Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Về Nhà

“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vô Thường
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vô Thường của tác giả Nguyễn Bảo Trung.   Công việc làm báo Y tế giúp tôi có cơ duyên được tiếp xúc với các cây bút bác sĩ. Trong những hạnh ngộ ấy, tôi may mắn gặp được Bảo Trung, với tên khác là Vô Thường. Tôi nhớ dịp đó vào tầm năm 2013, khi làn sóng hiểu lầm về nghề bác sĩ tràn lan trên mạng xã hội, thì mỗi sáng dậy, không riêng tôi, mà rất nhiều bạn đọc, thấy lòng chùng lại khi gặp được những dòng chữ như thủ thỉ, như sẻ chia về những nỗi đau của người thầy thuốc bất lực trước sự nghiệt ngã của cái chết. Mỗi câu chuyện được thể hiện một cách giản dị, nhưng đều ẩn những tầng ý nghĩa vô cùng sâu sắc mà người đọc như thấy chính mình trong đó, cũng mải miết với cơm áo gạo tiền nên chót vô tâm với cha với mẹ, với người thân của mình. Có bạn đọc nhắn rằng, đọc chuyện của Vô Thường xong, e phải thu xếp ngay về thăm ba mẹ, bởi không biết còn gặp song thân được bao lần… Phải là một người ngấm triết lý Phật giáo lắm, phải có một trái tim đa cảm lắm, yêu thương con người, yêu thương cuộc đời lắm mới viết được những dòng trắc ẩn, lay động người đọc đến vậy. Có lẽ, công việc của một bác sĩ cấp cứu, ngày qua ngày trực tiếp đối diện với tận cùng nỗi thống khổ của kiếp người, tật bệnh, đói nghèo, chết chóc… nên trong anh luôn nặng nỗi niềm ẩm ỉ, đau đớn về thân phận con người. Mỗi câu chuyện Vô Thường đưa lên đều khiến nhiều, rất nhiều bạn đọc rơm rớm nước mắt, nhưng sau những lay động ấy, là sự thức tỉnh, khiến mọi người tu thân tu tâm một cách vô thức và tự nguyện. Đó là thành công lớn của tác giả Bs. Bảo Trung - Vô Thường mà không phải cây bút nào cũng làm được. Những dòng như lời tâm sự, như là kể chuyện của Bs. Bảo Trung luôn đánh thức cái thiện, cái tình vốn ẩn trong sâu thẳm mỗi người mà vì bon chen cuộc sống, đôi khi nó bị lu mờ bị chìm đi. Những dòng viết của Bs. Bảo Trung khiến người ta thấy buồn, nhưng trong nỗi buồn vẫn lóe lên sự ấm áp tin cậy vào trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn của người bác sĩ, lóe lên niềm tin vào những điều tử tế vẫn hiện diện trên cõi đời này, ở cả những nơi tận cùng đau khổ chốn nhân gian. Có cảm giác mỗi khi đọc chuyện của Vô Thường xong, bạn đọc sẽ ngộ ra rằng “Đời ngắn lắm thương nhau còn chưa đủ. Nói làm chi lời chia cách vực sâu...” như lời thơ của nhà sư Thích Tánh Tuệ trong bài “Cho bõ lúc trăm năm”. Nhận được tin Vô Thường ra sách, tôi mừng lắm, bởi giữa những hỗn mang trong dòng đời, tập sách này thực sự là một món quà, giúp người người đang ngày ngày phải mang vác những nặng nề, mệt mỏi của số phận trên lưng, tự tìm được con đường giải thoát. Giải thoát khỏi những đau khổ do chính mình chưa ngộ ra mà vướng phải, từ đó biết đem đến thương yêu đúng cách cho cuộc đời và cho bản thân mình. Những câu chuyện có thật ghi ở phòng cấp cứu trong cuốn sách này giúp người biết thương người hơn, giúp cuộc sống bớt đi những khổ đau, những nuối tiếc, những ân hận vốn vẫn ẩn sau hai chữ “giá như” khi mọi chuyện không còn cứu vãn được nữa. Từng câu từng chữ của Vô Thường như một liệu pháp thiền định trị liệu, hàn gắn những vết thương mà mỗi người đều không thoát khỏi trong hành trình mưu sinh của mình. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn chữ duyên cho tôi được đọc những câu chuyện của Vô Thường mỗi khi lòng hoang mang buồn bã, cảm ơn chữ duyên cho tôi có được hạnh ngộ gặp gỡ một tấm lòng nhân hậu, trí tuệ, đẫm triết lý đạo Phật của Bs. Bảo Trung. Những câu chuyện của anh, từng ngày từng ngày giúp tôi cũng như nhiều bạn đọc biết buông bỏ những phù du thường nhật để cảm nhận được cái đẹp vốn vẫn hiện hữu trong đời. Trần Yến Châu Trưởng ban Báo Điện tử Báo Sức khỏe và Đời sống Bộ Y tế *** Sống sâu Sáng nay một bệnh nhân nam 50 tuổi, làm ruộng, quê ở Tiền Giang đến khám bệnh xin thử mỗi đường huyết. Mình mới hỏi: - Sao chú muốn thử đường huyết? - Vì tôi sụt cân nhanh, người ta nói do bệnh tiểu đường. - Đã bỏ công từ quê lên đây, sao chú không khám tổng quát luôn? Giả sử thử máu có kết quả bị đái tháo đường thì cũng phải xem chức năng gan, thận và đánh giá biến chứng mới điều trị được chứ. Mình vừa giải thích vừa nhìn bệnh nhân, và mình hiểu vẻ ngập ngừng đắn đo ấy, có lẽ bệnh nhân nghèo. - Dạ, thử hết mấy thứ đó bao nhiêu bác sĩ? - Bệnh viện công giá rẻ lắm. Chú đi thử đi. Khi cầm kết quả phim phổi trên tay, tự nhiên mình nghẹn lời, dù rằng mỗi ngày mình tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân với đủ loại bệnh tật khác nhau. - Chú hút thuốc nhiều không? - Cỡ một gói một ngày. Bữa nào buồn hút nhiều hơn. - Chú uống rượu nhiều không? - Mỗi ngày, nhưng chủ yếu vui chơi với anh em, người vài xị. - Chú có vợ con gì không? - Dạ, một vợ, ba con. Nhưng nhà có vài công ruộng, nên tụi nó bỏ lên Bình Dương làm công nhân hết rồi. - Cháu nghĩ chú nên qua bệnh viện Phạm Ngọc Thạch khám. - Tôi bị lao hả bác sĩ. - Cháu cũng hy vọng là lao. Nhưng... - Bác sĩ cứ nói đại đi. Tôi ở quê lên khám bệnh cực lắm. - Cháu nghĩ đây là khối u. Nhưng chú biết đó, có u lành u ác. Mà u ác bây giờ có thể trị được. - Ý bác sĩ là ung thư phổi hả? - Chưa chắc đâu. Phải làm thêm xét nghiệm, sinh thiết ... mới có thể kết luận. Một khoảng im lặng kéo dài. Mình nhìn khuôn mặt bệnh nhân từ trắng bệch chuyển sang tím tái và khoảng mười lăm phút sau mới trở lại bình thường. - Ung thư phổi thì sống được bao lâu bác sĩ? - Chưa chắc đây là ung thư. Nhưng nếu ung thư thì có thể vài tháng, vài năm... Tùy vào cơ địa mỗi người, tuỳ vào phương pháp điều trị. - Tại sao lại là tôi chứ? - Tại sao không là chú? - Tại... Lại một khoảng im lặng kéo dài. Mình không nỡ mời bệnh nhân kế tiếp dù sáng thứ Hai rất đông. - Tôi về bỏ thuốc lá và rượu có thể cứu vãn được không? - Cháu nghĩ, bỏ được thì tốt. Nhưng bây giờ việc này không còn ý nghĩa nữa rồi. Mình vẫn hay tự hỏi: Rượu bia và thuốc lá có điều gì hấp dẫn đến vậy, nhưng không có câu trả lời. Lúc trước mình còn ngạc nhiên khi thấy Việt Nam là nước tiêu thụ rượu bia và thuốc lá lớn nhất thế giới, bây giờ thì mình không còn ngạc nhiên nữa. Vì đã hiểu một phần. “Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu”, hình như rất đúng khi mô tả con người Việt Nam. Mỗi chiều tối đi làm về thấy quán nhậu nào cũng đông nghẹt khách. Hết chén chú đến chén anh. Rồi một ngày nào đó bệnh tật kéo đến. Có những bệnh có thể chữa lành, có những bệnh tiền mất rất nhiều nhưng không thể cứu vãn. Dù vẫn biết ung thư là “trời kêu ai nấy dạ”, nhưng mình không tin là mỗi ngày mình sống không tác động gì đến nó. Bạn thử nhìn xem, một người béo phì, ăn nhiều lười tập thể dục... làm sao mà không đủ thứ bệnh về chuyển hoá, một người suốt ngày hút thuốc uống rượu làm sao tránh khỏi ung thư phổi, xơ gan? May mắn lắm cơ địa người đó đặc biệt. - Bây giờ tôi phải làm sao? - Bây giờ cháu kê thuốc tiểu đường cho chú, còn bệnh phổi chú phải qua bên Phạm Ngọc Thạch, bên đó chuyên hơn. - Bác sĩ nói cho tôi biết, tôi có thể sống bao lâu nữa để tôi thu xếp nhà cửa. - Cháu nói thật, không dám chắc chắn về điều gì. Có những thứ hôm nay đúng, ngày mai lại sai. Có những thứ ngỡ là phước nhưng lại là họa. Điều quan trọng bây giờ không phải là chú sống bao lâu, mà sống có thật sự sâu hay chưa? - Sống thật sâu? - Đúng rồi. Chú còn rất nhiều thời gian để suy nghĩ về điều đó. Ví dụ như có bao giờ chú đến quỳ bên gối mẹ chú và thì thầm lời cám ơn? Ví dụ như có bao giờ chú chở ba chú qua con đường làng nơi ngày xưa ba chú dẫn chú đi học? Ví dụ như có bao giờ chú cám ơn người vợ rất mực dịu hiền và chung thủy đã đi với chú ngần ấy năm mà không một tiếng than vãn dù chú nát rượu và nghiện khói thuốc? - Bác sĩ... tôi... tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. - Chú có bao giờ quan tâm đến những đứa con mình? Chú có nghĩ rằng một lời hỏi han của chú thôi đủ làm họ hạnh phúc? - Ơ... - Vậy đó, sống sâu là sống với những điều nhỏ bé đơn giản như thế. Cuộc sống vô thường và con người ai mà không có bệnh có tử. Sau giai đoạn choáng rồi, chú sẽ chấp nhận được thôi. Từ chấp nhận đến quay lại nhìn về chính mình gần trong gang tấc. - Cám ơn bác sĩ. *** - Chú ấy là gì của anh? - Cha ruột. - Anh có hay đưa chú đi khám bệnh không? - Bận lắm bác sĩ ơi, với lại ở xa nhau. - Anh có biết ba anh bị ung thư phổi? - Dạ... - Ông ấy hút thuốc nhiều lắm không? - Chẳng những hút thuốc còn uống rượu. Mỗi khi say xỉn về là đập phá nhà cửa chửi bới vợ con... Tôi nói thiệt từ nhỏ đến giờ ổng chưa dạy tôi bất cứ điều gì. Anh em tôi chẳng được đi học... - Anh có hận chú không? - Không. - Không? - Dạ, tốt xấu ổng cũng là cha mình mà bác sĩ. Đúng hay sai đâu có lỗi do ổng, tại ông bà hay môi trường sống nó thế. Mình bất ngờ trước cách trả lời của người con, khi mình mời bệnh nhân ra ngoài để gặp riêng. Anh ta làm công nhân, chắc chắn là ít học. Nhưng học chữ cho nhiều vào làm gì, bằng cấp tiến sĩ giáo sư làm chi mà không biết quan tâm yêu thương cha mẹ già, không biết sống sao cho có tình có nghĩa. - Bệnh này điều trị tốn kém lắm, về mua bảo hiểm gấp đi. Được đồng nào hay đồng đó. - Dạ. Nhìn hai cha con bước ra khỏi phòng khám mà lòng mình chùng xuống. Mình mong có phép lạ xảy ra, bởi cuộc sống không bao giờ lại làm ngơ với một người con chí hiếu. - Tốt xấu ổng cũng là cha mình. Câu nói ấy theo đuổi mình tới tận bây giờ! Mời các bạn mượn đọc sách Vô Thường của tác giả Nguyễn Bảo Trung.
Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão của tác giả Thương Tín.   Tôi sinh năm 1956. Giờ gặp tôi, nhiều bạn bè xưa cũ và người hâm mộ đều thấy tiếc hình ảnh phong độ của Sáu Tâm trước đây. Biết sao được, thời gian trôi đi nghiệt ngã, chẳng chừa một ai. Tôi đã sở hữu một cuộc đời quá phong phú và nhiều biến động. Những năm 1980 - 1990 của thế kỷ trước, khi nhiều người còn chưa thể mua nổi chiếc xe đạp thì tôi đã thay xe hơi đời mới liên tục, chạy trên các con lộ đẹp đẽ của Sài Gòn và các tỉnh Nam kỳ, Trung kỳ. Và rồi đến giờ, ở lứa tuổi tóc đã muối nhiều hơn tiêu, tôi lại có thêm cô con gái bé nhỏ giống mình như tạc, trong hoàn cảnh bị sa sút, nhà cửa đã không còn để ở. Cách đây 5 năm, tôi đã rơi vào trạng thái chán nản, trầm cảm và khủng hoảng về nghề nghiệp. Trở về Phan Rang, tôi sống cùng với gia đình lớn của mình trong lặng lẽ, từ chối các vai diễn, từ chối vị trí đạo diễn cho nhiều bộ phim, nhiều vở kịch. Đến khi bỗng dưng tôi được lên chức cha lần nữa, dù cho ban đầu không mong muốn, nhưng cái duyên may của số phận đã cho cha con tôi gặp được nhau trên cõi đời này, vậy là tôi quay trở lại đi phim để có thêm thu nhập nuôi con gái. Và từ đó, tôi gặp lại nhiều bạn bè của mình. Cuốn hồi ký này được ra đời trong sự tình cờ. Bữa ấy, tôi ghé qua gia đình của nhà báo Đinh Thu Hiền chơi. Khi chuẩn bị đi về thì trời đổ cơn mưa rất lớn. Tôi ngồi chờ mưa tạnh nên nán lại kể vài câu chuyện của đời mình. Đinh Thu Hiền chăm chú nghe và nói: “Anh Tín, anh hãy viết hồi ký đi”. Sau một hồi suy nghĩ, tôi đã đồng ý. Tôi muốn trải lòng với bạn bè và người hâm mộ về các sự kiện đã diễn ra. Có chuyện mới đây, nhưng cũng có chuyện xa xưa lắm rồi. Tôi coi đây là những chia sẻ thiệt tình từ đáy lòng, không hề có ý chế giễu hay nói xấu bất cứ ai. Tuy nhiên, do tính chất của thể loại hồi ký rất cần sự chân thực, nên ít nhiều sẽ đụng chạm tới các bạn đã từng thân giao, sơ giao cùng tôi. Để ít ảnh hưởng nhất đến cuộc sống riêng tư của mọi người, có các câu chuyện, tôi sẽ sử dụng tên tắt, mong bạn đọc thông cảm và chia sẻ. Và tất nhiên, vì có sự thật mang vị ngọt ngào, nhưng cũng có sự thật mang vị đắng chát, do đó nếu có các chi tiết, các câu chuyện mà tôi kể ra sau đây khiến người trong cuộc vô tình bị tổn thương, cho tôi nói lời xin lỗi. Bởi cuộc đời, xét cho đến cùng cũng chỉ kết nối nhau bởi các dữ liệu trong đời sống thường ngày. Sân khấu hay phim ảnh dù có mang lại ánh hào quang nhiều tới đâu, cũng khó có thể che lấp được những mảng sự thật trong đời sống người nghệ sĩ. Cuốn sách này được tôi và nhà báo Đinh Thu Hiền thực hiện trong gần hai năm trời. Tôi kể chuyện và Đinh Thu Hiền giúp tôi viết lại, chuyển tải đến bạn đọc. Thời gian của cả tôi và Đinh Thu Hiền đều rất eo hẹp. Tôi thường xuyên đi phim hoặc nếu rảnh thì tranh thủ về Phan Rang để chăm con gái, còn Đinh Thu Hiền thì phải vừa đi làm trong tòa soạn báo, vừa sắp xếp việc gia đình. Chúng tôi cố gắng hết sức để cuốn sách được ra mắt đúng hẹn trong sự chờ đón của các độc giả. Tôi xin cảm ơn tất cả mọi người đang cầm trên tay cuốn sách này. Và xin tri ân cả những biến cố trong cuộc đời đã mang đến cho tôi những sắc màu vô cùng phong phú. Nhờ vậy, mà có một nghệ sĩ Thương Tín các bạn đã nghe, đã thấy, đã xem và đã biết! Nghệ sĩ Thương Tín *** Tóm tắt Cuốn sách Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão của tác giả Thương Tín là một cuốn hồi ký kể về cuộc đời của nghệ sĩ Thương Tín, một trong những diễn viên nổi tiếng nhất Việt Nam trong những năm 1980 - 1990. Cuốn sách được chia thành 12 chương, kể về những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Thương Tín, từ thời thơ ấu nghèo khó ở Phan Rang, đến những năm tháng nổi tiếng trên sân khấu và màn ảnh, và những biến cố khiến anh rơi vào cảnh nghèo khó, thất thế. Review Cuốn sách Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão là một cuốn sách hấp dẫn và đáng đọc. Cuốn sách không chỉ kể về cuộc đời của một người nghệ sĩ, mà còn là một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam trong những năm qua. Ưu điểm: Cuốn sách được viết theo lối kể chuyện chân thực và hấp dẫn, giúp người đọc có thể dễ dàng theo dõi và đồng cảm với nhân vật. Cuốn sách cung cấp nhiều thông tin thú vị về cuộc đời của nghệ sĩ Thương Tín, từ thời thơ ấu đến những năm tháng nổi tiếng và những biến cố trong cuộc đời. Cuốn sách có nhiều thông điệp ý nghĩa về cuộc sống, về nghệ thuật và về con người. Nhược điểm: Cuốn sách có một số chi tiết được kể lại không được rõ ràng, khiến người đọc đôi khi khó hiểu. Đánh giá chung: Cuốn sách Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão là một cuốn sách đáng đọc cho những ai quan tâm đến cuộc đời và sự nghiệp của nghệ sĩ Thương Tín, cũng như những ai muốn tìm hiểu về xã hội Việt Nam trong những năm qua. Đối tượng phù hợp: Những người yêu thích nghệ sĩ Thương Tín Những người quan tâm đến xã hội Việt Nam Những ai muốn tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của một người nghệ sĩ Mời các bạn mượn đọc sách Hồi ký Thương Tín - Một Đời Giông Bão của tác giả Thương Tín.
Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai của tác giả Mohammed bin Rashid. DUBAI – SỰ THẦN KỲ ĐẾN TỪ TẦM NHÌN CỦA NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO Nhắc đến Dubai, nhiều người Việt Nam thường nghĩ đến một đất nước Hồi giáo có diện tích nhỏ bé thuộc thế giới Ả Rập và toàn sa mạc, người dân mặc những bộ quần áo màu trắng truyền thống của nam giới, mạng che mặt và quần áo đen phủ kín toàn thân của phụ nữ. Dubai ngày nay vẫn vậy, nhưng Tiểu quốc này hiện được xem là một thành phố năng động và hiện đại bậc nhất thế giới. Chỉ trong 20 năm, với dân số khoảng 2 triệu người trên một diện tích 4.000 km2, Dubai đã phát triển thần kỳ, nổi lên như một thành phố toàn cầu và là một trung tâm kinh tế của thế giới với các trung tâm tài chính, công nghệ thông tin, du lịch, cảng biển, bất động sản, các công trình đồ sộ bậc nhất thế giới: The Palm – quần đảo nhân tạo lớn và đẹp nhất thế giới; Burj Khalifa – tòa nhà cao nhất thế giới; Jebel Ali – cảng nước sâu nhân tạo lớn nhất thế giới,… Điều gì đã tạo nên sự phát triển thần kỳ đó, từ một Tiểu quốc mà ở thời điểm sau Thế chiến thứ nhất đã từng có nhiều người dân phải chết đói trong một nền kinh tế sụp đổ, kiệt quệ? Nhiều người nghĩ ngay đến dầu mỏ. Đúng. Và không đúng. Khi dầu mỏ được phát hiện vào năm 1971 ở Dubai, Tiểu quốc này bắt đầu phát triển mạnh. Nhưng hiện nay, thu nhập từ dầu mỏ và khí đốt chỉ chiếm dưới 6% tổng thu nhập của Dubai. Đóng góp nhiều cho nền kinh tế của Dubai chủ yếu đến từ các ngành hàng không, bất động sản và xây dựng, thương mại, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ tài chính. Để có được kết quả này, các nhà lãnh đạo Dubai từ thập niên 1970 đã có tầm nhìn chiến lược, định hướng để Dubai trở thành trung tâm thương mại, tài chính, dịch vụ và du lịch của khu vực và thế giới. Các chính sách của chính phủ nhằm đa dạng hóa một nền kinh tế dựa vào dầu khí và thương mại trở thành một nền kinh tế phát triển dựa trên dịch vụ và du lịch. Và điều đó ngày nay đã đem lại vị thế vượt trội của Dubai trong thế giới Ả Rập và trên toàn thế giới. Quốc vương Mohammed bin Rashid Al Maktoum của Tiểu quốc Dubai, Toàn quyền Dubai, và là Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), đã tóm tắt và chỉ rõ con đường tiến đến sự vượt trội này của Dubai trong quyển sách My Vision – Challenges in the Race for Excellence, được First News xuất bản với tựa tiếng Việt là TẦM NHÌN THAY ĐỔI QUỐC GIA – Thách thức trong cuộc đua vươn tới sự vượt trội. Đây là quyển sách có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ, đầy tính khơi gợi và khích lệ đối với những quốc gia đang trên đường phát triển như Việt Nam. Tôi cho rằng các vấn đề Dubai gặp phải trên bước đường phát triển thật sự là các tham chiếu hữu ích đối với nỗ lực của chúng ta trong sự nghiệp đưa đất nước tiến tới phồn vinh và thịnh vượng. Tôi trân trọng giới thiệu và mong rằng quyển sách này sẽ được nhiều người tìm đọc. TRẦN NGỌC THẠCH Đại sứ Việt Nam tại UAE ***   Mời các bạn mượn đọc sách Tầm Nhìn Thay Đổi Quốc Gia - Điều Kỳ Diệu Ở Du Bai của tác giả Mohammed bin Rashid.
Người Tù Thế Kỷ
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela: Báo giới nhiều nước trên thế giới gọi ông là “Người tù thế kỷ”. Tên ông là NELSON MANDELA. Tổng thống nước Cộng hòa Nam Phi, chủ tịch Đảng Đại hội Dân tộc Phi của Nam Phi (ANC). Ông là vị tổng thống người da đen đầu tiên của nhà nước ở cực nam châu Phi. NELSON MANDELA bị chính quyền phân biệt chủng tộc tệ hại nhất trong lịch sử nước này nói riêng, ở châu Phi và thế giới nói chung, bắt khi đang lãnh đạo đội quân vũ trang của ANC  chống lại kẻ thù của các dân tộc trên vùng đất đau thương từng phải sống hơn 300 năm dưới chế độ Apartheid tàn bạo. Ông bị kết án tù chung thân và bị đày ra đảo Robben Island trên biển Đại Tây Dương suốt hơn hai thập niên. Từ trong nhà tù, NELSON MANDELA viết hồi ký về đời hoạt động của mình, về những cuộc chiến đấu của các chiến sĩ ANC và của các tầng lớp nhân dân bị áp bức Nam Phi mà ông là vị chỉ huy tối cao. Những trang gọi là hồi ký này trong thực tế là những bài học kinh nghiệm xương máu mà NELSON MANDELA và các đồng chí của ông mong muốn chuyển tận tay các chiến sĩ kiên cường trên tất cả các mặt trận chống lại kẻ thù. Những trang viết tâm huyết ấy đã vượt biển từ đảo Robben Island đến với đồng chí và chiến sĩ của ông trên đất liền, đến các Ban lãnh đạo ANC từ cơ sở đến trung ương, trong và ngoài nước, các đơn vị vũ trang luôn chắc tay súng trong trận chiến đấu không cân sức... và đã trở thành vũ khí sắc bén của ANC trong suốt hơn hai thập niên. Những dòng cuối cùng của tập hồi ký này được ông viết sau khi ANC giành thắng lợi với đa số tuyệt đối trong cuộc tuyển cử dân chủ theo chế độ phổ thông đầu phiếu đầu tiên trong lịch sử nước Nam Phi. Cuộc bầu cử này đã đưa NELSON MANDELA lên vị trí nguyên thủ của nhà nước Nam Phi mới. Hồi ký của NELSON MANDELA chia thành II phần, tuần tự từ buổi thiếu thời đến tuổi trưởng thành rồi đi theo “con đường tất yếu” của người chiến sĩ chiến đấu cho tự do và phẩm giá của con người. NELSON MANDELA gọi hơn 60 năm chiến đấu của ông là “con đường trường chinh dẫn đến tự do” và câu kết luận cuối cùng của tập hồi ký này khẳng định rằng “con đường dài ấy chưa kết thúc”. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh của NELSON MANDELA (18.7.1918 - 18.7.1998), chúng tôi biên dịch cuốn hồi ký này và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, cuốn hồi ký được chia thành bốn phần lớn nhưng vẫn giữ được tính liên tục của các sự kiện, đồng thời bảo đảm tính trung thực và khách quan, chỉ lược bỏ bớt một số chi tiết cụ thể. Cuốn hồi ký của NELSON MANDELA đã được xuất bản ở nhiều nước và được bạn đọc hưởng ứng nồng nhiệt. Theo bình luận của nhiều tờ báo lớn ở phương Tây thì “Hồi ký của Nelson Mandela không chỉ nói về cuộc đời của một trong những nhân vật chính trị xuất sắc nhất của nửa sau thế kỷ 20 mà còn là một tác phẩm văn học đượm chất trữ tình... Nhiều người trên thế giới coi Nelson Mandela là một trong ít người nổi tiếng nhất thế giới còn sống. Hồi ký và những trang viết của ông thể hiện khá sắc nét điều bình thường đến giản dị và chính điều đó đã nâng ông thành “con người vĩ đại bình dân” với những kiến thức uyên bác của một nhà hàn lâm, là cơ sở đảm bảo cho sự hòa giải dân tộc, tránh được cuộc nội chiến đẫm máu cho các màu da, sắc tộc trên mảnh đất đầu đau thương nhưng hết sức kiên cường này. Hồi ký của Nelson Mandela là một bài thơ, một trường ca mà người đọc không thể dừng lại giữa chừng. Không một trang nào là người đọc hờ hững”. TS. Trần Nhu *** Tóm tắt Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" của Nelson Mandela kể về cuộc đời của ông, từ thời thơ ấu ở một ngôi làng nhỏ ở Nam Phi đến khi trở thành tổng thống của đất nước này. Mandela sinh ra trong một gia đình Xhosa thuộc tầng lớp trung lưu. Ông theo học đại học ở Đại học Fort Hare và Đại học Witwatersrand, nơi ông bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị chống lại chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid. Mandela bị bắt giam vào năm 1962 và bị kết án tù chung thân. Ông bị giam giữ trong 27 năm trên đảo Robben Island, nơi ông phải chịu đựng những điều kiện sống khắc nghiệt. Trong thời gian bị giam cầm, Mandela tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành một biểu tượng của phong trào đấu tranh chống Apartheid. Ông được trả tự do vào năm 1990 và lãnh đạo ANC giành chiến thắng trong cuộc bầu cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi vào năm 1994. Mandela trở thành tổng thống đầu tiên của Nam Phi không phải là người da trắng. Ông phục vụ trong hai nhiệm kỳ và tập trung vào việc hàn gắn đất nước sau nhiều thập kỷ chia rẽ. Review Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm lịch sử và văn học quan trọng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela, một trong những nhân vật chính trị nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Mandela kể về cuộc đời của mình một cách thẳng thắn và trung thực, không né tránh những khó khăn và thử thách mà ông phải đối mặt. Cuốn hồi ký cũng là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Mandela đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho tự do và phẩm giá của con người. Câu chuyện của ông là một nguồn cảm hứng cho mọi người trên thế giới. Đánh giá Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc về nhiều mặt. Nó là một tài liệu lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học hấp dẫn và một nguồn cảm hứng cho mọi người. Điểm cộng: Cuốn hồi ký cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Cuốn hồi ký là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Điểm trừ: Cuốn hồi ký có thể hơi dài dòng và chi tiết ở một số chỗ. Kết luận: Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc mà mọi người nên đọc. Mời các bạn mượn đọc sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela.