Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Sơn Bi Hùng Truyện

Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn là sự kiện đưa đến nhiều dị biệt nhất về mặt quan điểm hay nhận thức. Nổi bật nhất là quan điểm đưa ra cách nay hơn nửa thế kỷ, coi phong trào Tây Sơn như cuộc nổi dậy của giới nông dân bị áp bức, bóc lột, chống lại nhà Nguyễn thối nát và mang lại công bằng xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân. Sự lý tưởng hóa hầu như mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn đã dẫn đến một số nhận định chủ quan về thực chất của phong trào này và cũng từ đó, nhiều sự thật lịch sử liên quan đến phong trào chưa được làm sáng tỏ *** Phàm là một người ham mê lịch sử và văn chương, cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra được. Rất giống cảm giác thuở học trò đọc Tam quốc diễn nghĩa hay Thủy hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trước lúc đi ngủ. Sẽ rất nhiều người mải theo cách dẫn dắt của tác giả mà quên khuấy cả giấc ngủ trưa, thậm chí cho qua cả một đêm trắng. Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh mô phỏng cách viết chương hồi của La Quán Trung, Thi Nại Am và những tiểu thuyết gia Trung Quốc xưa, một cách kể chuyện như lùa người đọc vào hết mê hồn trận này đến những bí sử kia, mang đến cho người đọc cái không gian, thời gian, những sự kiện lịch sử, những chân dung tiêu biểu… làm nên gương mặt xã hội Việt Nam đầy biến động và bi thương, hiển hách và bi tráng suốt nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Lê Đình Danh viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ với một bối cảnh rộng lớn hơn, đặt các nhân vật của Tây Sơn trong mối quan hệ trực diện, đối nghịch, một mất một còn với chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh. Tây Sơn bi hùng truyện thu hút người đọc không chỉ ở tư liệu lịch sử phong phú, kiến văn dồi dào, mà còn ở bút pháp dựng truyện, xây dựng nhân vật khá thành công. Ngoài hai nhân vật Nguyễn Huệ, Nguyễn Phúc Ánh, hàng loạt các nhân vật thuộc các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn và cả các tướng Mãn Thanh đều được tác giả phác họa khi thì bằng một vài chi tiết đặc sắc, khi kỳ công dẫn dắt qua hàng loạt các sự kiện, mối quan hệ đan xen phức tạp, ví như các nhân vật Ngô Thì Nhậm, Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm, Võ Tánh, Bùi Đắc Tuyên, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, Vũ Tâm Can v.v… Đọc sách, mà như được xem một cuốn phim lịch sử đầy bi thương hùng tráng, được xúc động, yêu thương với người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ. Nhà văn Hoàng Minh Tường *** Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Nước Nam, người Lạc Việt, từ khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, mười năm kháng chiến đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ lập nên nhà Hậu Lê đặt tên nước là Đại Việt (năm Mậu Thân - 1428). Vua Thái Tổ truyền đến đời con cháu là Thái Tông, Thánh Tông đều là những bậc anh quân vì dân vì nước. Từ ấy bốn phương thiên hạ thái bình, muôn dân no ấm. Lúc bấy giờ người dân trong nước truyền tụng câu ca rằng: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa thóc đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Nhà Hậu Lê truyền ngôi được trăm năm, đến đời vua Chiêu Tông thì Mạc Đăng Dung soán ngôi vua lập nên nhà Mạc vào năm Đinh Hợi (1527). Lúc bấy giờ có quan Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim cùng rể là Trịnh Kiểm tìm dòng dõi vua Lê Thái Tổ lập lên làm vua rồi đem quân chiếm đất Nghệ An đánh nhau với nhà Mạc. Sau Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm. Kiểm sợ con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng tranh quyền với mình, bèn giết chết Nguyễn Uông. Trịnh Kiểm lại có ý xưng làm vua, nhưng thấy lòng người còn thương mến nhà Lê nên sai sứ vào Hải Dương hỏi ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình bảo: - Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Rồi Trạng sai đầy tớ quét dọn chùa rồi đốt hương khấn rằng: Giữ chùa thờ phật thì ăn oản. Kiểm hiểu ý vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình nắm giữ hết quyền hành. Nguyễn Hoàng thấy Trịnh Kiểm giết anh mình là Nguyễn Uông sợ vạ lây đến thân, bèn lén vào hỏi ý Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng chỉ tay vào Nam nói: - Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân (một dãy Hoành Sơn dung thân ngàn đời). Hoàng lấy tình thâm ruột thịt nói với chị mình là vợ Trịnh Kiểm tên là Ngọc Bảo, xin với Kiểm cho Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (Bình Trị Thiên ngày nay). Ấy là vào năm Mậu Ngọ (1558). Sau Trịnh Kiểm chết, con là Trịnh Tùng lên thay quyền. Tùng đem quân đánh dứt được nhà Mạc. Tùng vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình tự xưng là chúa Trịnh. Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa thấy Trịnh Tùng xưng chúa ở Thăng Long, bèn tự xưng là chúa Nguyễn. Về sau Hoàng chết, con là Nguyễn Phúc Nguyên sai Đào Duy Từ đắp lũy Trường Dục ở Châu Bố Chánh (Quảng Bình ngày nay) chống nhau với quân Trịnh. Hai bên bắt đầu đánh nhau vào năm Đinh Mão 1627. Từ ấy về sau đất nước chia hai, lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Từ sông Linh Giang trở ra tục gọi là Đàng Ngoài. Từ sông Linh Giang trở vào tục gọi là Đàng Trong. Hai Đàng đánh nhau ngót một trăm năm, tạo ra cảnh binh đao khói lửa, huynh đệ tương tàn, nhân dân ta thán! Ở Đàng Ngoài, Trịnh Tùng mượn tiếng tôn phò vua Lê nắm hết quyền hành. Thủa ấy trong nhân gian thường truyền miệng nhau câu sấm rằng: Chẳng Đế chẳng Bá, quyền nghiêng thiên hạ, Đến đời thứ tám, trong nhà dấy vạ. Họ Trịnh cha truyền con nối làm chúa ở Đàng Ngoài đến đời thứ tám là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Lúc ấy vua nhà Lê là Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng có một người con lớn là Thái tử Lê Duy Vỹ. Duy Vỹ tư chất thông minh diện mạo khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn. Thường ngày Duy Vỹ đi ngao du sơn thủy kết giao với hào kiệt khắp vùng, ai ai cũng thương tài mến đức. Một ngày kia, trong cung điện, vua Hiển Tông đánh cờ uống rượu cùng các quan thái giám, Duy Vỹ vào trông thấy quỳ tâu: - Thưa Phụ hoàng, từ ngày nhà Lê ta trung hưng đến nay trải mười đời vua. Họ Trịnh tiếng là tôn phò nhưng thực chất là áp chế nhà Lê ta. Họ Trịnh muốn cho ai làm vua thì cho, muốn giết ai thì giết. Như hai trăm năm trước Trịnh Tùng giết chết Anh Tông Hoàng Đế. Rồi ba mươi năm sau Trịnh Tùng lại giết chết Hoàng Đế. Mới bảy mươi năm trước đây Dụ Tông Hoàng Đế bị Trịnh Cương bắt phải thoái vị nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương. Thái tử Duy Phương làm vua được ba năm lại bị Trịnh Giang vu là thông dâm với vợ Trịnh Cương mà đem giết đi. Rồi đến lúc Phụ hoàng lên ngôi là do chính Trịnh Doanh đã buộc vua Ý Tông thoái vị nhường ngôi cho Phụ hoàng đó. Xét trong lịch sử từ trước đến nay chưa có quyền thần nào lại lộng hành tàn ác, khi quân phạm thượng như họ nhà chúa Trịnh. Vả lại xưa nay chỉ có nhà vua mới được quyền cha truyền con nối, chưa nghe nói đại thần mất thì con được lên thế chức bao giờ. Nay họ Trịnh xưng vương, cha mất thì con lên kế vị, ấy chẳng qua là vì không dám phế bỏ nhà Lê ta để làm vua mà thôi. Nay Phụ hoàng lên ngôi đã ba mươi hai năm mà mọi việc trong triều ngoài cõi Trịnh Doanh rồi đến Trịnh Sâm có cần bẩm báo gì với Phụ hoàng chăng? Sao Phụ hoàng cứ mải vui say với cầm kỳ thi hoạ mà không nghĩ đến việc lấy lại quyền hành của nhà Lê ta? Con vì giận họ Trịnh mà có đôi lời mạo phạm đến Phụ hoàng, xin Phụ hoàng thứ tội. Duy Vỹ trong lòng uất hận họ Trịnh nói luôn một hơi. Vua Hiển Tông nghe Vỹ nói xong liền quăng cờ, đuổi các thái giám ra ngoài rồi hốt hoảng nói: - Bọn nội thị này tiếng là hầu hạ cho ta, nhưng đều là tay chân của Trịnh Sâm cả. Sao con lại buông lời càn rỡ? Nếu đến tai Trịnh Sâm mạng ắt chẳng còn! Duy Vỹ nghe cha nói thế lại càng giận lắm, đứng dậy nói lớn: - Sao Phụ hoàng lại sợ thằng nghịch tặc ấy đến thế? Nếu Phụ hoàng giữ mình để mưu việc lớn thì con thật là khâm phục. Còn Phụ hoàng vì sợ như bề tôi sợ vua mà im hơi lặng tiếng thì con thật lấy làm đau lòng lắm! Mời các bạn đón đọc Tây Sơn Bi Hùng Truyện của tác giả Lê Đình Danh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Kíp Quá Giang Vào Ngân Hà
Chuyện kể rằng, sau những cuốc xe quá giang từ Anh quốc tới tận Thổ Nhĩ Kỳ, tác giả của chúng ta, anh chàng Douglas Adams rỗng túi say khướt nằm dưới trời đêm mộng tưởng về một ngày đi nhờ tàu vũ trụ lang thang giữa các vì tinh tú. Và thế là Bí kíp quá giang vào Ngân Hà ra đời: là tất cả những điều cần biết nếu bạn nghèo kiết xác mà lại khao khát chiêm ngưỡng các kỳ quan của Vũ Trụ, chỉ với chưa đầy ba mươi đô la Ngưu Lang một ngày. Với Bí kíp trong tay, một nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc bên cạnh, và một Trái Đất nổ tung sau lưng, Arthur đột nhiên trở thành kẻ lữ hành lạc trôi trong Vũ Trụ. Không, câu chuyện sẽ không mộng mơ hay nghiêm túc như bạn tưởng, mà quay cuồng giữa những trò khôi hài, ngẫu hứng, điên rồ. Một truyện khoa học viễn tưởng cực kỳ hài hước, bạn có tin không? “Một cổ tích hiện đại, một ngụ ngôn, một hài kịch bậc thầy.” - Television Today *** Tiểu thuyết gia Douglas Adams sinh ngày 11-3-1952 tại Thành phố Cambridge, nước Anh. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) rồng (Nhâm Thìn 1952). Douglas Adams xếp hạng nổi tiếng thứ 20450 trên thế giới và thứ 103 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số trên thế giới năm 1952 vào khoảng 2.635 tỷ người. Tác giả tiếng Anh của bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng, của Hitchhiker Guide to the Galaxy, mà nguồn gốc là một bộ phim hài đài phát thanh BBC. tác phẩm khác của ông gồm The Long tối Tea-Time of the Soul (1988), và Ý nghĩa của Liff (1983).  Ông là một người vô thần tự xưng. Ông đã tham dự The Brentwood School, một học viện chuẩn bị có uy tín, và tiếp tục theo học tiếng Anh tại trường Cao đẳng St John, Cambridge. Sau khi tốt nghiệp, ông chuyển đến London để theo đuổi một nghề nghiệp trong truyền hình và đài phát thanh bằng văn bản. Cuộc sống gia đình Douglas Adams Ông và em gái của mình, Susan, là con cái của Christopher và Janet Adams. Ông kết hôn với Jane Belson vào năm 1991, và cặp đôi này chào đón cô con gái của họ, Polly, vào năm 1994, ít hơn so với một thập kỷ trước khi chết không đúng lúc của Adams từ một cơn đau tim. *** Ngôi nhà đứng trên một sườn đồi chếch ngoài rìa làng. Nó đứng đó trơ trọi trông ra trảng rộng đất nông trang khu vực Tây Nam nước Anh. Xét trên phương diện nào cũng đều chẳng phải một ngôi nhà đáng chú ý - chừng ba mươi năm tuổi, lùn bè, vuông chạnh, xây gạch, có bốn cửa sổ chình ình đằng trước ở kích thước lẫn tỷ lệ hầu như chính xác sao cho thật khó coi. Con người duy nhất thấy ngôi nhà ấy có chút nào đặc biệt chính là Arthur Dent, mà ấy chỉ bởi vì đó tình cờ là ngôi nhà anh đang sống. Anh sống trong ngôi nhà ấy được chừng ba năm, kể từ cái hồi anh chuyển đi khỏi London bởi thành phố ấy khiến anh lo âu và cáu bẳn. Bản thân anh cũng khoảng ba mươi, cao, tóc đen và chẳng bao giờ tự thấy thoải mái. Thứ từng khiến anh lo lắng nhất là mọi người luôn miệng hỏi anh trông có vẻ lo lắng thế vì nỗi gì. Anh làm ở đài phát thanh địa phương, anh từng hay bảo các bạn là chỗ đó thú vị hơn họ chắc là tưởng nhiều. Cũng có đúng vậy - phần lớn các bạn anh làm việc bên quảng cáo. Đêm hôm thứ Tư trời mưa rất nặng hạt, đường làng ướt nhép sình lầy, nhưng sáng thứ Năm mặt trời sáng trong veo lúc soi rọi ngôi nhà của Arthur đâu như sẽ là lần cuối. Chuyện hội đồng muốn đánh sập nhà anh và xây thế vào đó một đường vòng thì Arthur vẫn còn lơ mơ. ... Mời các bạn đón đọc Bí Kíp Quá Giang Vào Ngân Hà của tác giả Douglas Adams.
Sài Gòn Năm Xưa - Vương Hồng Sển
Dựa vào cuốn Ký ức lục khảo về lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận của học giả Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 (tức là sau 25 năm Sài Gòn bị thực dân Pháp chiếm đóng), Vương Hồng Sển đã... kể tiếp, nhắc lại những sự biến đổi từ thuở đó cho đến ngày Sài Gòn trở về với dân Việt.... Ở đây, tác giả chú trọng nhiều nhất là những đoạn sử vụn vặt buổi giao thời: Pháp - Nam - Chà - Chệc chung đụng, những chuyện Tây đến, Tây đi, những việc chưa ai nói rõ ràng, tác giả đã được nghe đến tận tai hoặc thấy tận mắt, nhiều đoạn do hiểu biết riêng, lắm đoạn nhờ các cố lão thuật lại.  Đọc Sài Gòn năm xưa giúp chúng ta hiểu biết thêm về lịch sử sự hình thành và phát triển của Hòn ngọc viễn đông mà ngày nay được mang tên - Thành phố Hồ Chí Minh   *** Vương Hồng Sển (1902-1996), bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Khi chết ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ của mình cho Nhà nước Việt Nam (tổng cộng 849 cổ vật khác nhau) với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông. Năm 2003, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố ngôi nhà này (địa chỉ: số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, Quận Bình Thạnh). Khi qua đời, ông Vương Hồng Sển đã hiến tặng lại những cổ vật, mà cả đời ông sưu tập được, cho thành phố và mong muốn những di vật này sẽ được trưng bày trong ngôi nhà cổ của ông, trong sự bài trí rất tinh tế và hài hòa với sự cổ xưa của ngôi nhà được biến thành "Nhà lưu niệm Vương Hồng Sển" [6]. Tuy nhiên, từ năm 1996, Sở Văn hóa Thông tin TP Hồ Chí Minh, với sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân Thành phố đã di dời các cổ vật về quản lý và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố, và tại Thư viện Khoa học tổng hợp. **** Bởi thấy tôi là người trong Nam, đầu pha hai thứ tóc, làm việc trong một cơ quan chuyên môn, thêm có tánh ham chơi cổ ngoạn, tom góp giấy má cũ đầy nhà, rồi tiếng đồn truyền ra: tôi sành sỏi chuyện xưa, tôi giỏi kê cứu điển cổ, báo hại phần đông văn hữu Bắc và Trung, ông nào quen một đôi lần, gặp nhau, hết năm ba câu lấy lệ, làm gì cũng hỏi vặn tôi về:   Mời các bạn đón đọc Sài Gòn Năm Xưa của tác giả Vương Hồng Sển.
Đồng Quê - Phi Vân
Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều gì mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo, màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác phẩm của các nhà văn miền Nam *** Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành-văn cũng như nội-dung đều có tính-cách “nhật-trình”. Lối văn gần như cẩu-thả. Câu-chuyện có vẻ nhất-thời. Nhưng tôi cứ để nguyên cho nhà xuất-bản. Nghĩ rằng: hồi ấy tôi đã để ngòi bút chạy theo dòng ý-tưởng, dầu khéo dầu vụng, cách thuật chuyện cũng được cái đặc-điểm là ghi tâm-trạng tôi lúc viết. Hình-ảnh những nhân-vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung - ngày nay đã mờ trong ký-ức. Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: Vẽ một bức tranh phong-tục và tập-quán. Thật là quá cao-vọng. Tự thấy còn thấp-kém, nhưng tôi vẫn cố-gắng. Đây là những bài đầu, tôi ước-mong sẽ có thể viết thêm. Nếu chưa hiến được độc-giả những bài đúng theo nguyên-tắc tôi đã tự vạch, thì xin hẹn lại ở những bài sau. PHI-VÂN *** Phi Vân (1917-1977) là một nhà báo, nhà văn chuyên viết thể loại truyện vừa và tiểu thuyết mang sâu đậm dấu ấn Nam bộ trước 1954. Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn, sinh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Ông chuyên viết phóng sự, truyện ngắn cho những tờ báo, tạp chí ở miền Nam trước đây như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân (của cụ Huỳnh Thúc Kháng) và làm chủ bút tờ Thủ Đô thời báo. Ông có lối viết linh hoạt, gọn gàng, pha chút hóm hỉnh, làm cho cho độc giả khóc, cười theo từng cảnh đời, từng nhân vật. Bối cảnh trong các tác phẩm của ông là làng quê Nam bộ xa xôi hẻo lánh với những người nông dân chất phác, cục mịch sống với tập tục cổ hủ, lạc hậu và cuộc sống cực nhọc tối tăm. *** Chỗ hứng-thú của quyển phỏng-sự ấy là nó cho ta thấy những phong-tục cũ-kỹ ở thôn-quê, những tin-tưởng dị-đoan của hạng bình dân lao-động. Nó cho ta thấy những cuộc giao-tiếp, xung-đột giữa bọn điền-chủ và tá-điền, những tâm-hồn mộc-mạc trong bọn nầy và những oai-quyền thế-lực của bọn kia. Đọc qua, chúng ta thấy mình len-lỏi chốn đồng quê, đang mục-kích những cuộc tụ-họp chơi-bời, những cảnh cần-lao rộn-rịp. Thỉnh-thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám gặt, như phất lại mùi thơm thanh-đạm của lúa vàng. Tác-giả lại còn dắt ta đi quanh co trong những sông rạch ở vùng Bạc-liêu, Cà-mau và sau mấy ngày dạo chơi mệt-mỏi, tác-giả dừng lại cho ta thấy một cảnh-sắc êm-đềm: trên bờ sông Trẹm, lững-lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa xanh tươi, một thiếu-phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu-lâu đuổi bầy gà đang bới trên giồng rau cải. Hoặc giữa đêm trường vắng-vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo Rạch Bần, tác-giả mời ta trông lên bờ sau hàng dừa nước âm-u, một vài ánh đèn le-lói; nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm… Cho được kể lại rất tài tình những điều quan-sát rất kỹ-càng, làm cho ta như nghe, như thấy, lúc cảm, lúc vui, tất phải nhờ một ngọn bút tỉ-mỉ mà linh-hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu-duyên, một cách viết tự nhiên, không rườm-rà mà đầy đủ. Ông Phi-Vân đã gồm cả mấy điều kiện ấy: Quyển phỏng-sự của ông như một tấn tuồng gay-cấn đặt trong cảnh trí xanh tươi; hay là - muốn nói cho rõ hơn - nó là một “nông kịch” chia ra nhiều lớp: có hồi hộp, có vui cười và và sau rốt kết cuộc rất thương-tâm, khiến cho độc-giả phải ngậm-ngùi cảm động. Có lẽ đó là bài luân-lý sâu sắc mà tác-giả không muốn chỉ cho rõ-ràng, để ta tự hiểu ngầm mà thương hại cho hạng nông dân lao-lực. Họ chỉ sống một cuộc đời mộc-mạc, siêng-năng; nhưng mãn kiếp phải làm nạn nhân cho bọn giàu sang thế-lực. Mà cả thảy chúng ta, theo như tác-giả nói lại là “nạn nhân của một thời-kỳ”; cho nên đối với mọi người ta nên để lòng thương hại và thứ dung, và nên cầu nguyện cho chốn đồng quê được chút vui tươi yên ổn… (Trích lục một đoạn bài diễn-văn của giáo-sư Nguyễn-văn-Kiết chủ-tịch của Hội Khuyến-học Cần-thơ đọc trong dịp lễ phát giải thưởng văn-chương Thủ-khoa Nghĩa năm 1943).   Mời các bạn đón đọc Đồng Quê của tác giả Phi Vân.
Doña Bárbara - Rómulo Gallegos
Rómulo Gallegos, tác giả của Doña Bárbara, là nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng không những ở Venezuela – Tổ quốc ông – mà cả ở Trung và Nam Mỹ. Người đọc và nhà phê bình ở nhiều nước đều nhiệt liệt hoan nghênh tác phẩm của ông. Sinh năm 1884 và lớn lên trong một gia đình nghèo, Rómulo Gallegos, sau khi học xong trung học, phải đi làm “nghề gõ đầu trẻ” để kiếm sống. Với tư tưởng tiến bộ và nhiệt tình gắn bó với vận mệnh của đất nước, ông tham gia hoạt động chính trị rất sớm chống chế độ quân phiệt, độc tài Gómez đã bán rẻ quyền lợi kinh tế quốc gia cho tư bản nước ngoài và đàn áp tàn bạo nhân dân. Bắt đầu viết văn thật sự khi đã hơn ba mươi lăm tuổi, ông cho xuất bản tác phẩm đầu tay Reinaldo Solar (1920). Ngoài nhiều truyện ngắn, các tác phẩm khác gồm có Cây leo (1925), Doña Bárbara (1929), Canaima (1935), Cantaclaro (1934), Anh da đen khốn khổ (1937), Cũng trên mảnh đất ấy (1943), Cọng rơm trong gió (1952), Nổi loạn (1946). Đấu tranh không mệt mỏi cho tương lai tươi sáng của đất nước bằng cả hành động chính trị và tác phẩm văn học có tính chiến đấu sâu sắc, Rómulo Gallegos được bầu làm tổng thống Venezuela năm 1948, nhưng chẳng bao lâu ông bị các phe phái phản động lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Ông mất năm 1960. Đánh giá sáng tác văn học của Rómulo Gallegos, nhân dân nước ông và người đọc nước ngoài đặc biệt ca ngợi tính chiến đấu trong tiểu thuyết của ông nhằm cải tạo xã hội, giải phóng con người, chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt. Nổi bật hơn cả là Doña Bárbara được in lại rất nhiều lần ở Tây bán cầu, được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước thuộc các lục địa khác. Thảo nguyên bao la của Venezuela ngót sáu mươi năm trước đây, “Những dòng sông rộng không tưới cho đất trồng trọt, cũng không đưa đẩy thuyền bè ngược xuôi”, với những cuộc săn dồn bò hoang, săn cá sấu, bắt ba ba, tìm mật ong, đốt phá đồng cỏ trên phạm vi rộng cũng như những buổi liên hoan nhảy múa vào mùa chia đàn súc vật được miêu tả thật đặc sắc dưới ngòi bút của ông. Con người thảo nguyên cường tráng, chất phác, dũng cảm mà thiên nhiên hoang vu tạo nên và rèn luyện được dựng lên rất sắc sảo trong tác phẩm của ông. Tố cáo chế độ thống trị bất công, lên án bọn cầm quyền tàn bạo, vạch trần bọn ăn cướp Bắc Mỹ vừa trơ trẽn vừa nham hiểm trên đất Venezuela, tác giả tỏ ra là một nhà văn hiện thực sâu sắc, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Nhưng đấu tranh bằng con đường nào để đất nước ông “sẽ có ngày trù phú và vui tươi” thì Rómulo Gallegos không vạch ra được. Con mụ địa chủ ác bá Doña Bárbara, tham lam cực kỳ, lại tự nguyện từ bỏ trang trại mà nó tạo nên bằng mọi thủ đoạn và đam mê hơn cả tình yêu say đắm, rồi lưu lạc nơi đâu chẳng ai biết nữa. Thằng cướp đất, cướp súc vật Bắc Mỹ cũng tự nguyện rời bỏ cơ ngơi nó chiếm được và đi kiếm ăn nơi khác khi thấy láng giềng của nó giăng dây thép cương quyết bảo vệ đất đai và súc vật của mình. Đó là do ông bị hạn chế trong quan điểm đấu tranh giai cấp gay gắt trong thời đại ngày nay để giải phóng xã hội, cải tạo con người, là ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng – những hạn chế rất dễ hiểu vào những năm 1925-1930. Dù sao, với những ưu điểm nổi bật của nó, nhà nghiên cứu văn học Đức Ulrich Leo đã đánh giá Doña Bárbara “là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất, vừa khỏe khoắn vừa mềm mại, vừa rộng lớn vừa thâm thúy, vừa hùng tráng vừa trữ tình… có thể so sánh với bất kỳ tác phẩm văn học hiện đại nào.” NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP PHÚ KHÁNH ... Mời các bạn đón đọc Doña Bárbara của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.