Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Dấu Yêu

Tặng các bạn thích các chuyện tình lãng mạn nhẹ nhàng để qua thời gian stay home chán ngắt trong mùa dịch Covid-19. (Truyện này Sẻ dịch đã lâu và đăng trên trang nhà, định edit xong rồi mới phổ biến ebook. Nhưng bây giờ, tình hình bận rộn và lửa nhiệt tình đã khô cạn nên thôi đành bỏ cuộc.) Nếu các bạn bỏ qua cho một số lỗi khi dịch vội vàng thì đây là một chuyện tình rất dễ thương, đủ để giải trí cho một buổi chiều rảnh rỗi. *** Những lời hứa ngọt ngào… Những mưu chước thâm hiểm… Summer mắt tím chỉ là một cô bé khi cô nghe những lời hứa hẹn ngọt ngào… em sẽ lớn lên, cô gái mùa hè, và rồi anh sẽ đến và đưa em về nhà… Bây giờ cô đã trở thành một vẻ đẹp kiêu hãnh và đã về nhà an toàn giữa những ngọn đồi hoang dã ở vùng biên giới Texas,… ở nhà cùng Slater McLean, một chủ trại đẹp trai khao khát nỗi đam mê trong sự hăng hái ngây thơ của cô… Nhưng một phụ nữ thâm hiểm đã quyết định tiêu diệt tình yêu của họ, chiếm đoạt khỏi Slater những mẫu đất giàu có nhất của vùng Texas. Một phụ nữ với một vũ khí bí mật : một bức thư sẽ khiên Summer ô nhục mãi mãi… *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. *** Ngày thứ Sáu cuối cùng cũng đến. Nó theo sau năm ngày khốn khổ nhất trong cuộc đời của Summer. Hôm nay, vào buổi trưa, nàng sẽ bắt chuyến xe khách sẽ đưa nàng rời khỏi Hamilton mãi mãi. Vào lúc sợi nắng đầu tiên của bình minh vươn đến, nàng ngồi dậy và thay quần áo rồi ngồi bên cạnh cửa sổ. Sau đó, nàng ăn điểm tâm, để lại chiếc khay ngoài hành lang, nàng đóng gói lại hành lý và quay về ô cửa sổ, nơi nàng có thể nhìn thấy Jesse, gã sẽ đến và đưa nàng đến trạm xe khách.   Jesse đã ghé thăm nàng hai lần trong năm ngày vừa qua. Nàng nghĩ nàng sẽ mất trí nếu không có những cuộc ghé thăm của gã. Gã là một người khác biệt hoàn toàn với những gì mà thoạt đầu nàng đã tin. Nàng phát hiện ra gã là một người thật cô độc. Nàng có thể hiểu bằng cách nào Ellen thu phục được nhiều tình yêu và lòng trung thành đến thế từ gã. Cho dù gã không kể với nàng, nàng biết cái chết của Ellen đã cho gã tự do để yêu Sadie. Gương mặt gã thường có nét cười, mang vẻ thiết tha khi gã nói về chị ấy và Mary.   Gã kể với Summer đôi chút về kế hoạch của gã về tương lai. Slater, gã giải thích, giờ đã là chủ nhân của Rocking S. Hắn chắc chắn rằng đó là cách toà sẽ phân xử, vì Slater là người thừa kế duy nhất còn sống trong chừng mực bất kỳ ai biết. Khi mọi thứ đã ổn định, gã và Sadie sẽ kết hôn và bắt đầu xây dựng một nơi chốn ở đâu đó.   “Slater sẽ muốn ông ở lại.” Summer nói.   “Đã đến lúc tôi bắt đầu xây dựng thứ gì đó cho riêng mình,” là lời đáp đơn giản của gã.   Summer tựa đầu vào thành cửa sổ. nàng biết mỗi inch của con đường bên dưới, mỗi mắt gỗ trên vách toà nhà đối diện. Nàng chẳng có gì khác để làm trong năm ngày trống trải ngoại trừ nhìn chằm chằm ra ngoài ô cửa sổ. Nàng không bước ra khỏi phòng, chỉ gặp người chủ khách sạn một lần và đó là khi hắn đặt chiếc khay bên ngoài cánh cửa và nàng nghĩ hắn đã đi rồi, những hắn đang đứng ngoài hành lang đợi nàng ra ngoài để có thể nhìn thoáng qua nàng. Không hiểu sao, vẻ dâm đãng của hắn khiến nàng cảm thấy tội lỗi và không trong sạch.   Bóng đổ trên toà nhà đối diện nói với nàng rằng sẽ không còn lâu nữa đến khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Nàng bắt đầu cảm thấy lo âu. Jesse đã nói gã sẽ đến đây và gã sẽ làm, nàng tự nhủ. Tuy vậy, thời gian như bị kéo dài trong lúc nàng quan sát. Nỗi lo âu khiến nàng xoắn chiếc khăn tay vòng vòng trên những ngón tay, và ngay lúc nàng nhìn thấy gã quành vào góc phố và hướng đến khách sạn, chiếc khăn đã ướt đẫm. Với một cảm giác hết sức nhẹ nhõm, nàng đứng lên và đội nón, ghim nó cẩn thận vào mái tóc bới cao của nàng để gió sẽ không hất nó bay khỏi đầu. Jesse chưa lên ngay và nàng đoán gã sắp xếp với người chủ khách sạn. Nàng lấy tiền mà Slater đã đưa cho nàng ra sẵn và đợi.   “Summer?” Giọng của Jesse.   Nàng mở khoá cửa, “Hello, Jesse.”   “Tiền khách sạn đã được trả rồi, hãy cất tiền của cô đi. Cô sẽ cần nó. Tôi đã có vé cho cô đến Austin, và Bill nói ông ấy sẽ coi chừng cho cô. Đi thôi, ông ấy đang đón khách rồi.” Khi Summer phản đối chuyện tiền nong, gã nói, “Ồ, để sau đi. Sadie và tôi có lẽ sẽ sang Austin. Chúng tôi có thể tìm thấy cô ở đâu?”   “Tôi quyết định sử dụng tên của mẹ tôi. Wheeler. Tôi sẽ để lại lời nhắn tại trạm bưu điện.”   Summer hếch cằm cao lên một chút và vươn thẳng lưng khi họ đi bộ vào trong ánh nắng ban trưa. Jesse nhấc rương hành lý lên vai và đặt một bàn tay bên dưới khuỷu tay nàng. Khi họ đến trạm xe khách, nàng nhận thức rõ về những đôi mắt hiếu kỳ đuổi theo sau họ, và gương mặt nàng bừng cháy. Nàng buộc bản thân chuyển ánh mắt khỏi con đường đầy bụi và nhìn thẳng về phía trước, gương mặt nàng dịu xuống, những cảm xúc như đã bị chôn nén bên trong nàng.   Bill, người đánh xe đã đưa nàng và John Austin đến Hamilton, đang đợi bên cạnh chiếc xe khách. Ông đón hành lý của Summer từ Jesse và nhấc nó lên cho người phụ lái để ràng chúng vào giá để hành lý.   Vì đã đến lúc phải ra đi, Summer muốn níu chặt lấy Jesse. Đọc được suy nghĩ của nàng, vẻ đau đớn trên gương mặt nàng, gã siết chặt cánh tay nàng và khom xuống thì thầm trấn an :   “Rồi sẽ tốt đẹp thôi mà, Summer. Nhớ nhé, nếu mọi thứ chẳng ra sao, hãy viết cho đại uý Slane tại pháo đài. Ông ấy sẽ gởi cho tôi. Nào, cô sẽ làm điều đó chứ?”   Chiến đấu kềm lại nước mắt, nàng gật đầu. “Cám ơn ông.” Nàng thì thầm qua đôi bời môi run rẩy.   Jesse xoay người và nhấc nàng vào trong khoang hành khách, gương mặt của chính gã cũng đang khoác một chiếc mặt nạ để che dấu cảm xúc. Summer ngồi xuống bên cạnh một phụ nữ Mexican ôm một em bé đang ngọ nguậy. Khoang xe đã đầy hành khách; ba người đàn ông và một phụ nữ ngồi bên cạnh người phụ nữ đang ôm đứa bé. Những người đàn ông có vẻ cáu kỉnh vì sự chậm trễ, và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ bực bội. Chiếc roi ngựa quất vun vút, khoang xe tròng trành và bắt đầu lăn bánh. Summer, ngồi ở phía sau cùng, chú mục vào Jesse cho đến khi không còn nhìn thấy gã nữa. Đường mòn chuyển vào một khúc quanh, một đám mây bụi tung mù phía sau họ, và để lại thị trấn phía sau lưng.   Có vẻ như với Summer, nàng chỉ có một mình trong một thế giới cô đơn. Thật ra, nàng chưa bao giờ từng thấy cô độc như nàng đã trải qua năm ngày vừa qua. Trên đường rời khỏi Piney Woods, nàng có John Austin để chăm sóc. Trong chuyến xe tương tự họ đã đi đến Hamilton tìm Sam McLean. Họ đã tìm thấy ông, thật vậy, Sammer chua xót nghĩ.   Sức nóng thiêu đốt bên trong khoang xe. Summer gỡ nón để quạt mát bản thân và luồng gió nhẹ tạo ra đã giúp làm đứa bé im lặng. Nàng cầu nguyện rằng dạ dày của nàng sẽ giữ yên được. Bình thường vào buổi trưa nó sẽ dịu xuống, nhưng hôm nay, nàng đã quá lo lắng khi chờ đợi Jesse đến mức nàng đã lên tục nuốt xuống để giữ cho miệng nàng không lấp đầy nước miếng.   Nàng quan sát những ngọn đồi đang mờ dần nhường chỗ cho màu sắc của ánh dương và bầu trời; quan sát thảo nguyên mênh mông trải dài đến vô tận. Nàng nhìn chằm chằm trở lại đường mòn cho đến khi ánh mặt trời bắt lấy giọt nước ở khoé mắt nàng. Một con đại bàng chuyển động theo đường xoắn ốc bay vút lên trời, vươn thẳng đến vầng thái dương cho đến khi nó chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không bao la. Ồ! để trở thành một cánh chim bằng!   Phần tồi tệ nhất trong nỗi đau của nàng bị vùi sâu phía sau tâm trí và nàng cương quyết không để nó nổi lên bề mặt. Rồi sẽ có tất cả thời gian, bên lề những ảo tưởng, để hành hạ nàng, nhắc nhở nàng.   Họ làm băn toé nước băng ngang qua một con lạch nông và lăn bánh vào trong một điểm dừng. Vì trời quá nóng, Bill nói họ sẽ mất thêm vài phút sau khi những con ngựa mới được móc vào, nếu như có ai muốn được ra ngoài xe. Mọi người đều xuống xe ngoại trừ Summer. Nàng ngồi và đợi, hầu như không nhận thức được rằng lưng váy nàng đã ướt sũng mồ hôi và một dòng suối nhỏ đã chảy giữa đôi bờ ngực. Người phụ nữ Mexican ẵm đứa bé đã mang cho nàng một môi nước. Summer uống một cách khao khát, tham lam và cám ơn người phụ nữ bằng những từ đẫm lệ.   Chiếc xe lăn bánh trở lại, Bill khua vun vút chiếc roi và hét vang với nhóm người mệt mỏi để bắt kịp những phút đã mất. Buổi chiều chậm trôi. Không ai nói chuyện. Đứa bé đã ngủ. Chiếc xe giống như một lò lửa. Summer cảm thấy đầu nhẹ bẫng, giông như nàng đang trôi nổi. Chuyến xe đày ải khiến mọi inch trên con đường để lại dấu vết cơ thể đau nhức của nàng. Nàng tựa đầu ra phía sau và nhắm mắt, trí óc nàng quá kiệt sức để có thể suy nghĩ.   Khi chiếc xe chậm lại và đến một điểm dừng, nàng không bận tâm nhấc đầu lên hoặc mở mắt ra cho đến khi giọng nói của người đàn ông ngồi đối diện bùng nổ.   “Giờ đến chuyện quái gì nữa đây? Chúng ta không bao giờ đi đến nơi với tốc độ như thế này.”   Summer nhìn ra ngoài cửa sổ, nheo nheo mắt lại, nghĩ rằng nàng nhìn thấy Jack đang ngồi trên con ngựa màu nâu đỏ to lớn và nói chuyện với người đánh xe. Nàng chớp mắt vài lần và nhìn lần nữa. Ông ấy vẫn ở đó. Với một ngày cực nóng như hôm nay, trên chuyến xe nóng hầm hập này, nàng cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh đến mức phải nghiến chặt quai hàm để giữ cho đôi hàm răng nàng không khua lách cách. Làm sao điều này có thể xảy ra? Ông ấy không thể biết nàng ở trên chuyến xe này được. Nàng lùi sâu vào trong chỗ ngồi, giữ chiếc nón phía trước như thể để che gương mặt nàng khỏi ánh mặt trời. Nàng cảm thấy chiếc xe đu đưa khi Bill nhảy xuóng khỏi chỗ ngồi trên cao, nghe thấy tiếng cánh cửa khoang hành khách mở ra.   “Thưa cô,” Bill đang nói với nàng, “Jack đây nói rằng ông ấy đến để mang cô ra khỏi xe.”   “Không! Tôi đã trả tiền vé của tôi rồi. Tôi sẽ đến Austin.”   “Điều đó tuỳ thuộc vào cô, thưa cô, cho dù cô muốn đi hay ở lại.” Bill nói cương quyết, và đóng sầm cánh cửa.   Một vài phút trôi qua, và cánh cửa mở ra lần nữa. Jack đứng đó nhìn xuống Summer. Nàng muốn chết cho xong.   “Summer, hãy ra ngoài ngay, để những cư dân này còn đi tiếp. Tôi đến để mang cô về và tôi sẽ không rời đi mà không có cô.”   “Không! Tôi sẽ không ra đâu. Ông không có quyền can thiệp vào.”   “Quỷ thật, không, ông không có quyền. Cô gái không phải đi nếu cô ấy không muốn.” Lời nói vang đến từ một người đàn ông bên trong chuyến xe.   Jack phớt lờ ông ta. “Tôi sẽ bớt được cả đống rắc rối nếu cô chịu bước ra. Hãy làm điều đó, hoặc là những cư dân đây sẽ phải đợi cùng với cô.”   “Hãy để tôi một mình, Jack. Tôi sẽ không trở lại đâu, vì thế hãy đi đi và để tôi một mình.” Cơn giận và sự bẽ mặt khiến nước mắt tuôn chảy như suối từ mắt nàng.   Jack bước lui và ra hiệu cho Bill rời khỏi xe. Khi họ quay lại đối mặt với nhau, khẩu súng lục của Jack chỉa thẳng vào bụng ông ấy.   “Cái gì… cái gì thế này?”   “Tôi chắc chắn rất ghét làm điều này, Bill, nhưng chẳng còn cách nào khác hết. Có một người đàn ông đang đến chỉ còn cách đây vài dặm. Cậu ấy ở trên một chiếc xe thồ, bị xóc nảy ngang qua những vệt lún bánh xe và những lỗ chó thảo nguyên từ hai giờ trước khi trời rạng đông. Cậu ấy có hai lỗ đạn trên người, vài rẻ xương sườn bị gãy và đôi bàn tay chẳng thể tự ăn được trong một tuần. Cậu ấy đang đến để gặp cô gái đó và ông sẽ không đi đâu hết cho đến khi cậu ấy đến đây.”   “Ông biết là ông đang đưa bản thân vào rắc rối khi chỉa một khẩu súng vào tôi, Jack. Công việc của tôi là đưa chuyến xe này đến Austin. Nếu cô gái bé nhỏ đó và người đàn ông của cô ấy hục hặc thì đó chuyện của họ. Pháp luật có thể giáng xuống khó khăn thật sự trên ông đấy, Jack, vì tội đã chặn chuyến xe.”   “Vậy thì cứ làm đi, bởi vì tôi sẽ chặn xe ông ở đây cho đến khi Slater đến. Không lâu lắm đâu. Tôi đã thấy đám bụi mù của họ kia rồi.”   “Các ông đang làm gì vậy? Băng ngang vùng quê ư? Đó là một chuyến đi địa ngục.”   Jack cười toe toét. “Hãy nói người phụ xe kéo chiếc xe đến chỗ bóng râm trong lúc chúng ta đợi.” Với khẩu súng của mình, ông ra hiệu về hướng cây hồ đào trải rộng mà một trong số chúng vươn dài theo con đường không chút bóng mát.   “Kéo xe qua bên dưới bóng cây đi, Gus. Chúng ta sẽ đợi một lúc nếu quý cô này không đổi ý, thế thôi. Các hành khách có thể bước ra ngoài và duỗi chân tay.”   Người phụ xe nghiêng người qua để gọi Summer, rồi hét lại với Bill. “Người phụ nữ nói không, Bill.” Chiếc xe di chuyển đến bóng râm.   “Phụ nữ chết tiệt! Rất mừng là tôi đã không cưới ai.” Bill nguyền rủa, lấy chiếc mũ đầy bụi của ông ta xuống và đập đập nó vào đùi.   “Điều đó sẽ không kéo dài đâu, Bill. Ông và Slater sẽ phải dịu xuống thôi. Hẳn là có gì đó sai với cái miệng của cậu ấy rồi. Chưa bao giờ nghe nhiều lời nguyền rủa như thế tuôn ra từ nó trước đây. Cơn choáng của cậu ấy đã bị nén lại kể từ khi cậu ấy nghe được chính Jesse đã đặt cô ấy lên chuyến xe khách. Chuyến đi xóc này chẳng làm cho tâm trạng của cậu ấy tốt lên được chút nào, ngay cả khi chúng tôi đã cố định sợi dây treo trên chiếc xe thồ và đặt chiếc giường lông vũ vào đó.”   Ba người đàn ông và người phụ nữ ra khỏi xe, để lại Summer một mình với người phụ nữ có đứa bé. Những cánh cửa để mở và luồng gió nhẹ có phần làm mát họ đôi chút. Summer lau gương mặt nàng bằng chiếc khăn tay ướt sũng. Người phụ nữ giơ một bàn tay rụt rè chạm vào đầu gối nàng. Hành động thương cảm ấy khiến nàng ngước đầu lên. Jack không có quyền bắt họ phải đợi như thế này, khi cho rằng nàng sẽ đổi ý. Nàng đã bảo ông như thế. Nàng nhìn quanh để có thể thấy ông và nghĩ rằng hẳn là nàng đã mất trí. Có phải Jack đang chỉa súng vào người đánh xe không? Chúa lòng lành, ông ấy đã làm thế! Điều gì đang xảy ra? Thế giới điên hết rồi sao?   “Jack! Jack, ông đang làm cái gì thế?” Nàng trèo ra khỏi xe, gần như vấp ngã vì vội vàng. “Hãy để ông ấy đi. Ông không có quyền giữ ông ấy! Để tôi nói…”   Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Miền Thơ Ấu
Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. Mã hàng 8936144200162 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả Vũ Thư Hiên NXB NXB Đà Nẵng Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 320 Kích Thước Bao Bì 13 x 20.5 Số trang 300 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Miền Thơ Ấu Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. *** LỜI NÓI ĐẦU Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Nó ra đời như một may mắn không ngờ, như nhờ một phép màu. Đối với tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Mùa đông năm 1967 là một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà phu quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà tù. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối sà xuống những vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim gây nên một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt mà thả hồn về quá khứ, tự hứa thể nào rồi mình cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế". Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không bao giờ ngờ tới. Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Án có thể ngắn, có thể dài, nhưng họ sẽ được trở về khi mãn hạn. Những người tù chính trị, lại là thứ có tên gọi mỹ miều là “xử lý nội bộ”, thì không thể có xử, cứ việc nằm đấy, không chờ. May cho tôi, ở trại này trong một lần "tiếp tế" vợ tôi lén lút giúi cho tôi một cây bút bi Trung Quốc hai màu. Tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút. Vợ tôi biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy nhưng đã mang nó cho tôi, tôi sẽ có cách giấu. Tôi vờ xin đi vệ sinh, ở đó tôi kín đáo phá nát cây bút quý giá ấy, chôn những mảnh vỡ của nó xuống đất, rồi luồn hai cái ruột bút bi vào nẹp áo bông để mang vào xà lim. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế" (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì tuồn cho mẹ tôi, vợ tôi mang ra. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại khá dày cũng gây ra mối lo. Mà những cuộc gặp lại khôngcó kỳ có hạn, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim trại Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc. Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở trại Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ý nghĩ ngu ngốc. Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn. Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người trong họ ngoài làng sẽ nhận ngay ra người quen khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó việc sản xuất hàng hoá liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế. Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Xét Lại Hiện Đại, một Nhân văn-Giai phẩm, chiếm hai giải thưởng nhất nhì trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói". Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai ắt bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc nó được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần... So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản sau ở hải ngoại không thiếu giấy nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một lần xuất bản khác, hoặc một chỗ khác. Câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant-Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!" Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, ở một miền thơ ấu của mỗi chúng ta. VTH.   Mời các bạn đón đọc Miền Thơ Ấu của tác giả Vũ Thư Hiên.
Đứa Con Đi Hoang Trở Về
Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… Mã hàng 8936144200254 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả André Gide NXB NXB Văn hóa văn nghệ Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 100 Kích Thước Bao Bì 12 x 18 Số trang 68 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… *** ĐỨA CON ĐI HOANG TRỞ VỀ - Review từ bạn Twineaquarius (Goodreads) "Con người ta cần có một mái nhà nghỉ đầu trong đó. Kiêu căng nào! Con tưởng ngủ giữa gió lặng được sao?" "Vì tôi đây sống trong vòng trật tự; cái gì khác với trật tự đều là kết quả của kiêu căng hoặc mầm mống của kiêu căng" #Đứa_con_đi_hoang_trở_về #AndréGide Lấy cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh thánh Tân ước, André Gide viết Đứa con đi hoang trở về với góc nhìn đa chiều hơn những điều Kinh Tân ước đưa ra trong dụ ngôn. Gần gũi, thực tế và quan điểm của mỗi nhân vật trong dụ ngôn đều được André Gide thể hiện trọn vẹn qua bốn cuộc hội thoại giữa Đưa con đi hoang và gia đình. Dụ ngôn Đứa con hoang đàng được ghi và để truyền giảng vào Thứ Bảy sau Chúa nhật II Mùa Chay, nhằm nổi bật lên Thông điệp Tình yêu và ân điển của Thiên Chúa được ban cho vô điều kiện (trích wikipedia). Dụ ngôn không đề cao việc một người chăm chỉ ngoan đạo làm ăn, hết lòng vì "ngôi nhà" (người anh cả), mà để cao hành động quay đầu lại trong ăn năn hối cải thì sẽ được hưởng sự bao dung. Có lẽ dụ ngôn có khá nhiều điểm tương đồng với một xã hội đề cao nền tảng gia đình của người Châu Á. Đối với tác phẩm Đứa con đi hoang trở về của André Gide, ngoài câu chuyện chính về sự trở về của Đứa con (Đãng tử), với bốn phân đoạn hội thoại giữa Đãng tử với Cha, Anh cả, Mẹ và Người em là câu chuyện của Đãng tử với quyết định ra đi, là cái nhìn của mỗi người với hành vi từ bỏ "ngôi nhà" của Đãng tử. Về phần này André Gide còn thành công hơn cả khi khiến mình phải suy nghĩ nhiều về hình ảnh Đứa con vì sao muốn ra đi, vì sao sống trong sự chở che của "ngôi nhà" nhưng anh lại quyết tâm từ bỏ, vì sao quãng đời từ bỏ anh lại quay về, và khi quay về điều gì khiến anh ăn năn hối hận với quyết định đó. Mình cực thích phân đoạn hội thoại giữa người em và Đãng tử. Nó giống như sự tiếp nối, nhưng ở một phương diện trọn vẹn hơn. Ví như Đãng tử mang toàn bộ tài sản được chia cho để ra đi thì người em lại sẵn sàng "ra đi không có gì hết", và chính vì như thế lại có khi hay hơn. Hình ảnh Đãng tử nhìn về Khu vườn nơi an nghỉ của họ hàng và Hình ảnh Người em kêu Đãng tử dìu ra khỏi cửa, mang theo "tất cả hy vọng của anh" thực sự khiến mình cảm động. Bởi mình cảm thấy giống như việc bao bọc được chuyển biến thành tin tưởng, như việc giao cho người ta cần câu chứ không phải con cá. Từ sự trở về của Đãng tử đến bước ra đi của người em là hai thế hệ, hai luồng tư duy hoàn toàn khác và tốt lên rất rất nhiều. Thêm một phần nữa ấy là lời bạt của dịch giả Bửu Ý cũng quá ấn tượng. "Trở về là thất bại của đứa con đi hoang, nhưng là một thất bại động lòng người... Có ra đi, đến khi trở về, hắn mới biết mình không phải là người sinh ra cho những cuộc ra đi...Hắn bây giờ hy vọng cho người khác." Phải nói đọc Đứa con đi hoang trở về mới thấy đôi khi giá trị một cuốn sách không nằm ở việc thậy dày, thật nhiều trang nhiều chữ. Một cuốn sách cực mỏng, có khi chỉ cần 15p đọc nhưng lại mang đến quá nhiều tư tưởng hay ở trong đó. Đúng là đáng đồng tiền bát gạo mà!" ***     Image Tôi vẽ lại đây, thể theo niềm vui thầm kín của mình, tương tự như ngươi đời thực hiện trên các họa bản tam bình, lời ngụ ngôn mà Đức Chúa Giêsu đã truyền thuật cho chúng ta. Mặc đôi đường hứng cảm sinh động lòng mình phân tán trà trộn vào nhau, tôi không tìm cách minh chứng một đấng nào vượt thắng tôi - mà cũng không minh chứng rằng tôi vượt thắng. Song le, nếu độc giả buộc tôi có lòng hiếu hạnh, cũng có thề độc giả sẽ không hoài công tìm kiếm lòng hiếu hạnh ấy trong bức tranh tôi, nơi đây khác nào người tặng tranh tại vị ở góc tranh, tôi đã phủ phục quỳ gối, đối diện với tên đãng tử, giống như nó, tươi cười mà mặt đầm đìa nước mắt. Image Đứa Con Phóng Đãng   Sau một thời gian vắng mặt lâu dài, mỏi mệt theo cao hứng nhất thời và chừng như đã qua thời luyến ngã, thằng con phóng đãng, giữa tình cảnh xác xơ mà hắn chọn tìm, chạnh lòng nhớ tới nét mặt cha, nhớ căn buống ấy, một căn buồng không chật hẹp, nơi mẹ đến lom khom trên giường hắn, nhớ khuôn viên tưới mát bằng nước chảy thông, nhưng bịt bùng, mà hắn luôn muốn thoát ra, nhớ người anh cả cần kiệm hắn chẳng hề yêu, nhưng người anh trong khi chờ đợi hiện còn nắm giữ phần của cải mà hắn vì phóng đãng nên không thể tiêu pha – thằng con nhìn nhận chẳng tìm được hạnh phúc mà cũng khó thể kéo dài lâu thêm cơn mê say này nữa mà hắn truy tầm đền bù lấp vào hạnh phúc khiếm khuyết.— Hỡi ôi! Hắn nghĩ, ví thứ ban đầu cha ta giận dỗi ngỡ ta chết mất rồi, e có lẽ, dù ta có tội đấy, người cũng hoan hỉ thấy lại ta chứ lẽ nào. Ôi! Về lại với người vô cùng bé nhò, vẩng trán ta gầm xuồng phủ đầy tro than, nếu ta cúi đầu trước mặt người, thưa gửi: “Lạy cha, con trót phạm tội nghịch ý trời ý cha”, ta sẽ xứ trí ra làm sao đây nèu người đưa tay nâng ta dậy, bảo: “Vào nhà đi con”, làm sao?... Thế là đứa con bắt đầu nhắm đường đi tới, thiện tâm từ tính. Image   Khi khuất bóng ngọn đồi, đáo cùng hắn nhác thầy lớp lớp mái nhà khói tỏa, ấy là về chiều; nhưng hắn còn đợi bóng đêm hầu che đậy phần nào cảnh cùng xúc của mình. Hắn nghe ra xa xa giọng nói người cha; gối quỵ ngã: hắn vật mình lấy tay che mặt, bởi tủi hổ thấy mình tủi hổ, đành rằng hắn là con chính thức. Hắn đói; trong nếp áo bành tô thủng nát, còn đâu vỏn vẹn nẳm hạt dẻ ngọt bùi hắn quen dùng làm lương thực, giống y như đàn lợn con hắn chăn giữ. Hắn hình dung những đồ gia vị bữa ăn khuya. Hắn nhận ra mẹ đi tới trên thềm... Không kềm lòng được nữa, hắn chạy dốc xuống đồi, tiến vào sân nhà, con chó không nhận ra hắn, lên tiềng sủa. Hắn muốn ngỏ lời cùng bọn nô bộc, nhưng bọn này nghi ngại lánh xa, đi thưa báo cho chủ; đây ông chủ. Có lẽ ông vẫn trông thằng đãng tử, vì ông nhận hắn ra ngay. Ông giang tay; đứa con trước mặt bây giờ sụp gối, và cánh tay bưng lấy trán, hô hoán cùng cha, hắn đưa bàn tay mặt hướng tới lòng ân xá: - Lạy cha! Lạy cha, con phạm trọng tội nghịch ý trời ý cha; con không còn đáng được cha gọi tới tên; nhưng may ra, cầm bằng như đứa tôi tớ, tôi tớ mạt hạng, cha hãy rủ lòng cho con sống trong xó nhà... Người cha nâng hắn dậy và vồn vã: - Con của cha ôi! trời run rủi cho ngày con vể lại với cha! - và niềm vui sướng của người, rào rạt tràn lòng, chảy thành nước mắt; người cứ đẩu lên khỏi vầng trán con, người hôn lên đó, quay sang bọn gia nhân: - Chúng bây đem chiếc áo nào đẹp nhất ra đây; đi giày vào chân cho cậu, đeo nhẫn quý vào ngón tay cậu. Chúng bây tìm trong các chuồng coi con bê nào béo nhất làm thịt; sửa soạn một bữa lạc yên, bởi đứa con trước kia ta bảo từ trần nay còn sồng. Và vì tin đã lan truyền, người cha chạy đi, không chịu để một ai khác nói: - Mẹ nó ơi, đứa con ta khóc thương đã được trả về cho chúng ta. Niềm vui của hết thẩy mọi người dâng dậy tựa hồ khúc nhạc khiến người con trưởng đăm chiêu. Anh ngổi chung bàn ư, là bởi tại người cha mời mọc hối thúc anh buộc lòng anh ngói đây thôi. Mình anh giữa đông đủ thực khách, vì cho chí tên tội tớ hèn mọn nhất cũng được mời vào, anh để lộ vầng thiên đình thịnh nộ: đối với tên hối tội, cớ sao lẳm vinh dự thế này hơn là đối với chính anh, là kẻ chưa từng phạm tội? Anh chuộng trật tự nghiêm minh hơn tình yêu thương. Anh chịu ra mặt trong bữa tiệc, chẳng qua là vì, nhượng thằng em, anh có thể cho nó vui mượn một tối; phương chi song thân cùng hứa với anh ngày mai sẽ khiển trách tên phóng đãng và chính anh cũng sẵn sàng thuyết giáo nó nghiêm túc. Các đuốc lửa thở khói lên trời. Bữa ăn đã tàn. Bọn gia đinh dọn dẹp xong. Bây giờ; trong đêm khuya không có lầy một hời thoảng vào trối dậy; ngôi nhà mê mỏi, người lại người, sẽ ngủ nghê. Song, bên trong căn buồng kê cận buổng tên phóng đãng, tôi biêt có một đứa con, thằng em nó, trọn đêm chí hừng sáng, sẽ không tài nào dỗ giấc.   Mời các bạn đón đọc Đứa Con Đi Hoang Trở Về của tác giả Andre Gide & Bửu Ý (dịch).
Mùa Hè Đỏ Lửa
Mở đầu Mùa Hè Ðỏ Lửa, nhà văn Phan Nhật Nam viết: Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Ðã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Ðông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Ðất Ðỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. *** Theo tự thuật, vào thời điểm khởi thảo - tháng 04 năm 1972, tác giả theo Lữ đoàn II Nhảy Dù đổ bộ xuống đồi Charlie (nơi được lính đặt biệt danh "nồi cơm điện National" vì mức độ quyết liệt) nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế qua quốc lộ 14 của các sư đoàn cộng quân. Sau đó, nhân vật xưng Tôi lại theo nhiệm vụ tiếp ứng Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến giải phóng quốc lộ 1 và toàn tỉnh Quảng Trị tới hết tháng 03 năm 1973. Tác phẩm được gửi in tại nhà Sáng Tạo ở đô thành Sài Gòn trong năm 1973 và liên tục được các san hành xã khác nhau tái bản, trở thành ấn phẩm chiến tranh ăn khách và gây ấn tượng nhất thập niên 1970 ở cả hai miền Việt Nam. Tới thời điểm 30 tháng 04 năm 1975, các nhà in này thậm chí chưa thanh toán hết nhuận bút cho tác giả. Sau sự kiện 30 tháng 4, Mùa hè đỏ lửa cùng mọi tác phẩm kí danh Phan Nhật Nam bị đem ra đường phố đốt trong "chiến dịch bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy" năm 1978. Tuy nhiên, những ấn bản khác vẫn tồn tại ở nhiều thư viện tư thục nên nội dung không hề mai một theo thời đại. Ở thập niên 1980, tác phẩm lại được các nhà san hành hải ngoại cho tái xuất cả nguyên bản và dịch bản, đồng thời nội dung được đưa vào tàng trữ tại thư khố Đại học Michigan. Đến năm 1998, nhân kỉ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tác giả Phan Nhật Nam bổ sung trong bản in mới các bài tựa để củng cố chiều sâu tác phẩm và tới nay được công nhận là bản lưu hành chính thức. Trước khi Mùa hè đỏ lửa phát hành, tác giả Phan Nhật Nam đã được đánh giá là một trong những cây bút thượng hạng trong giới văn chương về đề tài chiến tranh. Nhưng ngay khi công bố, tác phẩm đã gieo những kinh ngạc trong báo giới về doanh thu và phải tái bản 30 lần để đáp ứng nhu cầu độc giả. Thành công vang dội này đem tên tuổi ông ra quốc tế, đồng thời, nhan đề tác phẩm về sau được coi là định danh phi chính thức của chuỗi chiến dịch Xuân Hạ 1972 trong các văn bản khoa học. Còn theo nghiên cứu gia Vương Trí Nhàn, từ những năm trước và sau sự kiện 30 tháng 04 năm 1975, tác phẩm Mùa hè đỏ lửa cùng một số ấn phẩm khác của tác gia Phan Nhật Nam đã được các nhà văn khoác áo lính ngoài Bắc tìm đọc khi có cơ hội vào thành thị miền Nam. Riêng với tác phẩm Mùa hè đỏ lửa, Phan Nhật Nam đã trở thành một vấn đề văn học thời chiến, gây nên những tranh luận sôi nổi trong giới văn bút Hà Nội từ thập niên 1970 mãi tới những năm 2020. Ngày 04 tháng 03 năm 1973, tác giả Phan Nhật Nam tới phi trường Lộc Ninh chứng kiến lễ trao trả tù binh với tư cách kí giả quân sự[3]. Theo lời khuyên của hai bạn văn Nguyễn Văn Thành và Đỗ Ngọc Yến, ông đem theo cuốn Mùa hè đỏ lửa. Tại đây, trước mặt 30 phóng viên quốc tế, ông gặp kí giả Bùi Tín (tư cách phóng viên báo Nhân Dân) và cho ông Bùi Tín coi bức ảnh in trong Mùa hè đỏ lửa để chứng minh vụ thảm sát Huế. Sau cuộc gặp này, ông bị phạt 60 ngày trọng cấm vì tội "phát biểu bất lợi cho quốc gia và phổ biến tác phẩm bất hợp pháp". Sự kiện này về sau cũng được kí giả Bùi Tín xác nhận. “    Phan Nhật Nam viết liên tiếp sáu cuốn ký về chiến tranh. Đọc những điều ông kể, người dân nghe chuyện lính cũng lây luôn cái phẫn nộ, cái uất hận của ông. Lòng nào nghĩ đến cái "văn" trong những tác phẩm như thế. Mười lăm năm của một người lính Nhảy Dù, ông làm lính xứng đáng. Mười lăm năm trong lao tù cộng sản, ông làm một tù nhân can trường. Văn nghiệp mười năm của ông phản ảnh chỗ nhiệt tâm dũng mãnh, can trường, trong cuộc sống ấy. Cái "văn" của ông là ở đó.    ” — Võ Phiến, Văn học Miền Nam: Tổng quan, California, Mĩ, 1987 Tác phẩm được trao Giải thưởng phóng sự chiến trường năm 1973. *** CHƯƠNG1   LỜI TÁC GIẢ Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Mùa Hè, gió Lào miền Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng luồng, từng chập, đưa “con trốt” chạy lừng lững trên cánh đồng cát chói chang, những đồi hoa sim, hoa dủ dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời hạ chí. Giòng nước sông Hương, sông Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ đá, bãi cát, chầm chậm chảy về phía Tam Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa. Mùa Hè, những con đường thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc dài dày kín, nâng khối tóc xôn xao lên khỏi chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào chè xanh thổi khô đi lớp mồ hôi rịn trên những lông tơ nõn. Mùa Hè, mưa rào tăm tắp đổ xuống kín trời An Lộc, chập chùng ẩn hiện những thân cây cao su nhoà vào nền trời xám tối, khu rừng biến thành khối đêm đen trong khoảng khắc, khối đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo từng cơn lốc gió... Mưa tan, trời tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương tây, cuối bình nguyên lồng lộng, núi Bà Đen ấn một nét đen thẫm thần bí trên nền trời xanh ánh trăng. Và đàn nai bắt đầu tung tăng từ đầu nguồn, cuối lạch... Đàn nai chạy vun vút qua rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng, chạy và ngừng lại, “bép” mấy tiếng âm u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng cỏ. Mùa Hè, mùa đẹp đẻ, tươi gắt căng sức sống, ngày ngày nỗ lực trên mặt nước loáng ánh nắng hay đồng lúa nặng hạt. Hạt ngọc của trời, và người dân cất cao tiếng hò... Được mùa chớ phụ môn khoai, Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng... Tiếng hò chạy dài trên lúa, theo cơn gió đưa ra đến đầu ghềnh, cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi về Thế Chí, Đại Lộc dọc Phá Tam Giang(*)), lại vang dội một giọng hò khác phảng phất nét tàn tạ bi thảm của hơi Nam Ai thê thiết... Hò... ơ... ai...về...ạ... ạ... Đại...Lộc...ạ... ạ... ai vượt... ạ..ơ..Kế Môn... (*): Phá lớn giữa hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, do ba sông Thạch Hãn, sông Bồ và Sông Hương đổ vào. Đã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân(**), cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày! (**): 1945; 1968. Viết lại, Ba sư đoàn bộ binh 304, 308, 324B, cùng sáu trung đoàn địa phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công và một sư đoàn pháo nặng 130 ly, cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bởi một sư đoàn pháo nặng tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum; hướng tiến được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào. Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những “ngày hè đỏ lửa”, trận cuối cùng để tìm kiếm kết thúc cho mười năm chiến tranh “giải phóng” cạn lực, sau “tổng-công-kích thất bại Mậu Thân 1968”. Quân ta phải chống lại.Chống giữ để tự vệ. Chống trả nơi biên giới cuối cùng: Tự Do hay Nô Lệ. Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết tử và trận chiến cực điểm. Ba tháng hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục chiến trường thay đổi từng nấc, từng bậc lớn, từ 2,000 quả đạn cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000 quả cho An Lộc.Bắc quân đi bước tàn nhẫn không nương tay và quân dân Miền Nam đồng đương cựvới nổ lực cao nhất tại “Điểm đứt hơi - Điểm vỡ của chiến trận”. Chúng ta đã chiến đấu giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Hôm nay, ngày đầu tháng 8, cuộc đại chiến đã bước qua tháng thứ tư, và có cơ kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng quân dân ta cắn răng, ngậm chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế, đánh thêm nữa cũng được. Trong nguy nan, Dân tộc biến thành “Thánh chịu nạn”. Dân tộc kiêu dũng, quật cường, vượt qua, bất chấp tất cả để tồn tại. Ngọn lửa Mùa Hè 1972 nung độ nóng cao nhất trui rèn chúng ta - Người Việt Nam muốn sống đời đáng sống của Người - Người Tự Do. Được đi, chứng kiến và dự phần vào ba mặt trận, ba vùng đất quê hương, người viết không mong gì hơn ghi lại một vài khía cạnh của cuộc chiến - Cuộc chiến vĩ đại vượt mọi chiến tranh - Mà phải một ủy ban quân sử, trong thời gian dài mới có khả năng, điều kiện thâu tập và đúc kết toàn thể. Vì chỉ ghi được biến cố qua một vài khía cạnh, với những người, đơn vị lâm chiến quen thuộc; người viết xin tạ lỗi do những thiếu sót mà một cá nhân không thể nào tránh khỏi, và đã phải viết lại từ một khoảng ngày tháng quá gấp rút. Ngày Quân LựcVNCH, Tháng 6, 1998. Mùa Hè, Đất Mỹ. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Đỏ Lửa của tác giả Phan Nhật Nam.
Dựa Lưng Nỗi Chết
Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.