Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiến Tranh Và Chiến Tranh

Trong phòng lưu trữ tỉnh lẻ heo hút, cách Budapest trăm hai mươi cây số, Dr. Korin György tình cờ phát hiện một cảo bản huyền bí không nhan đề, không niên đại, tác giả vô danh. Bốn người đàn ông trong cảo bản, xuất hiện ở những bước ngoặt khác nhau của lịch sử thế giới, lúc ở Creta, lúc ở Venice, lúc ở Köln, luôn phải trốn chạy khỏi chiến tranh thảm khốc, khỏi sự tàn phá. Và rất lâu sau, trong một khoảnh khắc tăm tối bất chợt vào sinh nhật lần thứ bốn mươi tư, Korin cảm thấy chính mình cũng cần trốn chạy, như các nhân vật trong tập cảo bản kỳ lạ liên tục trượt về phía trước, và cuốn gã vào mê lộ của nó. Gã bán hết gia sản, đến New York, để kết thúc cuộc đời cũ, và thực hiện giấc mơ đưa cảo bản quý giá vào cõi vĩnh hằng...  Chiến tranh và chiến tranh – tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết, thể hiện cái nhìn u tối về thực tại bạo tàn trong vẻ đẹp bí ẩn và bi thảm, nhưng đầy sức thôi miên, khiến độc giả nhập thân sâu sắc vào cuộc xê dịch ác mộng của nhân vật đi tìm ý nghĩa của thế giới và chính đời mình. Chiến tranh và chiến tranh đã góp phần khẳng định vị trí của Krasznahorkai László như một tên tuổi lớn đặc biệt đáng chú ý, một ngôi sao sáng khác lạ trên bầu trời văn học đương đại Hungary và thế giới. *** Tôi không còn quan tâm đến việc mình sẽ chết, Korin nói, rồi sau một lúc lâu im lặng, gã chỉ khu mỏ ngập nước ở gần đó: Kia là những con thiên nga? 2. Bảy đứa trẻ vây lấy gã giữa cây cầu đi bộ vắt qua đường sắt, thành nửa vòng tròn, chúng ngồi xổm, gần như ép gã sát vào lan can, đúng như nửa tiếng trước, khi chúng tấn công gã để trấn lột, đúng như thế, chỉ có điều lúc này không đứa nào còn muốn tấn công hay trấn lột gã, bởi rõ ràng như diễn biến bất ngờ đã cho thấy, có thể tấn công và trấn lột hạng người như gã, nhưng chẳng bõ, vì có lẽ đúng là gã không có thứ gì thật, còn cái mà gã có, đó là một gánh nặng không thể nhìn thấy, và vì vậy - tại một điểm nhất định của màn độc thoại hấp tấp, rối tinh rối mù, nhưng đối với chúng “thực chất chán mớ đời” của Korin - điều đó đã ngã ngũ, hơn nữa gần đúng vào thời điểm gã bắt đầu nói về sự mất trí của gã, chúng không đứng dậy và bỏ gã ở đó như một kẻ điên, mà chúng cứ yên vị như cũ, nửa vòng tròn, ngồi xổm, bất động, vì trời đang tối dần, vì bóng tối đang buông xuống trong sự yên tĩnh của buổi hoàng hôn trên khung cảnh công nghiệp khiến chúng câm lặng, và vì cái trạng thái câm lặng, không động đậy này diễn đạt một cách sâu sắc nhất sự tập trung của chúng, Korin đã bơi ra ngoài sự chú ý ấy, mục tiêu còn lại chỉ là những đường ray ở phía dưới. 3. Không ai yêu cầu gã nói, chúng muốn gã đưa tiền cho chúng, nhưng gã không đưa, mà bảo gã không có tiền, rồi gã nói, lúc đầu còn lắp ba lắp bắp, sau trơn tru hơn, cuối cùng không dừng lại được, gã cứ nói, và có thể thấy rõ gã nói vì sợ những cặp mắt của bảy thằng nhóc, hay như sau này gã tự nhận: vì gã sợ thắt ruột, và, gã nói nếu nỗi sợ hãi bắt đầu bóp nghẹt ruột gan, thì gã nhất thiết phải nói, thậm chí vì nỗi sợ hãi không qua đi, vì không thể biết chúng có vũ khí hay không, càng lúc gã càng bị lôi cuốn vào câu chuyện, nghĩa là mỗi lúc gã càng thêm sa đà vào việc phải kể hết cho chúng nghe, kể tất cho một ai đó, bởi từ khi - và vào giây phút cuối cùng! - gã bí mật bắt đầu “chuyến đi vĩ đại”, như gã gọi, gã chưa trò chuyện với ai, một lời cũng không, gã nghĩ điều đó quá nguy hiểm, hơn nữa cũng chẳng có ai để nói, vì trên đường gã không gặp một ai khả dĩ có thể coi là vô hại, hoặc người gã không cần phải dè chừng, nên biết rằng đối với gã không có ai đủ vô hại, và gã phải coi chừng tất cả mọi người, và gã, gã đã nói lúc đầu, gã thấy mọi người đều là người hoặc trực tiếp, hoặc đứng đằng sau, nhưng có quan hệ với những kẻ đang săn lùng gã, có mối liên hệ không thể nghi ngờ gần hay xa nào đó với những kẻ biết về hầu như mọi bước đi của gã, chỉ có điều gã nhanh chân hơn, sau này gã kể, bao giờ gã cũng nhanh hơn “ít nhất là nửa ngày đường” so với chúng, tuy nhiên những thắng lợi của gã về thời điểm và vị trí có một cái giá: không được nói với ai một lời, chỉ đến giờ mới nói do sợ hãi, bởi vì chỉ dưới áp lực tự nhiên của nỗi sợ hãi gã mới đánh liều đi vào những đoạn quan trọng nhất của cuộc đời gã, đánh liều tiến càng lúc càng sâu hơn, gã kể các chi tiết càng lúc càng cá nhân hơn, càng lúc càng máu thịt hơn, lấy lòng mua chuộc để bọn chúng đứng về phía gã, để đơn giản là gột rửa xu hướng tấn công khỏi bọn tấn công gã, và để thuyết phục cả bảy đứa: ở đây một người nào đó không chỉ đầu hàng, mà bằng sự đầu hàng này gã đã vượt lên trước bọn tấn công gã. 4. Có mùi hắc ín trong không khí, mùi hắc ín gây buồn nôn, nồng nặc khắp nơi, và ngay cả gió mạnh cũng chẳng giúp được gì trong chuyện này, vì gió đã thấm vào xương tủy chúng, nó chỉ cuốn cái mùi kia lên và xoay tròn, chứ không thay đổi được, vì cả vùng này, suốt mấy cây số, và chủ yếu là ở đây, giữa giao lộ của các đường ray từ phía Đông và tẽ ra ngay lập tức như chiếc quạt nan, và ga hàng Rákos nhìn thấy ở phía sau chúng, không khí đầy cái mùi này, mùi hắc ín, cái mùi khó có thể nói là được cấu thành từ mùi than khói lắng đọng xuống, mùi của hàng trăm ngàn đoàn tàu sầm sập lao qua, của những thanh tà vẹt bẩn thỉu, của đá dăm và những đường ray và tất cả những thứ gì gì nữa, nhưng rõ ràng không chỉ những thứ đó, mà còn thứ khác, bí ẩn hơn, khó tả hoặc không thể gọi bằng tên nữa, trong đó chắc có cả số lượng khổng lồ sự hoang vắng của con người mà hàng trăm ngàn đoàn tàu đã chở qua đây, nhìn từ độ cao của chiếc cầu vượt... hàng triệu ý chí đã hợp thành sự vô đích đáng sợ, cũng như cả cái bóng ma lửng lơ của sự trơ trụi, hoang sơ, sự tù hãm công nghiệp ma quái đã đè nặng dần dần lên khu vực này trong hàng thập niên chắc đã nuôi dưỡng nó, và trong bối cảnh ấy, giờ đây Korin đang cố tìm chỗ đứng thích hợp, gã, kẻ ban đầu trong khi chạy trốn chỉ định sang phía bên kia - một cách kín đáo, nhanh, lặng lẽ - để đi về phía mà gã cho là trung tâm của thành phố, thế mà bây giờ, có thể nói gã phải tìm vị trí ổn định tại cái điểm gió lạnh này của thế giới, gã phải bám - lan can, vỉa hè, nhựa đường, kim loại - vào những tình tiết dĩ nhiên là ngẫu nhiên nhưng trong mắt gã có vẻ như quan trọng, và như vậy một chiếc cầu vượt, nằm phía trước ga tàu hàng Rákos vài trăm mét, từ một lát cắt không tồn tại của thế giới trở thành một lát cắt hiện hữu, trở thành một trong những cột mốc quan trọng đầu tiên của cuộc đời mới của gã, hay như sau này gã gọi là “cuộc chạy điên cuồng”, một chiếc cầu vượt, mà trên đó, nếu chúng không bắt gã dừng lại, thì gã đã mù quáng đi vội qua. 5. Sự việc bắt đầu bất chợt, không có khúc dạo đầu, không có sự linh cảm, chuẩn bị, diễn tập, đúng vào một khoảnh khắc đặc biệt của ngày sinh lần thứ bốn mươi tư, sự nhận thức đã giáng xuống đầu gã, và một cách đau đớn ngay lập tức, đúng như bảy đứa bọn chúng ập xuống gã ở đây lúc nãy, chỗ giữa cây cầu vượt, gã nói, cũng bất chợt và không thể dự báo trước đúng như vậy, gã ngồi trên bờ một con sông, nơi thỉnh thoảng gã vẫn ngồi, vì không muốn về căn hộ trống vắng đúng vào ngày sinh nhật mình, và đúng là bất chợt, nó giáng xuống gã, gã kể, lạy Chúa! gã không hiểu chút gì hết, ôi, ôi, ôi, gã chẳng có khái niệm về một điều gì, Jesus Maria, gã chẳng hiểu gì về thế giới, và sự việc thành hình trong gã như vậy khiến gã sợ, ở mức độ như thế của sự tầm thường, của sự ngây thơ chếnh choáng, nhưng đúng là thế, gã nói, gã bỗng thấy mình cực kỳ đần độn, ở tuổi bốn mươi tư, một cái bong bóng, rỗng, ngu ngốc, theo cái cách gã đã hiểu về thế giới suốt bốn mươi tư năm, trong khi, lúc đó gã nhận ra ở bên bờ sông, không những gã không hiểu, mà hoàn toàn chẳng hiểu một tí nào về tất cả, điều tồi tệ nhất là suốt bốn mươi tư năm gã tưởng rằng gã hiểu, trong khi gã chẳng hiểu gì hết, đó là điều tồi tệ nhất vào buổi tối sinh nhật ấy, một mình bên bờ sông, tồi tệ nhất, vì cùng với sự nhận thức này không đi kèm việc vậy thì từ nay gã đã hiểu, bởi thay vì cái cũ gã không nhận được hiểu biết mới, mà nhận được một sự rắc rối đáng sợ nào đó, nếu từ đây trở đi gã nghĩ về thế giới, mà dĩ nhiên buổi tối hôm ấy gã đã nghĩ về thế giới cực kỳ mãnh liệt, và gã đã hành hạ bản thân để cố hiểu, nhưng không xong, sự phức tạp chỉ mỗi lúc càng bùng nhùng hơn, đến nỗi gã có cảm giác sự phức tạp chính là ý nghĩa của cái thế giới mà gã đã hành hạ mình để cố hiểu, gã đang nghĩ đến đó, và gã không bỏ cuộc, khi vài ngày sau gã nhận ra đầu óc gã bắt đầu có vấn đề gì đó. 6. Dạo đó gã đã sống độc thân từ lâu, chính gã cũng ngồi xổm và tựa lưng vào hàng lan can trong làn gió tháng Mười một rú rít trên cây cầu vượt, gã kể cho bảy đứa trẻ nghe, độc thân, gã bảo, vì cuộc hôn nhân của gã đã tan vỡ từ trước bởi vụ Hermes[1] (và gã dùng tay ra hiệu là gã sẽ giải thích sau, đó là vụ gì), sau đó thì “gã đã đốt cháy mình trong một mối tình rất nồng nàn”, để rồi gã quyết định, không bao giờ, không bao giờ lại gần đàn bà nữa, điều đó dĩ nhiên không có nghĩa là sự cách ly hoàn toàn, vì bao giờ cũng có những người đàn bà trong một đêm khó khăn, Korin nhìn bọn trẻ, hơn nữa dù thực chất sống một mình, tất nhiên do công việc lưu trữ gã có quan hệ đồng nghiệp, do hàng xóm gã có quan hệ láng giềng, do đi lại ngoài phố gã có quan hệ đường phố, do mua bán và ngồi quán rượu gã có quan hệ mua bán và quan hệ quán xá với những người khác nhau, và cứ như vậy, cuối cùng bây giờ nghĩ lại, gã nói, gã ở gần nhiều người, dẫu chỉ là hiểu theo nghĩa hẹp nhất, khá nhiều người, cho tới khi cả những người này cũng xa lánh gã, đại khái kể từ lúc ở trong phòng lưu trữ, trên cầu thang, ngoài phố, ở nơi mua bán và quán rượu gã dần dần buộc phải kể rằng theo gã nghĩ gã sẽ mất trí, vì khi họ hiểu rằng không phải là bóng gió, gã nghĩ theo nghĩa gián tiếp, mà sự thật đúng như gã nói, nghĩa là từ cổ gã trở lên tới đầu, mà đầu với cổ gã vốn đã chẳng có quan hệ tốt đẹp, đáng tiếc, có lẽ gã sẽ mất trí, thế là, như thể chạy trốn khỏi một ngôi nhà cháy, họ lao ra tránh xa gã, và xung quanh gã mọi thứ biến mất rất nhanh, và gã đứng đó, như một ngôi nhà cháy, vì họ bắt đầu bằng việc tránh xa gã, không hỏi han gì gã trong phòng lưu trữ, rồi họ tiếp tục bằng việc không đáp lại lời chào của gã, không ăn cùng với gã một bàn, và cuối cùng, nếu nhìn thấy gã ngoài phố, thì họ chuyển sang vỉa hè bên kia, các cậu có hiểu không? Korin hỏi bảy đứa trẻ, nhìn thấy gã đi tới là họ tránh xa, điều này khiến gã đau đớn nhất, đau đớn hơn cả chuyện đã xảy ra với cái đốt sống cổ, bởi vì trong trạng thái như vậy gã cần nhất một sự cảm thông nào đó, gã nói, và có vẻ, điều này có thể thấy rõ trên mặt gã, như gã muốn tiếp tục kể tiếp sự việc tới những tình tiết nhỏ nhất, cũng như có thể thấy trên mặt lũ trẻ, rằng đối với chúng là vô ích, vì bảy đứa bọn chúng đằng nào cũng không đáp lại một điều gì, chúng không quan tâm gì hết, đặc biệt kể từ chỗ “lão già bắt đầu mất trí”, như sau này chúng kể cho những đứa khác, với chúng thế là đủ, chúng nói, chúng nhìn nhau, đứa lớn tuổi nhất gật đầu đồng ý với những đứa khác, đại loại có nghĩa là “cho qua, không bõ”, rồi chúng cứ im lặng ngồi xổm thế, và chúng nhìn điểm giao của những thanh ray, thỉnh thoảng, khi một đoàn tàu hàng lao qua dưới chân chúng, một đứa nào đó hỏi chúng sẽ ở đây bao lâu nữa, bao giờ cũng là đứa bé tóc vàng cạnh thằng lớn tuổi nhất nhìn đồng hồ, và nó chỉ nói rồi nó sẽ bảo nếu đến lúc, còn từ giờ đến khi đó hãy im mồm. 7. Nếu như Korin biết chúng đã đi đến quyết định, và đặc biệt là cái quyết định này, nếu như gã nhận thấy cái gật đầu, thì dĩ nhiên chẳng có điều gì đã xảy ra như nó đà xảy ra, nhưng gã không biết, vì gã không nhận ra, và có thể thấy là gã hiểu mọi việc theo cách khác hẳn so với bọn chúng, đối với gã tình hình - ngồi ở đây trong gió lạnh với lũ trẻ - mỗi lúc một căng thẳng hơn, chính là vì chẳng xảy ra chuyện gì, và không rõ ra được điều gì, hoặc thực chất chúng muốn gì, và liệu chúng có muốn điều gì chăng, gã phải tìm ra lời giải thích, sao chúng không buông tha gã, hay là sao chúng không bỏ mặc gã ở đó, nếu như gã đã thuyết phục được chúng rằng gã không có tiền, và tất cả đều vô ích, cần có lời giải thích, và gã đã tìm ra, chỉ tội đối với bảy đứa trẻ đó không phải là lời giải thích đúng, vì đối với gã, kẻ biết đích xác có bao nhiêu tiền được khâu trong vạt bên phải của chiếc áo khoác, thì sự bất động này, sự câm lặng này, cái sự chúng không làm gì hết này, và sự không xảy ra chuyện gì này, mỗi lúc lại có ý nghĩa lớn hơn và đáng sợ hơn, thay vì đối với gã mỗi lúc lại có ý nghĩa nhỏ hơn và an ủi hơn, vì vậy trong khi cứ mỗi nửa đầu của một khoảnh khắc gã chuẩn bị bật dậy và bỏ chạy, cho tới cuối nửa sau của các khoảnh khắc gã vẫn còn đó, như thể gã muốn đúng điều này, và gã nói, như người mới chỉ bắt đầu mọi chuyện, nghĩa là gã cùng lúc sẵn sàng chạy trốn và ở lại, nhưng quyết định thì gã luôn quyết định ở lại, tất nhiên vì sợ hãi, nhiều lần gã thông báo rằng gã rất thích thú: lọt vào cái vòng tròn tin cậy nhất, cuối cùng người ta đã nghe gã nói, ở đó gã có điều muốn nói, thậm chí gã có vô khối điều muốn nói, vì nếu gã nghĩ kỹ, gã nói, theo đúng nghĩa của ngôn từ thật ra gã cần kể vô khối chuyện, để sáng tỏ ra: thứ Tư, vào mấy giờ thì gã không biết, nhưng là cách đây ba hay bốn mươi tiếng, cuộc đời gã đã đảo lộn, khi gã hiểu mình phải thực hiện chuyến đi vĩ đại, khi gã hiểu ra rằng tất cả, từ Hermes đến sự cô đơn, đối với gã đều hướng về một phía, khi gã hiểu ra rằng thực chất gã đang trên đường đi, vì mọi thứ đã được sắp đặt sẵn và sụp đổ, nghĩa là trước gã mọi thứ đều được sắp đặt sẵn và sau gã mọi thứ đều sụp đổ, theo cách, Korin nói, vẫn hay xảy ra trong những “chuyến đi vĩ đại”. Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh Và Chiến Tranh của tác giả Krasznahorkai László.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu Không Trốn Chạy - Kinh Hồng
Có lẽ, trước tiên chúng ta sống là vì bản thân mình, nhưng thế giới vô cùng rộng lớn, tháng ngày dần trôi, sống một mình sẽ cảm thấy cô đơn, vì thế, chúng ta tự đi kiếm tìm rất nhiều điều để bù lấp cảm giác cô đơn đó. *** Tác giả Kinh Hồng Tác giả nữ, cung song ngư, mặc dù đã bước qua lứa tuổi mơ mộng nhưng vẫn tin tưởng vào những câu chuyện cổ tích tình yêu tuyệt đẹp. Nhận được sự dạy bảo nghiêm khắc của cha mẹ, thích đọc sách, yêu văn thơ và bút mực, hiện tại đang sống ở Thiên Tân. Các tác phẩm đã xuất bản: Tình yêu không mật mã, Như Mộng Lệnh (2 tập), Chim anh vũ, Tôi muốn yên lòng. *** Kỹ sư Hàn Hiểu hai mươi bảy tuổi, vô tình gặp lại hoàng tử của lòng mình là La Thanh Phong, bạn học thời trung học phổ thông. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã đốt cháy tình cảm kìm nén suốt bao năm nay của cô. Anh là bạn học cùng lớp đã nhiều năm không gặp, tốt nghiệp học viện Mỹ thuật Munich, quay về thành phố T để chuẩn bị mở phòng tranh của mình. Đồng hành cùng anh còn có một người đầu tư vào phòng tranh, đó là Vu Dương, người Hoa kiều, sinh ra trong một gia đình rất có thanh thế, em họ của Hình Nguyên. Vu Dương và La Thanh Phong thân thiết nhiều năm, đã ngầm được coi là một đôi sắp kết duyên phu thê nên không có cảm tình với các cô gái xuất hiện quanh anh. Hàn Hiểu cũng vì cô ấy mà tiến thoái lưỡng nan trong chuyện tình cảm với anh. Còn La Thanh Phong qua mỗi lần tiếp xúc với Hàn Hiểu lại nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Vu Dương không vì thế mà cam lòng để mất La Thanh Phong, cô không ngại mượn những thế lực hắc ám hỗ trợ gia đình mình, bắt đầu phá hoại công việc làm ăn của phòng tranh để uy hiếp anh. Anh họ của cô là Hình Nguyên, một người có xuất thân phức tạp trong dòng họ Vu lại theo đuổi Hàn Hiểu. Lúc đó, Hàn Hiểu bị trợ lý mới đến phòng thực nghiệm là Lý Nam bày kế hãm hại, gặp phải sai sót lớn trong công việc nên không thể không từ chức. Sau khi thất nghiệp, vì vấn đề giới tính nên cô không thuận lợi khi tìm việc mới. La Thanh Phong có quen biết rộng rãi nên giới thiệu cô với trưởng bộ phận kỹ thuật của Hải Công là Lưu Đông Pha. Lưu Đông Pha hiểu được tài năng của cô, mời cô làm kỹ sư máy móc tại bộ phận kỹ thuật của Hải Công. Ở vị trí mới, công việc đầu tiên của Hàn Hiểu là rời khỏi lục địa, cùng đồng nghiệp tiến hành nghiệm thu, kiểm tra các vấn đề về kỹ thuật. Một trận bão đột ngột đến, trong tình hình cấp bách, Hàn Hiểu chỉ còn cách cùng các nhân viên kỹ thuật khác chống lại thời tiết khắc nghiệt, cùng nhau bảo vệ tài sản quốc gia. Hàn Hiểu bị thương nặng, sau khi thoát chết lại tiếp tục rơi vào “vụ bắt cóc” mà Hình Nguyên và Vu Dương cố ý tạo ra. Trong những ngày đợi Hàn Hiểu quay về, mẹ của La Thanh Phong biết mối tình mới của con trai mình, không vừa lòng nên nói lời không hay với bố mẹ của Hàn Hiểu, vì thế La Thanh Phong nói lời xin lỗi với ông bà Hàn, điều đó khiến cho Hàn Hiểu sau này biết chuyện cảm thấy rất đau lòng. Trong những ngày ở bên Hình Nguyên, cô cảm động trước sự chăm sóc tận tình của anh. Khi tình cảm giữa hai người có những biến chuyển tốt, một việc bất ngờ khác lại xảy ra khiến cho tình cảm của họ bị rạn nứt… Giữa một người mình đã hâm mộ từ rất lâu và một người thật sự có tình cảm với cô, giữa yêu và được yêu, Hàn Hiểu có thể phá tan lớp mây mù để đưa ra sự lựa chọn đúng đắn không?   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Không Trốn Chạy của tác giả Kinh Hồng.
Thành Trì - Archibald Joseph Cronin
The Citadel (THÀNH TRÌ) kể về Andrew Manson – một bác sĩ trẻ vừa ra trường – háo hức với những lý tưởng tốt đẹp về nghề nghiệp lãng mạn này - và cuộc chiến chống lại hệ thống y tế bảo thủ, lạc hậu với những cung cách chữa bệnh dựa theo chủ nghĩa kinh nghiệm, nặng về lý thuyết sách vở không chỉ ở những vùng xa xôi hẻo lánh ở xứ Wales mà còn ở những bệnh viện, phòng khám ngay tại London – thủ đô nước Anh vào những năm 20, 30 của thế kỷ 20. Câu chuyện bắt đầu tại Drineffy – một thị trấn mỏ ở South Wales – nơi Andrew bắt đầu công việc với tư cách một bác sĩ đa khoa, ngay sau khi vừa ra trường, với những bệnh nhân đầu tiên; những nỗ lực và bất lực đầu tiên trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân vì những kiến thức khô cứng và hạn hẹp gò trong các sách giáo khoa và dược điển mà anh đã học ở trường; những cảm xúc tinh khôi mới mẻ về tình yêu đầu tiên với cô giáo trẻ Christine Barlow và tình đồng đội với Phillip Denny – một bác sĩ ngoại khoa tài năng với một trái tim nhân hậu ẩn dưới vẻ ngoài cộc cằn và thái độ mỉa mai với hệ thống y tế cổ lỗ của nước Anh lúc đó, đầy rẫy những thầy thuốc bất tài chỉ giỏi lừa bịp bệnh nhân… Tiểu thuyết này đã từng thu hút rất nhiều độc giả Việt Nam nhiều năm về trước, không chỉ hấp dẫn về những tình tiết đi sâu vào mặt trái của nghề y và hệ thống y tế của nước Anh những năm đầu của thế kỷ 20, nó còn thu hút ở câu chuyện tình yêu nhiều bi kịch của nhân vật chính – bác sĩ Andrew Manson, ở chính lý tưởng và cả sự chao đảo về lý tưởng của anh khi phải đối mặt với những quy chuẩn giá trị của xã hội và đồng nghiệp thời đó về chính nghề nghiệp cao quý này. Hơn nữa, dù bản thảo của truyện tiểu thuyết này đã được viết ra gần 80 năm, nhưng nhiều vấn nạn về nghề y được nêu ra từ lúc đó, nay đọc lại vẫn còn thấy rất gần gũi với người đọc Việt Nam, khi so sánh với thực trạng hành nghề y ở khá nhiều vùng miền ở nước ta hiện nay. *** Tác giả Archibald Joseph Cronin là một bác sĩ trở thành nhà văn. Quãng đời bác sĩ của ông có những chặng đường giống nhân vật En- đru Men-sân. Tốt nghiệp đại học y khoa, ông về làm việc tại một vùng mỏ miền Nam xứ Uên rồi ra Luân Đôn ở hơn mười năm. Sau đó tình hình sức khỏe buộc ông phải từ bỏ nghề y. Trong những năm làm bác sĩ, Cronin đã có dịp tìm hiểu cuộc sống và lao động của những người thợ mỏ, và đồng thời nhìn thấy tường tận những mặt trái của ngành y ở nước Anh. Những cảm xúc và những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian đó thôi thúc ông viết và chúng đã đem lại cho tác giả những trang sách vô cùng chân thực và sinh động. Tác phẩm đầu tay “Lâu Đài Người Bán Nón”, ra đời năm 1931, đã đưa ngay Cronin lên một vị trí nổi bật trên văn đàn. Tiếp đó là các cuốn “Dưới các vì sao” (1935) và “Thành trì” (1937). Các tác phẩm của Cronin đều đậm tính hiện thực, chan chứa tình cảm nhân đạo và giàu tình tiết hấp dẫn. Một nhà phê bình văn học đã gọi ông là “Charles Dickens mới của Anh" *** Vào một buổi chiều tà tháng mười năm 1921, trên con tàu vắng tanh chạy từ Xoan- đi đang nặng nề trườn mình leo dốc ngược thung lũng Pi-no- Oen, ở toa hạng ba có một người trai trẻ, quần áo xuềnh xoàng, mắt đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ. En- đru Men-sân đã đi đường suốt cả ngày hôm nay từ miền Bắc, đến Ca-lai và Sơ-ru-bơ-ri thì chuyển tàu, thế mà sang chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình buồn tẻ đưa anh đến miền Nam xứ Uên, anh còn thấy trong lòng bồn chồn háo hức hơn khi nghĩ đến công việc anh sắp nhận tại mảnh đất xa lạ, gớm ghiếc này. Đây là việc làm đầu tiên trong đời bác sĩ của anh. Bên ngoài, trời mưa xối xả che mờ những dãy núi dựng đứng hai bên con đường sắt đơn tuyến. Ngọn núi chìm vào trong bầu trời trống rỗng nhờ nhờ xám, còn sườn núi loang lổ những miện giếng mỏ như những vết sẹo chạy dốc xuống thành một mảnh màu đen ảm đạm, thê lương, nham nhở những bãi xỉ quặng kết sù, bên trên có vài ba con cừu bẩn thỉu vơ vẩn tìm mãi không được một ngọn cỏ. Chẳng có một lùm cây, một túp cỏ nào. trong ánh sáng nhợt nhạt đang tối dần, những thân cây trông giống như những bóng ma khẳng khiu, còi cọc. Đến một chỗ ngoặt, ngọn lửa đỏ rực của một xưởng đúc loé lên chiếc sáng một đám thợ mình trần, lưng vươn dài, tay quai tay búa. Tuy cảnh ấy vụt biến đi ngay đằng sau những công trình hỗn độn trên mặt đất của mỏ, song nó vẫn để lại một cảm giác mãnh liệt, căng đầy sức sống. En- đru hít một hơi dài. Trước cảnh tượng ấy, anh bỗng thấy trong người trào lên một nguồn nghị lực, tràn ngập một cảm giác hân hoan nẩy sinh từ niềm hy vọng và hứa hẹn của tương lai. Nửa giờ sau, trời tối hẳn càng làm cho cảnh vật thêm xa lạ và hoang vắng, con tàu hổ hển vào Blây-nen-li, thị trấn tận cùng của thung lũng và cũng là ga cuối cùng của tuyến đường. Thế là cuối cùng anh cũng tới nơi. Tay xách va-li, En- đru nhảy xuống tàu, rảo bước đi hết ga, nhớn nhác xem có ai ra đón không. Ở cổng ga, dưới một ngọn đèn chao đi chao lại trước gió, có một ông lão mặt vàng ệch, đội chiếc mũ vuông cạnh và mặc chiếc áo mưa dài thườn thượt đang đứng đợi. Ông lão nhìn En- đru xoi mói, hỏi với giọng khó chịu: - Ông là phụ tá mới của bác sĩ Pây-giơ phải không? - Vâng. Tên tôi là Men-sân, En- đru Men-sân. - Hừ! Còn tôi là To-mớt. “Lão to-mớt”, ai cũng gọi như vậy, mặc xác họ. Tôi đưa xe đến kia kìa… Lên đi… trừ khi ông muốn lội nước thì không kể. En- đru quẳng va-li vào trong xe, rồi trèo lên chiếc xe ọp ẹp đóng một con ngựa đen đủi, cao lêu nghêu, gầy giơ xương. Lão To-mớt bước lên theo, cầm lấy dây cương và thét: - Đi nào, Tép-phi! Chếc xe lăn bánh qua thị trấn. En- đru cố gương mắt nhìn xem thị trấn này như thế nào, nhưng qua màn mưa chỉ thấy lờ mờ những dãy nhà thấp lè tè, xám xịt, nối đuôi nhau dưới chân dưới ngọn núi cao ngút lúc nào cũng sừng sững trước mắt. Lão xà ích già lặng thinh không nói một câu nào đến mươi phút, chỉ liếc đôi mắt gườm gườm từ dưới vành mũ lõng tõng mưa nhìn En- đrụ Trông lão không có một vẻ gì giống người đánh xe ngựa bảnh bao của một bác sĩ làm ăn khấm khá. Lão bé loắt choắt, lôi thôi lếch thếch, người lúc nào cũng xông ra một mùi khét lèn lẹt. Mãi sau lão mới nói: - Vừa mới nhận bằng xong phải không? En- đru gật đầu. - Biết mà. – Lão To-mớt nhổ nước bọt đánh toẹt một cái. Lão thấy mình đoán trúng nên ham nói chuyện hơn, giọng ồ ồ – Người phụ tá cũ vùa mới bỏ đi cách đây hai hôm. Nói chung, chẳng ai chịu ở lại. - Sao thế? – Tuy băn khoăn nhưng En- đru vẫn mỉm cười. - Một là vì quá nhiều việc, chắc thế. - Vì sao thế? - Rồi sẽ biết! Một lát sau, như một người hướng dẫn khách du lịnh giới thiệu một nhà thờ to đẹp, lão To-mớt giơ chiếc roi đánh ngựa chỉ về một phía cuối một dãy nhà, chỗ một khung cửa nhỏ có ánh đèn phả ra một đám hơi nước. - Kia kìa, thấy không? Đấy là cửa hàng khoai rán của tôi. Bà lão nhà tôi ở đấy. Mỗi tuần rán khoai hai lần. Có cả cá nữa. – Một sự thích thú ngần nào đó làm méo xệch chiếc môi trên dài của lão – Rồi thể nào ông cũng mò đến đó ngay mà. Phố chính đến đây là hết. Rẽ sang một ngách phố bên cụt lủn, gồ ghề, chiếc xe lọc cọc chạy qua một bãi đất trống rồi ngoặc vào một lối đi hẹp của một ngôi nhà đứng tách biệt với những nhà bên cạnh, đằng sau ba cây thông Nam Mỹ. Ngoài cổng treo chiếc biển đề “Brin-gao- Ơ” ... Mời các bạn đón đọc Thành Trì của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.
Đánh Cược Với Tình Yêu - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Diane Benchley và Oliver Warren từng có một mối tình đẹp như mơ ở Vienna. Nhưng câu chuyện cổ tích đột ngột kết thúc khi Oliver bỏ đi không rõ lý do. Oliver lúc đó chỉ là một kẻ tay trắng, kiếm tiền bằng cách chơi cờ bạc bịp trên khắp các sòng bài. Anh sợ rằng, mình sẽ phải lòng người phụ nữ quyến rũ, giỏi giang này và không kiềm được ý muốn kết hôn với cô. Anh không muốn đến với cô khi chẳng có gì chắc chắn để đảm bảo cuộc sống của hai người. Nhưng anh không ý thức được rằng, nỗi khổ tâm của anh, sự ra đi đường đột của anh đã giết chết một phần con người Diane.  Oliver quay về London, xin lỗi người bác già cả cho những lầm lỡ trước kia của mình, thừa kế tước hiệu Hầu tước Haybury và quyết tâm làm lại một cuộc đời mới. Nhưng số mệnh không tuân theo sự sắp đặt của anh. Oliver ý thức được điều đó ngay từ khi nghe tin Diane Benchley trở về Anh quốc. Cảm giác day dứt và vấn vương khiến anh buộc phải đi theo tiếng gọi của trái tim mình. Haybury chấp nhận trở thành cộng sự kinh doanh của Diane, tham gia vào kế hoạch điên rồ đầy mạo hiểm của cô. Diane luôn cho rằng, bài bạc đã lấy đi nhiều thứ quý giá của mình. Và như một lời thách đố với số phận, cô quyết tâm chọn cách mở một sòng bài. Sự thành công của cô sẽ giống như một chiến thắng vẻ vang trước quá khứ chua xót luôn làm cô day dứt. Nhưng, Diane dù thông minh đến mấy cũng thiếu kinh nghiệm quản lý một sòng bạc, còn Oliver lại thừa hiểu biết về lĩnh vực này. Cô buộc phải tìm đến anh, vừa để thực hiện kế hoạch kinh doanh mình nung nấu, vừa như một cách "trêu ngươi" tình cũ - kẻ mà cô tuyên bố đã chẳng còn chút vấn vương nào. Trải qua nhiều sóng gió, Diane ngây thơ đã biết cách dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điểm yếu duy nhất của cô, đó chính là sự lỡ nhịp của trái tim. Oliver và Diane tưởng đã mất nhau, nhưng hai người đã "đánh cược" cả trái tim vào đối phương. Nhờ đó, họ tìm được hạnh phúc viên mãn. Đánh cược với tình yêu không chỉ kể câu chuyện lãng mạn, đó còn là thông điệp về lòng vị tha trong tình yêu. *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Trên thế giới này có rất ít chuyện có thể khiến Oliver Warren, Hầu tước Haybury, giật mình. Thực tế là anh có thể đếm những chuyện đó trên đầu ngón tay của một bàn tay. Như tiếng tru tréo của lũ trẻ con. Tiếng cọ xát của kim loại han rỉ. Và tên của người đó. Vẫn ngồi bất động, anh ngước lên, quên béng chồng phỉnh bạc (1) giữa ngón tay mình. “Anh vừa nói gì?” James Appleton ngồi bên trái anh liền gật đầu. “Tôi đã nghĩ nhà Benchley sẽ tìm ra cách giữ lại trang viên đó, dù gì nó cũng là tài sản của gia tộc từ rất lâu rồi. Nhưng giờ bà quả phụ đó đã mở cửa lại Dinh thự Adam House cũ. Theo tin tức tôi nghe ngóng được thì cô ta chỉ vừa mới đến tối qua. Dù sao thì cũng hơn ba năm mới có người đến sống ở đó.” Oliver đặt cược lên con ba bích, tập trung vào ván bài trong lúc người chia bài lật con bốn, con chín và con Q cơ. “Hừm”, Oliver nói, anh cho rằng sự quan tâm nhạt nhẽo sẽ là phản ứng thích hợp đối với những tin đồn vô thưởng vô phạt thế này. “Phu nhân Cameron. Cô ta đã đến lục địa rồi phải không? Cô ta tên gì ấy nhỉ? Marianne à?” “Diane.” Appleton sửa lại, cuối cùng nhận ra mình đã thua khi đặt cược vào con bốn bích. “Khốn thật. Tôi nghe nói là ở Vienna (2) hay Amsterdam gì đó. Tôi đoán là hơn hai năm sau cái chết của Fredrick cô ta cảm thấy nhớ London.” “Có vẻ thế.” Hình ảnh suối tóc đen huyền và cặp mắt xanh lạ lùng xẹt qua tâm trí Oliver trước khi anh kịp gạt đi. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Anh liếc sang anh chàng ngồi phía bên trái. “London hẳn là chán chết ấy Appleton”, anh giễu cợt, “nếu như tin tức hấp dẫn nhất anh nhặt nhạnh được là một quả phụ đang trở lại nhà của người chồng quá cố của cô ta.” Từ phía bên kia bàn, Bá tước Beaumont cười phá lên. “Anh đang vấp phải thời điểm chán nản của mùa vũ hội đấy, Haybury. Chẳng có tin gì thú vị đâu. Tôi nghĩ chúng ta đã không có vụ tai tiếng nào kể từ tháng Giêng, và cũng chẳng ai thèm quan tâm vì có ai ở trong thành phố để buôn chuyện đâu chứ.” Bá tước nâng ly rượu của mình. “Chuyện này mang lại hy vọng sẽ sớm có một trò tiêu khiển đẫm máu.” Oliver nâng ly vì câu nói đó. Bất cứ điều gì giúp anh không phải nghe lại cái tên Diane Benchley chết tiệt từ miệng của ai đó trong sáu tuần tiếp theo sẽ nhận được sự ủng hộ của anh. “Tối nay anh không đặt cược nữa hả Appleton?”, anh khiêu khích. “Chúng tôi có thể cung cấp cho anh một cái khung thêu nếu anh thích tiếp tục líu lo.” Gò má và cổ họng Appleton đỏ lựng. “Tôi chỉ nghĩ chuyện đó thú vị”, anh ta phản bác. “Bá tước Cameron quá cố cùng phu nhân của anh ta chạy trốn khỏi London ngay trước mũi bọn chủ nợ, và giờ cô ta trở về một mình với nửa tá xe ngựa loại lớn nhất – vào lúc nửa đêm.” “Có lẽ cô ta đã tìm cho mình một vị công tước nước Phổ nào đó.” Nhân vật thứ tư trong nhóm, Jonathan Stucliffe, Tử tước Maderlin, rốt cục cũng nhập cuộc. “Theo như tôi nhớ thì cô nàng rất xinh đẹp.” Anh ta vỗ vai Oliver. “Sau đó anh không ở lại London nhỉ? Thực sự anh chưa từng tới Vienna à?” “Đâu đó quanh đấy.” Cái liếc mắt cùng cặp lông mày nhướng cao đã thuyết phục Maderlin buông vai anh ta. “Tôi cũng trở lại trên một cỗ xe màu đen loại lớn nhất đấy Appleton. Của riêng tôi. Anh cũng xì xầm về tôi đấy chứ?” Cuối cùng Appleton cũng toét miệng cười. “Đã và sẽ tiếp tục làm thế. Gần như là liên tục.” “Hay lắm. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để giữ tất cả những kẻ hóm hỉnh bận rộn.” “Đúng đấy!” Ngài Beaumont ra dấu và một gã phục vụ trong bộ đồng phục câu lạc bộ tiến đến rót đầy cốc rượu của anh ta. “Vậy thì anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự yên ả này. Hãy cho chúng tôi một vụ tai tiếng đáng nguyền rủa đi nào, Haybury.” Oliver nghiêng đầu. “Tôi sẽ làm hết sức mình. Đúng hơn là tồi tệ nhất.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ở London. Và anh cho rằng họ sẽ sớm chạm mặt nhau ở một buổi vũ hội nào đó. Xét cho cùng thì Mayfair là một nơi nhỏ bé. Thậm chí còn nhỏ hơn cả Vienna. Anh uống cạn lượng uýt-ki còn lại trong ly và tự rót cho mình một ly khác. Tối nay tên cô ta có lẽ đã khiến anh giật mình, nhưng nếu - khi – anh mặt đối mặt với cô ta, anh sẽ không phải là người giật mình. Không một cái nhăn mặt. Hay một cái nhíu mày nào. Và tốt hơn hết cô ta nên dán kín cái miệng xinh đẹp của mình lại hoặc anh buộc lòng phải làm một việc gì đấy chướng tai gai mắt. “Anh có đặt cược không hả, Haybury?” Manderlin hỏi. “Hay anh đang khâu vá?” Gói ghém những ý nghĩ không dễ chịu lắm cho khoảng thời gian riêng tư sau này, Oliver liếc nhìn những lá bài đã được lật và đặt hai bảng lên con J. Theo kinh nghiệm của anh con J luôn thắng. “Diane, có người muốn gặp cô.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ngước lên từ đống giấy tờ trên bàn làm việc của người chồng quá cố. “Tôi không định gặp ai hết”, cô lầm bầm và tiếp tục chọn lọc các con số thập phân cùng các phép trừ ở mỗi bảng biểu có vẻ nổi bật. “Không có ngoại lệ.” “Tôi biết chứ, thưa cô”, người bạn đồng hành với cô đáp lại, vẫn không rời khỏi cửa ra vào. “Đó là ngài Cameron.” Trong tích tắc, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Diane. Cũng trong khoảng khắc ngắn ngủi đó, mỗi bàn tay cô từng nắm, mỗi làn gió thổi qua eo biển từ Lục Địa hay mỗi tin tức sét đánh nổ ầm trong lồng ngực kể từ khi cô rời Vienna, lại nghèn nghẹn trong cuống họng. Sẽ chẳng có chuyện gì, nếu như…. Lầm rầm nguyền rủa, cô rùng mình. Frederick Benchley đã chết. Hai năm trước. Cô đã ở bên cạnh lúc anh ta trút hơi thở cuối cùng. Cô đã đứng bên phần mộ của anh ta khi hai người làm công đào hố và chôn cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền của anh ta xuống lòng đất. “Vì Chúa, Jenny, đừng doạ tôi chứ”, cô hô to, đặt cây bút chì sang một bên và dùng ngón tay vẫn còn run rẩy của mình để xoa xoa hai bên thái dương. Sự hoảng hốt lướt qua khuôn mặt người bạn đồng hành của cô, Genevieve Martine vội vã bước vào phòng. “Ôi, Chúa ơi. Cô biết ý tôi là Bá tước mới kia mà. Tôi chưa bao giờ nghĩ là…” “Đừng bận tâm, Jenny. Có điều cô đã làm tôi nổi gai ốc đấy. Anthony Benchley đang ở đâu?” “Trong phòng khách buổi sáng (3). Anh ta đòi gặp cô, và sau đó gọi trà.” Diane chống tay lên bàn làm việc, đứng dậy. “Ừm. Chí ít chúng ta có thể phỏng đoán tin tôi trở về London đã nhanh chóng lan xa. Tôi cho là cũng có ý nghĩa đấy chứ.” “Phải đấy, chúng ta có thể tính là một may mắn kể từ lúc trở về đây.” Jenny thở dài. “Và hai tá điều bất hạnh. Tôi nên xếp Ngài Cameron vào mục nào đây?” “Bất hạnh. Nếu có thể cô hãy đi cùng tôi. Tôi muốn dứt khoát với anh ta càng nhanh càng tốt.” “Cô nghĩ anh ta muốn gì?” Genevieve hỏi với âm hưởng Pháp thanh thoát dường như có thể nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ tuỳ thuộc vào tâm trạng của cô ta. ... Mời các bạn đón đọc Đánh Cược Với Tình Yêu của tác giả Suzanne Enoch.