhiên, hạnh phúc đôi khi thực giản đơn nằm trong sự “muốn ít biết đủ” trong thâm tâm mỗi người. Lẽ tất nhiên, khi cuộc sống thiếu thốn quá mức về vật chất thì tâm hồn cũng khó được thanh thản. Tựu chung lại, chúng ta nhất định phải tìm được sự cân bằng trong thế giới hỗn loạn. Tôi hình dung ra cảnh tượng những viên đá xếp chồng lên nhau một cách an nhiên giữa nước chảy gió thổi khi nhắc về Oola. Phải chăng cuộc sống của chúng ta chính là học nghệ thuật xếp đá? Tài chính, sức khỏe, tình yêu là những viên đá nhỏ to khác nhau, và công việc của chúng ta là sắp xếp cho chúng cân bằng giữa những chông chênh cuộc đời. Bởi vậy mới nói, sống cũng chính là một loại nghệ thuật. Với cuộc sống Oola, có lẽ sống là nghệ thuật của sự cân bằng. Khi bắt đầu đọc cuốn sách, tôi đã tò mò xem chừng ý tưởng thú vị này đến từ đâu. Thật kì lạ vì nó không phải từ những nhà tâm lí học, những nhà nhân học hay bất cứ ngành nghề nào có nhiệm vụ nghiên cứu về cuộc sống con người cả. Dave Braun và Troy Amdahl là hai gã trai trẻ với sứ mệnh và đam mê của riêng họ. Đâu đó trên bìa quyển sách này, bạn sẽ thấy chiếc xe buýt Volkswagen đời 1970 của chúng tôi. Có thể bạn sẽ nghĩ, “Ừ, hay đấy, nhưng sao lại là xe buýt, và hình vẽ trên xe có ý nghĩa gì?”. Mặc dù trông như vết sơn văng tung tóe, nhưng bạn hãy nhìn những hình vẽ đó kỹ hơn. Đó chính là những tấm nhãn dán viết tay đại diện cho những ước mơ và cảm hứng cá nhân của hàng chục nghìn người chúng tôi đã gặp khi du lịch khắp nước Mỹ. Mục tiêu của chúng tôi là thay đổi thế giới bằng một từ (Oola), qua từng chiếc nhãn dán. Họ đã nỗ lực thay đổi thế giới tốt đẹp hơn, giúp con người bớt căng thẳng hơn và giải phóng những tiềm năng cũng như ước mơ nguyên sơ nhất của họ. Cuốn sách này đã ghi lại dấu mốc của hành trình cải tạo thế giới, san sẻ hạnh phúc tới hàng triệu người. Phần 2. 7 chữ F của Oola. Mỗi chữ F sẽ đại diện cho một lĩnh vực then chốt trong cuộc sống: Fitness (sức khỏe), Finance (tài chính), Family (gia đình), Field (sự nghiệp), Faith (niềm tin), Friends (bạn bè) và Fun (niềm vui). Mỗi chương đều bắt đầu với một câu danh ngôn truyền cảm hứng và những khái niệm cơ bản nhất. Tác giả chỉ đơn giản như đang kể chuyện và kiếm tìm những dẫn chứng trong cuộc sống thường nhật để chỉ ra cuộc sống Oola là như thế nào. Ví dụ với hai từ “sức khỏe”: Ngày nay, từ này có vẻ được dùng theo hai cách. Định nghĩa thứ nhất xoay quanh việc sức khỏe có ảnh hưởng như thế nào đến mọi việc bạn làm. Định nghĩa này tập trung vào cảm giác tốt đẹp, dáng vẻ ưa nhìn, khỏe mạnh và hiệu suất làm việc cao. Nó cũng hướng vào cách bạn vận động và những gì bạn đưa vào cơ thể. Đây là vóc dáng vừa đẹp để mặc chiếc quần jean bó sát, tôi cảm thấy mình gợi cảm… Đây chính là Sức khỏe Oola! Tiếp sau định nghĩa là phần “Người tìm Oola” nói về duyên cớ khiến tác giả tìm đến lĩnh vực này và “Người thầy Oola” chỉ việc tác giả tìm được phương pháp tháo bỏ mọi khúc mắc. Cuối cùng là những bí quyết tác giả tập hợp lại cho bạn đọc. Điều đặc biệt là những câu chuyện truyền cảm hứng có thật của họ, những câu chuyện mà tác giả gặp trong cuộc sống, trong hành trình của chuyến xe buýt Volkswagen đời 1970 huyền thoại. Không giống với những lý thuyết khó hiểu, hành trình Oola hoàn toàn được xây dựng bởi trải nghiệm và câu chuyện của chính bản thân tác giả. Dường như điều đó đã làm cuốn sách trở nên có sức sống. Phần 3. Chướng ngại Oola. Qua những gì chúng ta đã thấy và cảm nhận thì trên cuộc đời này không có con đường nào trải đầy hoa hồng cả. Với con đường đến cuộc sống Oola cũng vậy. Những chướng ngại vẫn luôn tiềm ẩn: nỗi sợ, cảm giác tội lỗi, cơn giận tự hủy hoại bản thân, sự lười biếng, lòng đố kỵ, sự tập trung. Bạn có thể nhận thấy rằng những chướng ngại của cuộc sống Oola không đến từ thế giới ngoại cảnh mà bên trong chính con người chúng ta. Như bạn đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sự tranh đấu của thiện và ác, trắng và đen. Những vật cản của cuộc sống đôi khi không đáng sợ bằng cuộc chiến chính tà trong con người. Cuốn sách sẽ phân tách phần này một cách rõ ràng để người đọc có thể thẳng thắn đối diện với chướng ngại của tâm hồn. Cơn giận có thể là một “ổ gà” trên đường, hoặc nó có thể là một vật cản. Hãy cẩn thận đừng để hệ lụy của cơn giận mà bạn đeo mang trở thành bức tường bê tông ngăn bạn đến với Cuộc sống Oola của mình. Tôi nghĩ rằng một khi chúng ta có thể thấu hiểu bản thân, đương nhiên bao gồm cả những phần xấu xa lẫn tốt đẹp thì dễ dàng có được thành công hơn. Người tài giỏi trước khi hiểu biết về thế giới thì chắc chắn phải hiểu được mình. Phần 4. Chất xúc tác Oola. Chất xúc tác chính là động lực giúp bạn đi nhanh hơn trên con đường Oola. Nó đối lập với chướng ngại Oola, là những phần tốt đẹp chúng ta cần phát huy: lòng biết ơn, tình yêu thương, kỷ luật, sự chính trực, sự khiêm nhường và sự khôn ngoan. Chúng ta có thể lấy ví dụ khi tác giả nói về lòng yêu thương. Con người chúng ta rất thích nói về tình yêu. Trên thực tế, tình yêu đã trở thành tiêu đề của hàng trăm ca khúc được yêu thích nhất. Tình yêu cũng là yếu tố then chốt trong số tất cả các Chất xúc tác Oola. Chúng ta thích nói, viết và hát về tình yêu vì nó quá mạnh mẽ. Việc cho đi và nhận lại tình yêu, sẽ mang đến đam mê, và đam mê chính là nhiên liệu thích hợp nhất cho chuyến xe buýt đến với Oola. Như vậy, chất xúc tác Oola còn là nhân tố có thể đẩy lùi những chướng ngại. Khi yêu thương đủ lớn, những sợ hãi có thể biến mất. Chúng ta không cách nào diệt hết cỏ dại chỉ bằng nhổ cỏ mà không trồng thay vào đó một thứ khác như những cây hoa chẳng hạn. Con người cũng vậy, khi nuôi dưỡng những điều thiện lương thì ắt những điều tăm tối sẽ bị đẩy lùi. Phần 5. Ba bước đến với cuộc sống Oola. Bước đầu tiên được tác giả đặt tên là Bánh xe Oola. Thực chất đây chỉ là một hình ảnh biểu tượng được chia nhỏ hơn thành các phần là trục bánh xe, căm xe và van bánh xe. Ví dụ như phần trục bánh xe là một phần trọng yếu đại diện cho cuộc sống của mỗi người, là mỏ neo của chúng ta. Cuối phần này tác giả có những bài tập cụ thể để chúng ta có thể xác định được vị trí của bản thân. Phần thứ hai mang tên Kế hoạch Oola. Giống như bất kỳ con đường nào khác, sau khi có mục tiêu thì cần một bản kế hoạch cụ thể để thực hiện nó. Nếu phần một để định vị bạn đang ở đâu thì phần hai chính là xác định rõ nơi bạn muốn đến. Mục tiêu là những cột mốc, những bước nhỏ mà bạn cần thực hiện trên con đường đạt được ước mơ. Mục tiêu là những bước hành động, được lên kế hoạch rồi đạt được. Chúng là những bước nhỏ mà bạn phải đi theo, ngày này qua ngày khác, để đến với cuộc sống ước mơ của mình. Và bước cuối cùng được tác giả gọi là Con đường Oola. Nếu như chỉ có kế hoạch mà không hành động thì ước mơ của bạn cũng chỉ nằm mãi trên những trang giấy mà không bao giờ trở thành hiện thực. Một danh sách việc cần làm đơn giản cho phép bạn được quyết định một ngày của mình diễn ra như thế nào, thay vì để mọi việc xảy đến một cách thiếu chủ động. Những bước đi có mục đích rõ ràng, dù là những bước rất nhỏ, cũng rất cần thiết đối với Cuộc sống Oola. Tờ giấy viết thư hay một trang web dễ thương đối với tôi không quan trọng. Tất cả những gì tôi hy vọng đó là bạn hãy thực hiện bước đầu tiên trên Con đường Oola của mình. Khi khép lại cuốn sách thì cũng chính là lúc hành trình Oola của bạn được mở ra. Tôi không nghĩ tác giả muốn chúng ta đọc cuốn sách này chỉ để giải trí bâng quơ. Họ khát khao ở người đọc sự thay đổi, mong muốn được chuyển biến những điều tốt đẹp đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Bởi vì điều đó thực sự là đam mê, là mục tiêu của họ. Hy vọng cuốn sách ít nhiều giúp được mỗi người đến gần hơn với hạnh phúc và an vui của cuộc đời. Review chi tiết bởi: Mai Trang – Bookademy Mời các bạn đón đọc Tìm Bình Yên Giữa Vạn Biến: Oola của tác giả Troy Amdahl & Dave Braun.