Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi

Đây là quyển sách đầu tiên mà tôi đọc của Shin Kyung Sook, mặc dù lúc đó cô đã rất nổi tiếng tại Việt Nam qua quyển "Hãy chăm sóc mẹ". Nhưng điều khiến tôi chọn quyển sách này, trong vô số quyển sách có tại nhà sách Phương Nam gần ngôi chợ Đà Lạt lúc đó, không hề dính dáng gì đến sự nổi tiếng của Shin Kyung Sook. Tôi chọn sách này mang theo trong hành trình bất chợt của mình vì lời văn ở những trang đầu tiên quá đẹp, quá đỗi khiến người ta rung động đến độ không thể bỏ qua. Và càng đọc, tôi càng tự hỏi, vì sao quyển sách có thể sánh với Rừng Nauy thế này dường như lại ít được giới thiệu. Hay vì nó được giới thiệu ở đâu đó mà tôi không hề hay biết? Có thể là vậy chăng? Là quyển tiểu thuyết thứ 7 của Shin Kuyng Sook – "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" chọn một chủ đề tương tự như Rừng Na Uy của Haruki Murakami, chỉ khác bối cảnh của nó diễn ra ở Hàn Quốc, những năm 80. Và một lần nữa, người ta trông thấy nỗi buồn, sự hoang mang đan xen niềm tin yêu, khát vọng, ngây thơ của tuổi trẻ. Tất cả được thể hiện một cách vẹn toàn và rực rỡ qua giọng kể mang đậm tính hướng nội của nhân vật tôi trong truyện. Câu chuyện của "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" bắt đầu một cách nhẹ nhàng, như một viên sỏi nhỏ ném xuống mặt hồ phẳng lặng, một cú điện thoại từ nơi nào gọi đến cho nhân vật "tôi". Cú điện thoại bắt nguồn từ anh, một người tám năm không gặp, để báo cho cô biết người thầy mà họ từng thân thiết thời sinh viên giờ sắp qua đời. Cú điện thoại gợi lại cho nhân vật tôi những gì đã chìm sâu dưới mặt hồ. Rồi mỗi lúc kí ức mỗi về tràn về một cách chân thực. Để rồi người đọc đắm chìm trong những kỉ niệm sâu sắc của nhân vật tôi: “Vào lúc đó, ở nơi đó, nếu không gặp được họ, tôi làm cách nào trải qua những ngày tháng ấy đây?” Tôi, người kể nên câu chuyện của mình là một cô gái cô phần nào cô độc, mang trong mình nỗi day dứt vì không được sống cùng người mẹ đang bệnh nặng của mình. Cô đến thành phố, ở nhà chị họ, học một trường nghệ thuật, ở trong một căn phòng tự tay dán kín cửa sổ. Ở đó, cô gặp anh, con người chín chắn, ấm áp và trông thấy cô giữa trăm ngàn người, thấy vẻ đẹp bên trong ẩn sâu sự chật vật của cô. Ở ngôi trường nghệ thuật đó, cô gái nhỏ gặp người thầy gầy gò mà hiền từ, người đã đặt ra câu hỏi cho vô số sinh viên hay cho chính mình: trong thời đại này thì nghệ thuật có thể làm gì? Cũng tại nơi đó, trong thời thanh xuân cô gặp cô gái xinh đẹp ấy, cô gái luôn tự giấu đi đôi tay bị thiêu cháy. Và thanh xuân của cô, có một cậu bạn thầm thích cô, cậu bạn trong quân ngũ viết cho cô những bức thư đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Cuối cùng, sự ra đi của cậu không lời giải thích. Cùng nhau trải qua thanh xuân trong niềm dự cảm “sẽ không có ngày nào diễn ra hai lần”, trong những ngày xã hội hoang mang, đầy những cuộc biểu tình và biến động. Họ chỉ cùng nhau ăn cơm, đi bụi, lắng nghe nhau và kể chuyện, trong lúc lòng mỗi người đều âm ỉ sóng ngầm. Họ đã tìm thấy nhau. Rồi đánh mất nhau. Như bao câu chuyện đời thường khác. Mà sự tìm thấy và đánh mất đó mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Shin Kyung Sook đã chinh phục người đọc qua giọng văn như rút ruột của mình, tuy nhiên trong quyển tiểu thuyết này, khả năng viết và kiến tạo câu chuyện của cô đã vượt qua được lối “tự sự cá nhân”, phát triển thành một thế giới riêng hoàn chỉnh, trở thành một câu chuyện của chính nó, chứ không còn là một câu chuyện của tác giả. Sự đánh mất và tìm thấy của câu chuyện mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Như người ta cô độc để mạnh mẽ, đánh mất để tìm thấy, đó là những điều mà người ta phải dùng thanh xuân của mình để trải qua. Những trích đoạn hay trong tác phẩm: Thuộc tính của ký ức chính là chỉ nhớ thứ mình muốn nhớ. Hình ảnh mà ký ức gợi lại xen lẫn trong cuộc sống của chúng ta, bởi vậy đừng bao giờ tin ký ức của ta hay của ai đó là chuyện thực đã xảy ra. Nếu có người khăng khăng nhấn mạnh rằng Tôi đã nhìn thấy tận mắt, thì ta biết trong lời nói ấy trộn lẫn cả niềm hy vọng của chính người đó, và trái tim anh ta cất giấu mong muốn coi đó là sự thật. ... Tôi từng cho rằng việc hiểu rõ về nhau và cùng nắm giữ một bí mật nào đó, sẽ làm cho mối quan hệ thêm gắn bó. Tôi cũng từng vì muốn làm thân với một người mà thổ lộ cả những bí mật không thể nói.Để rồi đến ngày hôm sau, chứng kiến cái bí mật quý giá mà mình vốn chỉ cất giữ trong tim ấy bỗng chốc được truyền từ miệng người này sang miệng người khác, tôi đã thấy vô cùng mất mát.Tôi đã nghĩ rằng, biết đâu việc thổ lộ tấm lòng với một ai đó, không làm chúng ta trở nên thân thiết hơn, mà chỉ khiến bản thân khó xử.Biết đâu để trở nên gần gũi với một ai đó, ngược lại chỉ cần cùng đồng cảm trong yên lặng mà thôi. ... Tôi nghĩ rằng: Thời khắc đau khổ nhất của con người là khi không có ai để nghĩ tới. ... Giá như có ai hứa với mình thì tốt biết mấy. Rằng không có việc gì là vô nghĩa. Giá như có điều gì đó như là lời hứa để tin thì tốt biết mấy. Rằng sau quãng thời gian khủng khiếp, bất an, cô độc vì bị ruồng bỏ, sẽ có sự thay đổi nào đó... *** Shin Kyung-sook sinh năm 1963 trong một gia đình nghèo sống tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung học, mười sáu tuổi cô lên Seoul lao động kiếm sống. Shin Kyung-sook khởi nghiệp viết văn năm 1985 và sớm gặt hái thành công. Các tác phẩm của cô luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước cũng như trong khu vực. Với Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-sook trở thành nhà văn châu Á nổi bật nhất năm 2009. Tác phẩm: Hãy chăm sóc mẹ Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi Chuyện kể trăng nghe Cô gái viết nỗi cô đơn ... *** Anh. Đến. Đó. Nhé? Đến tám năm rồi anh mới gọi điện thoại cho tôi. Tôi nhận ra ngay giọng anh. Tiếng "Alô" ở đầu dây bên kia vừa dứt, tôi liền hỏi: Anh đang ở đâu? Và anh lặng thinh. Tám năm, một quãng thời gian dài. Nếu lấy một giờ đồng hồ làm đơn vị rồi gỡ quãng thời gian ấy ra, có lẽ sẽ được một con số khổng lồ nằm ngoài tưởng tượng. Nói là tám năm, nhưng tám năm trước, chúng tôi đã từng gặp gỡ, từng nhìn về những hướng khác nhau, từng nhẹ nhàng nắm tay, rồi buông tay, vì điều gì chẳng còn nhớ nữa. Tất cả là vậy.   Tôi không còn nhớ đấy là đâu. Chỉ nhớ vào một đêm mùa hè, đã quá nửa đêm, trước một cầu thang dốc đứng nơi ngõ ngách sâu hoắm nào đó trong thành phố này. Tôi đã tiến đến và nắm lấy tay anh. Ngay gần đó là một cửa hàng hoa quả, hương mận thoảng đến rồi thoảng đi trong bầu không khí hầm hập đặc quánh. Tôi nắm tay anh rồi buông tay thay cho lời từ biệt. Còn anh không biết lúc đó đang suy nghĩ gì. Những điều tôi muốn nói với anh đọng lại trong lòng như những hạt ngọc trai. Tôi chẳng thể nói được câu Anh đi nhé, hay Hẹn gặp lại. Có lẽ cũng như khi xâu vòng bị đứt, các hạt trên sợi dây trong thoáng chốc sẽ rơi lách tách xuống sàn, nếu trót lỡ lời một câu thôi thì những lời nói lỗi thời sau đó cũng sẽ tuôn ra ào ào chẳng thể nào níu giữ. Chúng tôi đã cùng giữ chặt lấy khoảng thời gian sâu nặng có cùng nhau, nên nếu mọi thứ vỡ òa sẽ chẳng thể nào kiềm chế nổi tình cảm, vì vậy dù nội tâm đang vô cùng phức tạp nhưng ngoài mặt tôi vẫn cố ngụy trang bằng vẻ điềm nhiên lạnh nhạt. Chúng tôi không muốn xáo tung những ngày cùng kiếm tìm nhau, cùng dựa vào nhau theo cái cách như thế. Dù là tám năm trước hay bây giờ, thời gian đều công bằng với tất cả. Giây phút tôi lạnh lùng hỏi anh - người mà tám năm rồi mới gọi điện thoại cho tôi, Anh đang ở đâu, tôi mới nhận ra, những điều chưa thể nói với anh đã chẳng còn đọng lại trong tôi nữa. Tôi chẳng cần phải giả bộ rằng mình sống rất tốt để giấu đi cảm xúc mãnh liệt trong lòng. Anh đang ở đâu? Tôi thực sự đã hỏi anh đầy lạnh lùng như vậy. Những câu nói đã từng khiến tôi đi lang thang vô định - ôm trong lòng nỗi nghi hoặc và đau buồn đà đi đâu cả rồi? Cả những đắng cay ấy nữa?   Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Trong khi sự im lặng lặng lẽ trôi giữa hai chúng tôi thì ở bên bậu cửa, ánh nắng của buổi sáng mùa đông đã tràn vào. Dự báo thời tiết đêm qua nói rằng hôm nay có tuyết rơi nhưng chẳng có vẻ gì là tuyết sẽ rơi cả. Chỉ là một sớm tinh mơ khi những tia nắng ban mai vẫn còn đọng lại. Nếu không phải người trong gia đình hay bạn bè rất thân thiết, hẳn sẽ ngần ngại với những cuộc điện thoại trong khoảng thời gian này. Gọi điện thoại vào lúc này thường vì có việc gấp, hay để báo tin tức gì đó chẳng lành. - Giáo sư Yun đang ở bệnh viện. - … - Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Tôi nắm chặt lấy ống nghe bằng cả hai tay. Tôi quên mất điều định nói, chớp mắt, thu lại ánh nhìn đang hướng về phía khung cửa. Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Lời nói của anh như bông tuyết bay là là trước mắt tôi. Tôi nghiền ngẫm giọng nói của anh như thể muốn giữ chặt lấy lời nói ấy, khe khẽ nhấc mí mắt nặng nề. Thật khó tin, nhưng những bóng tuyết thật sự đang phản chiếu trên rèm chóp cửa sổ, - Hình như giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi. - … - Có lẽ phải chuẩn bị dần đi thôi. Giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi ư? Tôi vô thức bật ra một tiếng thở dài. Trong giây lát, cảm giác oán trách giáo sư Yun chợt dâng lên rồi lại lắng xuống. Lần cuối tôi gặp giáo sư Yun là ba năm trước. Giáo sư Yun, cũng giống như mẹ tôi, bệnh tình càng nặng lại càng muốn được ở một mình. Ông không hề vui khi có người đến thăm. Chẳng biết tự khi nào, giáo sư Yun đã trở thành một thực thể cô độc nằm trong căn phòng mà chỉ có thể bước vào sau khi đi qua rất nhiều cánh cửa đóng chặt. Ngay cả trước cái chết, ông vẫn nghiêm khắc và thực lòng muốn ở một mình. Ba năm trước, vào một buổi sáng đầu năm mới tôi đã ra ngoài định đến tìm giáo sư Yun nhưng rồi giữa đường lại thôi, từ đó về sau cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp ông thêm lần nào nữa. Buổi sáng mùa đông bắt đầu năm mới ấy, tôi đã nghĩ dù sao cũng phải đến chúc Tết giáo sư Yun. Tôi biết rằng giáo sư Yun vì khó thở nên chẳng thể ngồi được lâu, nhưng tôi cũng chỉ cần đến nhìn ông chút thôi là đủ. Sáng hôm ấy trời âm u, tuyết rơi dày đặc. Tôi lái xe rất tệ. Nếu có xảy ra đôi co gì về vấn đề xe cộ thì không phải bàn cãi, đó chắc chắn là lỗi của tôi. Những bông tuyết lớn mau chóng biến thành các tảng tuyết, rồi gió Bắc thổi đến. Qua đỉnh núi này là đến căn nhà nơi giáo sư Yun ở một mình, nhưng chiếc ô tô chạy chênh vênh nguy hiểm trên con đường tuyết lại mắc kẹt trong một hố tuyết. Tôi không làm sao được, đành cứ để mặc xe ở đó, cuốc bộ trong cơn bão tuyết. Má tôi tưởng vỡ ra vì lạnh, gấu quần đông cứng như những trụ băng. Bước đi một lúc rồi ngoái lại nhìn, chỉ thấy tuyết phủ mờ cả vạt núi. Mỗi khi cơn gió xoáy nổi lên, những đụn tuyết chất đầy trên sườn núi lại bay trắng xóa khoảng không, cuốn xuống thung lũng. Bông tuyết lúc này trở nên xám đục. Tuyết càng lúc càng rơi dữ hơn, ngôi nhà của giáo sư Yun vẫn ở xa mờ mịt. Tiến lên nào, tiến lên nào, cho dù tôi có tự nhủ thì việc phải một mình đơn độc bước đi trên con đường tuyết vẫn càng lúc càng trở nén đáng sợ. Mỗi khi nghe thấy âm thanh của những cành thông bị tuyết đè gãy, lòng tôi bỗng dưng lại chung hẳn xuống. Chứng kiến đám cây cối lớn đang khô héo trong rừng không thể nào chiến thắng được sức nặng của tuyết, cuối cùng rầm một tiếng đổ gục, tôi vội quay người lại, cảm giác như chính mình vừa bị đánh ngã. Mời các bạn đón đọc Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi của tác giả Shin Kyung-Sook.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỳ Án Đầu Phật
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời. Đằng sau mỗi món đồ giả, lại là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện, một chủ tiệm đồ cổ cỏn con ở Lưu Ly Xưởng, vào đúng sinh nhật tuổi 30 đột nhiên bị cuốn vào những rắc rối theo gã là “trên trời rơi xuống”. Gia thế bao đời đã lụi tàn, thân phận người ông không biết mặt, bí ẩn đằng sau vụ tự tử của cha mẹ tới tấp phơi bày trước mắt gã, nhưng đâu là giả đâu mới là thật? Điểm mút của những búi dây ân oán chằng chịt không ngờ lại là món báu vật hiếm có người đời vẫn đồn đại. Ván cờ gã đang tham dự dường như đã được sắp đặt từ hàng chục năm trước, càng dấn sâu lại càng phơi bày diện mạo tối tăm, hiểm ác của giới cổ vật. Và để không bị nuốt chửng, chỉ dựa vào một thân tuyệt học phân biệt thật giả của Hứa Nguyện thì không đủ, bởi nhìn đồ thì dễ nhìn người mới khó. *** DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa *** MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Minh nhãn mai hoa - Tổ chức bí ẩn thao túng giới cổ vật Hôm xảy ra chuyện, đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi. Thuở nhỏ thầy bói nói tôi mang mệnh “đường núi đứt ngang”. Nghĩa là gì? Chính là nửa đầu đời tôi như một con đường mòn trong núi, khúc khuỷu quanh co, gập ghềnh trắc trở, đi đến giữa chừng thì “rắc” một tiếng, con đường trước mặt bị chặt đứt, thế là toi. Nếu tiếp tục đi, số mệnh sẽ thay đổi hoàn toàn - còn sự thay đổi này rốt cuộc là họa hay phúc, lành hay dữ, thầy bói không nói, tôi cũng chẳng gạn hỏi. Tóm lại ông ta dặn tôi đến năm ba mươi tuổi nhất định phải cẩn thận, có chuyện đấy. Tôi có nằm mơ cũng không ngờ ông ta phán chuẩn như vậy. À phải, trước hết tự giới thiệu đã nhỉ. Tôi tên Hứa Nguyện, năm nay vừa tròn ba mươi, là một con kiến trong kẽ gạch dưới chân tường hoàng thành, làm nghề buôn đồ cổ. Từ sau giải phóng, nghề này đã mai một hơn ba chục năm, mãi đến cải cách mở cửa, thị trường văn vật và đồ sưu tầm mới dần nhộn nhịp. Kẻ mua người bán nín thở ẩn mình suốt giai đoạn đả phá Tứ Cựu, giờ lại nhao nhao lên như cóc nhái tháng Ba, đạp chân gạt bùn đất ra, loi nhoi ngóc dậy. Nhờ ngón nghề gia truyền, tôi mở một cửa tiệm nhỏ xíu buôn vàng ngọc đá quý tại khu Lưu Ly Xưởng bé bằng bàn tay, đặt tên Tứ Hối Trai. Thỉnh thoảng lại có người trỏ bảng hiệu hỏi tứ hối gồm những gì, tôi bèn trả lời, là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời bố tôi trối lại trước khi tự sát trong Cách mạng Văn hóa, bố và mẹ tôi bị đấu tố vì vấn đề lịch sử để lại, nhất thời nghĩ quẩn, nối gót Lão Xá đâm đầu xuống hồ Thái Bình. Sinh nhật tuổi ba mươi của tôi đại khái cũng tưng bừng, kiếm chác cũng khá, tổng cộng đẩy đi được một chuỗi mặt ngọc thiềm thừ và một con ấn sừng trâu cuối đời Thanh, đều bán cho khách Quảng Đông, kiếm đủ tiền ăn uống điện nước lẫn tiền nhà, đây là chuyện đáng mừng với một cửa tiệm nhỏ giật gấu vá vai như tiệm tôi. Thấy trời đã chạng vạng, đoán chừng chẳng còn khách khứa nào, tôi quyết định đóng cửa sớm, đến Nguyệt Thịnh Trai ăn một bữa, coi như tự khao. Sau khi thu dọn qua loa, tôi đang định khóa cửa thì chợt nghe thấy tiếng động lạ bên ngoài. Thoạt đầu cứ ngỡ là chủ nhà đến thúc tiền, hơn ba tháng nay tôi khất lần suốt. Nhưng ngay sau đó, tôi đã nhận ra không phải. Âm thanh này thấp trầm mà xào xạc như tằm ăn rỗi, thong thả từ xa trườn đến gần như cọp rình mồi. Kính tủ quầy rung lên, mấy pho tượng Phật ngọc, tượng tỳ hưu bày bên trong khe khẽ run rẩy như gặp khắc tinh, lần lượt trượt khỏi vị trí ban đầu, bụi bặm bốn bề bắt đầu bốc lên. Tôi vội ấn ngón cái lên mặt kính để nó ngừng rung kẻo mấy pho tượng rơi vỡ, thầm chột dạ. Đức Phật rời chỗ, ắt là điềm xui xẻo. Bên ngoài tối như bưng, chẳng biết tiếng động phát ra từ đâu. Không bao lâu sau, âm thanh nọ tắt lịm. Tôi định thò đầu ra xem thì cửa tiệm bị đẩy mở kêu két một tiếng, hai người bước vào. Tôi nhận ra một người là Tiểu Tưởng, công an khu vực ở đây. Kẻ đứng cạnh anh ta chừng ngoại tứ tuần, mặc cảnh phục, mặt quắt đen sì, đi nhẹ như mèo. Vừa thấy y, mắt tôi liền nheo lại. Tuy không dám xưng là có mắt nhìn người, nhưng dù sao tôi cũng biết quan sát. Phong thái con người cũng như hồ bọc* ở đồ cổ, không thể giải thích, song chỉ nhác trông là cảm nhận được. Người này thâm trầm kín đáo, không phải loại công an khu vực miệng còn hôi sữa như Tiểu Tưởng, cũng chẳng giống mấy tay hình sự lão luyện mắt sắc như dao, khí độ của y không giống như đám công an cảnh sát thường, từ đầu đến chân toát lên vẻ bí ẩn khó dò. Tiểu Tưởng lên tiếng trước, “Anh Nguyện, có người tìm anh.” Tôi chưa kịp đáp, người kia đã chìa tay ra, “Đồng chí Hứa Nguyện phải không? Tôi tên Phương Chấn, đồng nghiệp của Tiểu Tưởng, chào anh.” Tôi chần chừ bắt tay y rồi cười hỏi, “Anh từng ở trong quân đội ít nhất mười năm phải không?” “Hở?” Phương Chấn nhướng mày. “Vừa xong bắt tay, anh có chai ở hổ khẩu và mặt trong bốn ngón, đây là vết tích cầm tiểu liên chứ không phải súng ngắn. Độ dài mỗi bước của anh cũng đều tăm tắp, tôi không nghĩ ra còn ngành nghề nào khác rèn luyện được tác phong như vậy.” Người trong giới đồ cổ đều tinh mắt, đây là tố chất cơ bản. Tiệm tôi vốn mỏng tiền còm, mắt mờ một lần thì chỉ có nước sạt nghiệp, nên càng phải chú trọng kỹ năng này. Phương Chấn dường như cũng nhận ra tôi định giành quyền chủ động, nhưng chỉ cười trừ chắp tay sau lưng đi lại trong tiệm, ngắm nghía hàng hóa. Tôi bèn tranh thủ kéo Tiểu Tưởng lại hỏi, “Ai thế? Bưng một ông cảnh sát đến đây làm gì, định cho tôi ăn cám à?” Tiểu Tưởng gãi đầu, “Anh đừng hỏi em, đây là nhiệm vụ cấp trên giao xuống, em chỉ biết dẫn ông ấy đến đây thôi.” Đang định gặng tiếp thì Phương Chấn đã vòng lại hỏi, “Cho tôi xem thẻ căn cước của anh được không? Không phải nghi ngờ gì anh đâu, làm theo quy định thôi.” Tôi móc căn cước ra, Phương Chấn cầm lấy xem kỹ rồi trả lại, còn lịch sự gật nhẹ đầu. Tôi thẳng thừng yêu cầu, “Vậy anh cũng cho tôi xem thẻ ngành đi - không phải nghi ngờ gì anh đâu, chẳng qua tôi mắc bệnh đa nghi thôi.” Phương Chấn thoáng ngẩn người, rút ra một cuốn sổ bìa nhựa xanh, bên trên có mấy chữ thếp vàng “Thẻ công tác”. Tôi lật xem, thấy viết đơn vị công tác là Cục 8 Bộ Công an, nhưng không có chức vụ cụ thể. Tôi bỗng chột dạ. Nghe con cháu một vị cốp kể, Bộ Công an có hai cục bí hiểm nhất, một là Cục 9, do bộ quản lý nhưng lại trực thuộc Tổng cục tham mưu, phụ trách an toàn cho thường ủy Bộ Chính trị, còn gọi là Cục Cảnh vệ Trung ương; hai là Cục 8 của gã Phương Chấn này, phụ trách bảo vệ cho lãnh đạo nhà nước, quan khách cấp cao nước ngoài và một vài yếu nhân. Sánh ngang với Cục Cảnh vệ Trung ương, đủ thấy thế lực Cục 8 mạnh nhường nào. Nếu là mấy trăm năm trước thì đó chính là ngự tiền tứ phẩm đới đao thị vệ gộp với cẩm y vệ chứ lại chẳng! Tôi trả lại thẻ ngành cho Phương Chấn, đổi sang bản mặt toe toét, “Đồng chí Phương Chấn muốn mua hay muốn bán?” Y đáp, “Mời anh đi với tôi, có người muốn gặp anh.” Tôi ngẩn ra, “Ai vậy? Phải gặp ngay tối nay à?” “Nhất định phải là tối nay, đây là mệnh lệnh của cấp trên.” Giọng điệu Phương Chấn lịch sự mà cứng rắn. Tôi nhíu mày, cảm thấy việc này rất lạ, không thể không cẩn thận. Tuy cửa tiệm nhỏ này chẳng có gì quý giá, nhưng tôi vẫn phải thận trọng. “Anh phải cho tôi biết là cấp trên nào ra lệnh đã chứ?” Phương Chấn trỏ lên trời, “Tóm lại là cấp cao, tôi không thể tiết lộ, đây là quy định.” “Muốn gặp tôi làm gì?” “Không thể tiết lộ.” “…” Nếu không có Tiểu Tưởng liên tục đánh mắt ra hiệu, cộng thêm tấm thẻ Cục 8 kia, tôi thật muốn hỏi y học đâu ra cái kiểu ăn nói ấy. Phương Chấn giơ tay nhìn đồng hồ rồi bước ra cửa làm động tác mời. Sức ép từ Cục 8 quá lớn, dân đen như tôi thực chẳng còn đường nào khác, đành cắn răng đi theo. “Tôi phải khóa cửa đã, sợ kẻ trộm.” Tôi lầm bầm rút chìa ra khóa cửa, kiểm tra một lượt thiết bị chống trộm rồi mới chịu đi. Vừa ra khỏi cửa đã thấy đập ngay vào mắt một con xe Hồng Kỳ* CA771 đen tuyền, có lẽ đây là nguyên nhân gây ra cơn rung chấn khi nãy. Tiệm tôi không nằm ngoài mặt phố Lưu Ly Xưởng mà chui vào một con hẻm xiên xiên, đường bê tông đang tu sửa nên bề mặt toàn cát là cát. Tiếng sàn sạt ban nãy chính là do bánh xe ma sát với nền cát mà ra. Tôi không ngờ Phương Chấn lại nghênh ngang lái hẳn xe Hồng Kỳ vào hẻm đỗ trước tiệm mình. Bấy giờ tuy loại xe này đã ngừng sản xuất nhưng vẫn mang tính biểu tượng, cả Bắc Kinh chẳng mấy người có dịp ngồi. Thực chẳng rõ y tiết kiệm giùm tôi mấy bước chân hay cố ý gây áp lực cho tôi nữa. Con xe Hồng Kỳ này hơi cũ nhưng được lau rửa bóng loáng, trong bóng tối nhập nhèm trông như một con thú đá uy nghi sừng sững. Phương Chấn mở cửa sau, mời tôi lên trước. Tôi để ý thấy y tay phải kéo cửa, tay trái nắm cạnh trên cửa xe, đề phòng tôi va đầu. Đây tuyệt đối là một tay chuyên tiếp đãi khách nước ngoài! Lính phục viên, chuyên viên tiếp đón, nhân viên Cục 8! Thân phận ba lớp của y khiến tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bản thân chỉ là dân đen thấp cổ bé họng, nào dám cứng đầu với thần tiên, cung cúc mà theo thôi. Ghế sau xe Hồng Kỳ rộng bất ngờ, lại êm. Tôi còn duỗi được cả chân. Phương Chấn cũng lên xe, chu đáo kéo rèm nhung tím che hai bên cửa sổ lại rồi vỗ vai tài xế. Tài xế chẳng nói chẳng rằng, thành thạo nổ máy, xoay vô lăng chạy thẳng khỏi hẻm, Phương Chấn dựng tấm gỗ ngăn giữa hai hàng ghế lên rồi quay sang cười bảo tôi, “Xin lỗi nhé, quy định nó thế.” Hay lắm, giờ thì còn thấy được khỉ gì nữa. Tôi chợt nhớ hồi nhỏ đọc truyện liên hoàn họa, thổ phỉ bắt trinh sát quân giải phóng đưa về sào huyệt, cũng bịt mắt dẫn đi thế này. Phương Chấn ngồi thẳng người, lưng dựa hờ vào ghế, hai tay đặt trên đầu gối nhắm mắt dưỡng thần, rõ ràng là người đã được huấn luyện đặc biệt. Mấy lần tôi toan lân la hỏi dò đích đến, nhưng thấy y như vậy đành nuốt lại lời định nói, nhắm mắt dưỡng thần theo. Xe chạy khoảng hai mươi phút cuối cùng cũng đỗ lại. Phương Chấn mở bừng mắt ra. “Đến rồi.” “Bát Đại Xứ à?” Tôi hờ hững buông gọn lỏn một câu. Phương Chấn thoáng ngạc nhiên, nhưng lập tức lấy lại vẻ điềm tĩnh, nhìn tôi đầy thâm ý rồi hạ tấm gỗ chắn và kéo rèm hai bên, ra hiệu cho tôi ngồi lại, còn y xuống xe. Lúc này trời đã tối, nhưng đèn đường sáng trưng như ban ngày. Tôi nhìn quanh, phát hiện xe đang đỗ giữa một con đường nhỏ vắng vẻ. Hai bên đường là bạch dương xanh um, xung quanh không có cao ốc. Cuối đường là một khu nhà tường bao cao ngất, không đánh số nhưng có hai cảnh vệ ôm súng đứng canh, cánh cổng màu lục nhạt đóng im ỉm. Phương Chấn xuống xe, đi thẳng về phía hai cảnh vệ. Đôi bên trao đổi mấy câu, Phương Chấn bèn giơ tay ra hiệu về phía này. Tài xế khởi động máy, đánh xe đến trước cửa, cảnh vệ ngó qua cửa sổ xe nhìn tôi vẻ cảnh giác, nói vài câu với Phương Chấn, y trỏ tôi gật gật đầu. Tiếc rằng trong xe cách âm nên tôi không nghe rõ họ nói gì.   Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Đầu Phật của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).  
Bản Tin Chiều - Arthur Hailey
Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** Partridge biết anh đã tính toán sai. Họ đã bi chậm rất nhiều. Cái anh không tính tới khi chọn Sion thay vì chọn điểm hẹn gần hơn là xuồng gặp sự cố. Việc đó xảy ra khoảng hai tiếng sau khi rời Nueva Esperanza, tức là còn một tiếng nữa mới đến chỗ họ bỏ thuyền lên bờ và bắt đầu đi bộ tới điểm đỗ máy bay. Cả hai máy vẫn đang hoạt động bình thường tuy kêu hơi to, thì bỗng chuông trong máy bên trái xuồng réo ầm lên, Ken O’Hara lập tức giảm ga, về số không, và tắt máy. Chuông và máy đều im lặng. Chiếc máy ở mạn phải vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng lúc này xuồng chạy chậm hẳn lại. Partridge bước về phía cuối xuồng và hỏi O’Hara: "Sao thế? Liệu có sửa được không?". "Tôi e rằng không", O’Hara trả lời. Anh đã tháo nắp máy và đang xem xét bên trong. "Máy nóng quá, vì thế chuông báo. Nước làm mát máy rất trong, chứng tỏ bơm đã hỏng. Cho dù tôi đủ dụng cụ tháo rời máy ra, có thể vẫn cần phụ tùng thay thế. Mà chúng ta không có cả hai thứ…". Anh bỏ lửng không nói hết câu. "Tức là chắc chắn không thể chữa được nữa?". O’Hara lắc đầu: "Rất tiếc là vậy, Harry ạ". "Nếu cứ cho chạy tiếp thì sao?". "Máy sẽ hoạt động một thời gian ngắn, rồi lại bị nóng. Sau đó máy quá nóng, pittong và xilanh chảy dính với nhau. Rồi chỉ còn mỗi một việc là quẳng ra bãi rác". "Cho chạy đi", Partridge bảo. "Nếu không còn cách nào khác, cứ chạy được chừng nào hay chừng ấy". "Được thôi, anh là thuyền trưởng mà", O’Hara trả lời, mặc dù anh rất ghét làm hỏng chiếc máy, mà giá ở hoàn cảnh khác vẫn chữa chạy được. ... Mời các bạn đón đọc Bản Tin Chiều của tác giả Arthur Hailey.
Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje
Bệnh nhân người anh là tác phẩm đầy chất thơ về số phận của bốn con người gặp nhau nơi một tòa biệt thự bỏ hoang ở vùng đồi nước Ý trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Câu chuyện như những trang sách được lật giở ngẫu nhiên dần hé mở tâm trạng và cuộc đời của từng nhân vật: Hana, cô y tá với những chấn thương tinh thần, một mực ở lại chăm sóc ông bệnh nhân người Anh khi những người khác trong bệnh viện dã chiến này đã chuyển đi; Caravaggio, một tên trộm, một cựu điệp viên, bị chặt đứt hai ngón tay cái trong một lần bị địch bắt; Kip, anh lính công binh gỡ bom người Ấn dè dặt với người phương tây; và bệnh nhân người Anh, nhân vật trung tâm, bị bỏng đến mức không còn nhận diện được, một ẩn số giữa họ... Bệnh nhân người Anh bí ẩn - ông thực sự là ai? Câu trả lời sẽ được hé lộ qua từng mảnh ký ức giống như tia chớp thi thoảng lé lên trong ông. Ký ức về cuộc đời phiêu lưu và mối tình mãnh liệt nhưng đau đớn của ông sẽ dẫn người đọc bước vào một mê cung cảm xúc rối rắm nhưng đầy thú vị. Hãy cùng đọc, khám phá và suy ngẫm... *** "Bệnh nhân người Anh (The English Patient) là một tác phẩm hấp dẫn của tiểu thuyết - cả với thơ ca và triết học”, Helena Kennedy - chủ tịch Quỹ Giải thưởng Booker cho biết. Bệnh nhân người Anh lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới II khốc liệt, một chiếc máy bay bị bắn hạ và rơi xuống khu vực sa mạc Sahara. Trong chiếc máy bay là một người phụ nữ đã chết và một người đàn ông bị bỏng nghiêm trọng. Anh ta được gọi là "bệnh nhân người Anh" và được chuyển cho y tá Hana chăm sóc tại một biệt thự ở Ý bị hủy hoại. Nhưng ở nơi hoang vu đó, những cuộc tình nên thơ vẫn đâm chồi nảy nở. Đó là mối tình đẹp nhưng buồn của nữ y tá Hana với chàng trung sĩ phá mìn Kip, là mối tình buồn được ghi chép trong những trang nhật ký của bệnh nhân người Anh - Laszlo de Almasy với cô gái Katharine Clifton. Bệnh nhân người Anh đã đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, nhưng có lẽ bản chuyển thể tốt nhất là khi nó trở thành một bộ phim kinh điển của đạo diễn Anthony Minghella năm 1996. Bộ phim giành được 9 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng và 6 giải BAFTA cho phim hay nhất năm 1997. *** Philip Michael Ondaatje, CC FRSL, là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà biên tập và nhà làm phim người Canada gốc Sri Lanka. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng của Toàn quyền, Giải thưởng Giller, Giải thưởng Booker và Giải thưởng Médicis étranger. Mời các bạn đón đọc Bệnh Nhân Người Anh của tác giả Michael Ondaatje.
Thành Phố Sau Ánh Hào Quang - Denley Lupin
Cuộc đời này những gì đến và đi không phải lúc nào chúng ta cũng có thể quyết định. Điều gì đang có nên trân trọng, thứ gì ra đi nên cảm ơn vì ý nghĩa nó từng đem đến. Nữ tác giả viết: “Thế giới này, chính vì có những con người dám ước mơ, dám thực hiện, dám chấp nhận thất bại nên mới có những phát minh vĩ đại. Bạn không cần trở thành vĩ nhân, hay trở thành người kiến tạo thế giới. Bạn chỉ cần sống đúng với mong ước cuộc đời của riêng bạn, sống một cuộc sống không phải hối hận, là đã đủ hạnh phúc rồi. Hãy theo đuổi hành trình ước mơ của bạn, lên kế hoạch và bắt tay thực hiện nó”. Những trang viết tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, sống hết mình với tuổi trẻ và không bao giờ hối tiếc hay phải nói hai từ “giá như”. *** Ba năm sau. M.Y.S đã trở thành nghệ sĩ hàng đẩu ở thời điểm hiện tại. Là con át chủ bài của JND, danh tiếng chẳng hề thua kém gì đàn anh Nam Phong hay Winter ở thời kỳ đỉnh cao. Có thể xem cô là nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử JND. M.Y.S được săn đón ở khắp mọi nơi nhưng cô luôn chọn cho mình lối sống khá kín đáo sau ánh hào quang. Nam Phong đã lặng lẽ rời khỏi làng giải trí. Đã hai năm qua anh tham gia một tổ chức phi chính phủ, giúp đỡ người khó khăn ở nhiêu nước nghèo đói. Có lẽ danh vọng, sự nổi tiếng trong showbiz đã chẳng còn sức hút với anh. Khi mọi thứ đã đạt được, đã ở đỉnh cao, anh chỉ mong muốn quay về làm những điêu giản dị như cách để trả ơn xã hội, để tìm ra giá trị của cuộc sống. ... Mời các bạn đón đọc Thành Phố Sau Ánh Hào Quang của tác giả Denley Lupin.