Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thâm Sơn Kỳ Cục Án

Tôi đã công tác trong hai tờ báo hình sự lớn qua 22 năm. Tôi yêu núi rừng và yêu cuộc sống hồn nhiên, nhân hậu của các cộng đồng bà con dân tộc thiểu số. Phần lớn thời gian công tác của tôi dành cho các tỉnh miền núi và cao nguyên. Tôi muốn phản ánh mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và luật tục các dân tộc. Tất cả những bài viết trong tập sách này là những điều đúc kết được từ năng khiếu của một nhà văn, kết hợp với những gì mắt thấy tai nghe và sự tìm hiểu về pháp luật của một nhà báo. Tập phóng sự được đặt tên là Thâm sơn kỳ cục án. Đây là những vụ án không có máu đổ, không giết người, không hiếp dâm, không lừa đảo, không tiền bạc. Nó là những vụ án kỳ cục bởi nội dung rất nhỏ nhưng phản ánh khía cạnh pháp luật lạ lùng nhất, đôi khi tràn đầy tiếng cười thú vị, ngộ nghĩnh. Tôi phản ánh một cách chân thật, chống lại khuynh hướng khoe khoang kiến thức pháp luật, lật xuôi lật ngược vấn đề của những tay bẻm mép. Nó là án kỳ cục bởi có những vụ việc không ra tới tòa án. Nó được khoanh vùng giải quyết ngay từ đầu trong làng xã và qua vụ việc, người ta nhìn ra được cái hay, cái đẹp của tình người. Những vụ cắn đứt vành tai, cắn sứt lỗ mũi, cho ăn thịt chó chết, thuê người đánh chồng, mắng chửi nhau, dối vợ đi ngủ với người khác... đều được giải quyết rốt ráo. Con heo nái, con bò con, con trâu đẻ, con mèo kêu, cái tivi bể, cái ống heo tiết kiệm đều được đưa ra trước tòa, nghe tòa phân xử công bằng. Nó được gọi là án ở thâm sơn bởi nó xảy ra ở những nơi rất xa ánh điện văn minh của thành phố. Nó nằm trên những vùng núi cao heo hút, sau những dốc đèo hoang sơ của Quảng Nam, Nghệ An, Bình Thuận, Bình Phước, Khánh Hòa, Kontum, Đăk Lăk, Gia Lai, Lâm Đồng. Nó gắn liền với cuộc sống của một bộ phận bà con các dân tộc Kinh, Khơ Me, Cil, Châu Ro, Ching, Mơ Nông, Giẻ Triêng, Gia Rai, Cơ Tu... Những người giải quyết án, giải quyết tranh chấp cũng rất đa dạng. Một chánh án tòa án tỉnh nhân ái, một thẩm phán tòa án huyện vui tính, một trưởng công an xã thông minh, một sĩ quan biên phòng yêu dân, một chủ tịch xã nhân hậu, một già làng thông hiểu việc đời, một trưởng thôn tận tụy... đều có thể đóng vai trò thẩm phán công minh. Vụ án, vụ tranh chấp được giải quyết xong là xã hội trở lại yên bình; không còn ai thù ghét ai nữa. Bản thân vụ việc đã có yếu tố gây cười. Tôi vận dụng thêm khả năng hài hước của một người chuyên viết báo cười để tạo thêm cho bạn đọc nụ cười, làm mềm và làm nhẹ nhàng câu chuyện. Vấn đề ở đây là tôi chủ tâm chọn lựa nội dung của vụ việc. Tôi từ chối viết những trọng án, chỉ chọn những chuyện nhẹ nhàng để bạn đọc có thêm chút kinh nghiệm về pháp luật. Hàn Dũ nói: “Văn dĩ tải đạo” - Văn chương dùng để chở đạo làm người. Ở chừng mực nào đó, Thâm sơn kỳ cục án cũng có ý thức tải đạo. Ấy bởi vì ta đang sống trong một đất nước tốt đẹp, một xã hội yên bình, một cuộc sống thịnh vượng. Qua những vụ án nho nhỏ, tôi muốn gửi cho đời tính nhân văn, nhân ái của cuộc sống làm người. Tân Thới Nhất, quận 12 tháng 1 năm 2011 VŨ ĐỨC SAO BIỂN ***  Vũ Đức Sao Biển tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Nguyên quán ông tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm (ban Việt - Hán) và Đại học Văn khoa (ban Triết học phương Đông). Tháng 10 năm 1970, ông tốt nghiệp rồi xuống Bạc Liêu dạy học các môn Văn và Triết học bậc trung học tại Trường Công lập Bạc Liêu cho đến năm 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, có một thời gian làm tại phòng Giáo dục huyện Nhà Bè; Để rồi bắt đầu cộng tác với các báo: Tuổi Trẻ Cười, Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,... Mười năm sau đó, ông trở lại Bạc Liêu và sáng tác loạt ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Những bài như Điệu buồn Phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Trở lại Bạc Liêu, Trên sóng Cửu Long... là những tác phẩm được rất nhiều người yêu thích. Giai đoạn sau thập niên 2010, một số đài truyền hình trung ương và địa phương mời ông thực hiện phim tư liệu về tác giả và tác phẩm nhạc vàng. Ngoài sáng tác nhạc, ông còn viết báo, tiểu thuyết, tiểu phẩm trào phúng và đặc biệt là phiếm luận về truyện kiếm hiệp Kim Dung (Kim Dung giữa đời tôi). Ông là thành viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam. Năm 1999, theo gợi ý của Bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu Nguyễn Văn Út, ông tiến hành phục dựng lại bài Dạ Cổ Hoài Lang đem cho nhạc sĩ Quốc Dũng hòa âm và ca sĩ Hương Lan, Hạnh Nguyên trình diễn lần đầu tiên trên sóng VTV1. Năm 2013, ông lại cùng ba nhà báo Anh Đức, Liêu Phúc Minh, Tố Loan dịch tiếp bản Dạ Cổ Hoài Lang ra ba thứ tiếng Anh, Pháp và Quan thoại. Năm 2009, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh mời ông thỉnh giảng hai môn “Tạp văn và tiểu phẩm” và "Tường thuật chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật" cho Khoa Báo chí - Truyền thông của trường này. Hiện ông đang điều trị ung thư vòm họng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tác phẩm Thể loại Năm Nhà xuất bản Ghi chú Bản báo cáo biết bay Tiểu phẩm trào phúng 1983 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hoa hồng trên cát Tiểu thuyết 1989 NXB Đồng Nai   Vạn tuế đàn ông Tiểu phẩm trào phúng 1989 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ảo ảnh sương khói Tiểu thuyết 1991 NXB Long An   Kiếm hoàng hoa Tiểu thuyết 1995 NXB Long An   Kiều Phong - Khát vọng của tự do Biên khảo 1996 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Thượng Vĩnh biệt thốt nốt Tiểu phẩm trào phúng 1996 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Biên khảo 1997 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Trung Ngôn ngữ từ những phiến cẩm thạch Bút ký 1998 NXB Trẻ   Thỏ thẻ cùng hoa hậu Tiểu phẩm trào phúng 1998 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ba đời ham vui Tiểu phẩm trào phúng 1999 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Người mang số Q1 2629 Phóng sự 1999 NXB Trẻ   Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo Biên khảo 1999 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Hạ Đi tìm sự thật Phóng sự 2000 NXB Trẻ   Thanh kiếm và cây đàn Biên khảo 2000 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Kết Đối thoại với bản án tử hình Phóng sự 2001 NXB Trẻ   Tiếu ngạo giang hồ (8 tập) Dịch 2001 NXB Trẻ Dịch chung Lê Thị Anh Đào, Trần Hải Linh Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật Biên khảo 2002 NXB Trẻ   35 năm chuyện trò cùng chữ nghĩa Bút ký 2003 NXB Trẻ   Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung Biên khảo 2003 NXB Trẻ   Úi chao, 60 năm Hồi ký 2007 NXB Trẻ   Chuyện dây cà kéo ra dây bí Tiểu phẩm trào phúng 2010 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hai tuồng hát bội Truyện ngắn 2010 NXB Trẻ   Quảng Nam hay cãi Tạp văn 2010 NXB Trẻ   Án lạ phương Nam Bút ký 2011 NXB Trẻ   Dài & To Tiểu luận 2011 NXB Trẻ   Hướng đến Chân Thiện Mỹ Triết lý dành cho tuổi thanh niên Kỹ năng sống 2011 NXB Trẻ   Phía sau mặt báo Bút ký 2011 NXB Trẻ   Thâm sơn kỳ cục án Truyện ngắn 2011 NXB Trẻ   Sông lạc đường về Tiểu thuyết 2012 NXB Trẻ   Xuân dược Tiểu phẩm trào phúng 2013 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Đối thoại với tuổi đôi mươi Tản văn 2016 NXB Trẻ   Ơi, cái tuổi trăng tròn Kỹ năng sống 2018 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Lắng nghe giai điệu Bolero Biên khảo 2019 NXB Trẻ   Phượng ca Hồi ký 2019 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Mời các bạn đón đọc Thâm Sơn Kỳ Cục Án của tác giả Vũ Đức Sao Biển.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Về Nhà
“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.
Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé
Là cuốn sách viềt về Trịnh Công Sơn, do một người bạn từ thời thiếu niên của nhạc sĩ họ Trịnh viết. Thông qua tập sách, người đọc sẽ được biết về Trịnh Công Sơn tuổi ấu thơ, những tư tưởng ảnh hưởng đến quan niệm triết học của nhạc sĩ họ Trịnh, tuổi thanh niên với nghề gõ đầu trẻ ở Bảo Lộc và những năm tháng trốn lính lao đao hết Huế đến Sài Gòn, những nghi ngại đến từ hai phía và con người Trịnh Công Sơn trong những năm tháng hòa bình. Cuốn sách được viết dưới nhiều thể loại văn học như truyện ngắn, tản văn, hồi ức, chuyện kể… hình thành nên một tác phẩm về một con người – con người Trịnh Công Sơn. *** Cuốn sách được chia thành ba chương, như một cuốn phim quay chậm từng khoảnh khắc trong cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ ấu thơ cho đến những lối rẽ trong đời, từ những bài tình ca đến những ca khúc phản chiến. Trong chương đầu Dấu chân địa đàng, những ngày tháng còn thơ ấu, những ảnh hưởng đến Trịnh Công Sơn được miêu tả chân thực và sinh động. Âm nhạc của ông được nuôi dưỡng từ những nỗi buồn, từ những xúc cảm về một miền xa xăm, từ tình yêu của mẹ và từ tư tưởng Phật Giáo. “...thế giới Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá ngày xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Sơn thu nhận mọi thông tin về kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người.” Chương 2 Tuổi đá buồn đưa người đọc đến những ngày hoạt động âm nhạc sôi nổi của Trịnh Công Sơn, từ những ngày còn đi học đến khi có những sáng tác đầu tiên cho thiếu nhi, và những thay đổi thời đại khiến âm nhạc của ông trở thành tiếng vang giữa bối cảnh hiện sinh của chiến tranh. Rồi ông tìm thấy Khánh Ly, rồi ông chọn viết tình ca, trở về với chất thơ, chất Huế. “Trịnh Công Sơn bắt đầu viết nhạc phản chiến cùng lúc anh phải tiếp cận với cuộc chiến qua thời gian sống ở B’lao. Từ đó trở đi, tư tưởng phản chiến trở thành một ám ảnh thường trực của tâm hồn anh, một nỗi đau đớn trĩu nặng, héo mòn mà không do một căn bệnh nào hết. Từ đấy, anh trở thành nhạc sĩ phản chiến lừng danh và duy nhất của Việt Nam.” Trong những ngày viết nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn bị sự truy lùng gay gắt của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Những bản nhạc ông viết cho ca sĩ Khánh Ly hát dần bị tịch thu và việc in ấn cũng trở nên khó khăn. Thế nhưng, âm nhạc của ông vẫn đến được với công chúng, vẫn gây chấn động và lóe lên thứ ánh sáng mạnh mẽ cho con người trong những ngày chiến tranh loạn lạc. “Thời kì dạy học ở B’lao, Trịnh Công Sơn đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm mang tên Phúc âm buồn, Chiều một mình qua phố, Gia tài của mẹ, Người hát bài quê hương, Người già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng. Có thể nói, những ngày sống ở B’lao đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của Trịnh Công Sơn, đẩy anh chìm sâu vào tận đáy máu lửa của lịch sử, để trở thành nhạc sĩ phản chiến gắn liền với số phận của dân tộc.” Bên cạnh nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn dành thời gian còn lại cho tình ca. “Ở đâu có sự chân thành và tính giản dị thì ở đó có âm nhạc đích thực. Phải thừa nhận rằng, nhạc điệu của Trịnh Công Sơn không có những biến tấu phức tạp, nhưng cực kỳ chân thành và giản dị, dễ đến với mọi người. Những bài hát như Diễm xưa, Hạ trắng, Biển nhớ, Huyền thoại mẹ v.v… đã chứng tỏ phong cách riêng củaTrịnh Công Sơn.” Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường dành nhiều lời khen cho ca từ đậm chất thơ của Trịnh Công Sơn. “Chính ca từ của Trịnh Công Sơn mới khiến người ta lạ lùng, và dành cho Trịnh Công Sơn một vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam, một vị trí dành cho nhà thơ, giữa những nhà thơ hàng đầu của Việt Nam thời tiền chiến, cả bây giờ cũng thế.” Chương 3 Để gió cuốn đi là những hoài niệm, ưu tư của ông về âm nhạc, về những mối tình. “Chúng ta hài lòng khi thấy Trịnh Công Sơn đã giành được trong tay định mệnh, cái mà người nghệ sĩ nào cũng thèm muốn: Sự bất tử. Trịnh Công Sơn không có nhà cửa nguy nga, của cải vật chất và không có vợ con riêng. Nhưng Trịnh Công Sơn có một cái tên để lưu truyền cho hậu thế. Và tất cả đó để làm gì? Cũng theo lời bài hát của Sơn, Để gió cuốn đi. “Khát vọng lưu danh là một ý niệm rỗng không về vật chất, và Trịnh Công Sơn đã sống đúng với ý niệm ấy.” Cùng với Trịnh Công Sơn và cây đàn lyre của hoàng tử bé, dịp này NXB Trẻ còn tái bản nhiều tác phẩm khác do chính cố nhạc sĩ viết như: Tôi là ai, là ai; Thư tình gửi một người. Mời các bạn đón đọc Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cá Tắm Nắng
Đọc bút ký Cá Tắm Nắng, gặp tấm chân tình ấm áp của một tấm lòng tha thiết mến yêu thiên nhiên. Một làn hương thoảng đưa, một hồi chuông ngân vọng, đôi tiếng chim thánh thót, bóng đêm tĩnh lặng trên đất chết,... tràn đầy tình cảm thân thương. Hòn Đỏ là một cảnh đẹp tâm linh. Xóm Nước Nóng là một làng quê khốn khó. Chùa Linh Sơn như một dáng cổ tự huyền bí xa xưa. Cảnh trí Nha Trang sắc nét tràn đầy tình yêu quê hương. Đi bách bộ theo bãi biển, ngắm biển trời, đón gió lộng trên cầu Trần Phú, chiêm ngưỡng Tháp bà Thiên Y A Na trong buổi bình minh, lúc ban trưa chói chang nång hồng hay thấp thoáng dưới ánh chiều tà. Nhìn từ trên cầu Trần Phú, cửa sông Cái lặng lờ mặt nước hay chập chờn con sóng khi trieu dâng, hòa cùng cảnh thuyền tấp nập về trên cửa sông. Ngồi trên cát trång, ngåm vịnh Nha Trang, ước ao gặp cá tắm nắng, nhìn bướm biển giỡn sóng. Lòng đang lâng lâng bỗng nghe vẳng đến tiếng chuông chùa ngân nga buổi rạng đông. Tiếng chuông ngân thánh thót trên vùng biển rộng lặng yên. Sóng chỉ rung rinh nhẹ như xao động, để tiếp nối nâng đưa tiếng chuông lan xa. Bầu trời trong xanh cao rộng như phảng phất mùi hương trầm từ núi Bà thoảng đến. Tự nhiên lòng thanh tịnh, hồn an nhiên. Hương và sắc của trời đất Khánh Hòa Nha Trang nồng thắm thân thương biết là dường nào! Khởi đầu tác phẩm là một cảnh cá tắm nắng vừa ngộ nghĩnh vừa ký thú. Kết thúc là cảnh chim hót trên một hòn đảo mà thuở trước chỉ toàn đá và nắng còn bây giờ tràn ngập bóng cây xanh, thanh thản một ngôi chùa yên tĩnh đầy tiếng chim ca. Chúng tôi đã từng được chung hưởng những giây phút đăc biệt kỳ thú trước cảnh tượng thiên nhiên trong tập bút ký này. Nha Trang ngày rằm tháng tư năm Nhâm Thìn. (2012) TRẦN THỊ PHONG HƯƠNG *** QUÁCH GIAO Bút hiệu: QUÁCH TÙNG PHONG Sinh năm 1934 Con nhà thơ Quách Tấn Theo học tại các trường Đại hoc Y Dược, Luật khoa và Văn khoa tại Sài Gòn. Năm 1955 khi còn là học sinh trường trung học tư thục Kim Yến ở Nha Trang, Quách Giao đã tham gia đăng thơ trên tờ Gió Mới với biệt hiệu là Vương Kiều Thu. Các bài thơ đăng trên báo Gió Mới số 2, 4, 6 là Hai Em Bé Mồ Côi (Tình Chị) Ông Lão Quét Lá Khuya, Hai Chiều Xa Cách. Tại Huế, Q. Giao có thơ đăng trên Tạp Chí Lành Mạnh. Ở Sài Gòn cộng tác với báo Bách Khoa, Văn Học đến năm 1975. Năm 1988 Quách Giao cùng với phụ thân là nhà thơ Quách Tấn viết và xuất bản tập lịch sử Nhà Tây Sơn. Các sách viết chung với thân phụ ông còn có: Võ Nhân Bình Định (nxb Trẻ năm 2001) và một số lớn các tác phẩm khác. Hiện cư ngụ tại Nha Trang, Việt Nam Mời các bạn đón đọc Cá Tắm Nắng của tác giả Quách Giao.
50 Bức Thư Nổi Tiếng Thế Giới
Mục đích của việc sưu tập các bức thư nổi tiếng này là vừa mang tính thông tin, vừa mang tính thư giãn cho độc giả, đồng thời cũng nhằm cho thấy hết phạm vi ảnh hưởng của việc viết thư trong từng thời kỳ, từng nơi chốn, và cả ý định của người viết.Trình bày ngắn gọn và chuyển sang phong văn tiếng Anh hiện đại, để người đọc ngày nay có thể tiếp cận dễ dàng thông điệp của người viết. Mời các bạn đón đọc 50 Bức Thư Nổi Tiếng Thế Giới được biên dịch bởi Lưu Văn Hy & Thanh Hoa & Thanh Loan.