Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lằn Ranh Sinh Tử - Tim Winton

Pike đã từng trải qua thời khắc cận kề cái chết khi còn là một cậu bé tuổi 15: bị sóng vùi dập lúc trượt ván nước một mình - vùng vẫy trước cơn sóng cuồn cuộn của đại dương, bị hất văng khỏi tấm ván trượt và rơi xuống biển, hoảng loạn và mất phương hướng, cố hít thật nhiều hơi và thở sâu vội vã... Sóng cuốn xô đẩy đập vào những mỏm đá, rồi nhấn chìm cậu dưới làn nước lạnh buốt khiến cậu gần như bị tê cóng, ngạt thở... Nhưng chính bản năng sinh tồn trỗi dậy đã giúp cậu vượt qua hiểm nguy, và từ đó, cậu thấu hiểu tận tâm can hơi thở quý giá như thế nào! Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường không bận tâm nhiều đến hơi thở, luôn coi sự tồn tại của nó như một lẽ đương nhiên. Nhưng đến khi "hơi thở" có vấn đề, sẵn sàng dẫn đến tình trạng ngưng bặt, ta mới nhận ra sự "có mặt đương nhiên, bình thường" ấy lại quyết định cả mạng sống. Với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, nhưng đầy kịch tính, "Lằn ranh sinh tử" dẫn bạn dõi theo một câu chuyện lôi cuốn, đầy xúc động, qua đó, bạn càng hiểu rõ hơn tính chất vô giá của hơi thở, từ đó biết trân trọng, bảo vệ nó vì đây chính là "lằn ranh" mong manh giữa sự sống và cái chết. *** Chúng tôi chạy qua con đường phố có hai hàng cây xanh với đèn chớp và còi hụ, và khi bộ phận định vị GPS yêu cầu quẹo trái vào con đường kế tiếp, chúng tôi đã quẹo quá nhanh đến nỗi tất cả các thiết bị trên xe va đập vào nhau và chuyển dịch tứ tung. Tôi chẳng nói tiếng nào. Ớ đằng kia con đường ngoại ô sẫm tối, tôi có thể thấy ngôi nhà được rọi sáng giống như một chiếc tuần dương hạm. - Vào trong đó đi - Cô ta nói khi tôi chưa kịp nhìn rõ ngôi nhà. - Cảm thấy thoải mái khi đi chậm lại. - Ông bị căng thẳng hả, Bruce? - Cũng gần như thế - Tôi lẩm bẩm. Nhưng sự thật là tôi thấy tươi tỉnh. Như thế mỗi khi tôi cảm thấy dễ chịu, khi các đầu dây thần kinh reo vui, và trong lòng tôi đã có sự dự đoán. Đây là một sự chuyển biến lâu dài, chậm chạp, và chẳng bao giờ mất đi một chút tình cảm nào giữa Jodie và tôi. Vào lúc bàn giao, tôi tình cờ nghe một cuộc nói chuyện mà mình không được phép nghe. Nhưng đó là vài giờ trước đây. Giờ đây tôi đang cảnh giác và bồn chồn lo sợ. Đi đến địa chỉ của cuộc gọi, Jodie tắt còi hụ và quay xe lại để đi ngược con dốc. Tôi nghĩ cô ta có vẻ hãnh diện và tự kiêu với sự ý thức về năng lực của mình. Như vậy không phải là xấu, nhưng chỉ hơi non nớt thôi. Jodie không biết, nhưng tôi đã có những đứa con gái bằng tuổi của cô ta. Khi Jodie kéo cái thắng tay và gọi chúng tôi vào làm việc, tôi liền nhảy xuống mở cánh cửa bên hông để lấy túi đồ cấp cứu. Bên dưới các bậc cửa và trên bãi cỏ đẫm sương là một người đàn ông trung niên nằm co ro im lặng, trong thoáng chốc, tôi đã có thể thấy rằng mặc dù có lẽ bị gãy xương đòn, ông ta vẫn không phải là người thuộc trách nhiệm của chúng tôi. Thế nên tôi để mặc ông ta cho Jodie và tiếp tục bước vào nơi khung cửa tự giới thiệu. Trong phòng khách có hai đứa con gái tuổi mới lớn đang lui cui ở hai đầu cái trường kỷ bằng da. - Trên kia à? - Tôi hỏi. Một đứa chỉ lên mà chẳng buồn ngước đầu dậy, và tôi biết ngay rằng nhiệm vụ của mình chỉ là gói ghém và đưa đi thôi. Thường ngày nhìn thấy bộ sắc phục thì chúng vui mừng hi vọng, nhưng chẳng một đứa nào thèm liếc nhìn tôi. Tìm phòng ngủ không khó. Ngoài hiên có một vũng nôn. Những mảnh gỗ vụn. Tôi bước qua cái cửa bị gãy và nhìn thấy người mẹ nơi chiếc giường có đứa con trai đang nằm, và trong khi tự giới thiệu, tôi đã hiểu hết tất cả. Căn phòng xông lên mùi nước tiểu với mùi thuốc sát trùng, có thể thấy rõ là bà ta đã cắt dây đem đứa con trai xuống, thay đồ cho nó và sửa soạn cho thật tươm tất. Tôi lách vào bên bà ta và làm công việc của mình, nhưng đứa con trai đã chết. Nó vào khoảng mười bảy tuổi. Có dấu dây buộc trên cổ và nhiều vết bầm trước đó xung quanh. Dù tôi chỉ khám lấy lệ nhưng tôi thấy bà vẫn vuốt ve mái tóc đen xoắn của đứa con trai. Một đứa con trai khôi ngô. Bà đã tắm rửa cho nó. Mình nó thơm mùi xà phòng Pears và mùi quần áo mới ủi. Tôi hỏi tên bà, tên cậu con trai, bà nói tên bà là June, còn đứa con trai là Aaron. - Tôi rất tiếc, bà June, con bà đã chết rồi. - Tôi biết mà. - Bà đã tìm thấy nó ít phút trước, trước khi bà gọi điện thoại? Bà không nói gì. - Bà June này, tôi không phải là cảnh sát. - Họ đang đến. - Tôi mở cái tủ áo có được không? - Tôi hỏi vừa lúc Jodie bước vào cửa. - Tôi xin ông đừng mở, bà June nói. - Được. Nhưng rồi cảnh sát cũng sẽ mở. - Họ nhất định phải mở sao? Lần đầu tiên tôi thấy người mẹ nhìn tôi một cách nghiêm trọng. Bà là một phụ nữ xinh đẹp ở cái tuổi ngoài bốn mươi với mái tóc ngắn, màu đen, và đôi bông tai thòng xuống duyên dáng. Tôi hình dung khoảng một giờ trước đây, khi lớp son môi và cuộc sống của bà hãy còn yên ổn, hẳn bà là con người cương nghị và tự tin, thậm chí có phần cao ngạo. - Công việc của họ là vậy, thưa bà. - Có vẻ như ông cũng chỉ… giả định. - Bà June này - Tôi nói và liếc nhìn Jodie - Có thể nói là trong đời tôi, tôi đã từng được thấy một vài câu chuyện. Nói thực ra, tôi không thể kể lại với bà. - Vậy ông hãy nói cho tôi biết vì sao xảy ra chuyện này, tại sao nó lại gây ra cái chuyện này cho mình! - Tôi đã gọi một một chiếc xe nữa rồi - Jodie nói. - Đúng đấy - Tôi nói khẽ - Thưa bà June, đây là Jodie, cô ấy sẽ làm việc với tôi tối nay. - Hãy nói tiếp đi và cho tôi biết vì sao! - Vì chồng của bà bị gãy xương đòn - Jodie nói - Ông ấy húc vào cánh cửa này, phải không? - Vậy tôi sẽ nói với họ thế nào? - Người mẹ hỏi, làm như không biết đến Jodie. - Thật ra thì tuỳ bà quyết định - Tôi nói - Nhưng nói ra sự thật thì cũng chẳng có gì xấu hổ. Như vậy mới là công bằng đối với mọi người. Người đàn bà kia lại nhìn tôi một lần nữa. Tôi ngồi xổm trước mặt bà bên cạnh cái giường. Bà ta vuốt nhẹ chiếc váy trên đầu gối. - Chiếc váy này mỏng quá - Bà lẩm bẩm. Tôi cố nở một nụ cười thân thiện với bà nhưng cảm thấy mặt mình trơ cứng. Phía sau bà, tôi có thể nhìn thấy những tấm ảnh lớn thường gặp trên tường: những nhà lướt ván, những tay leo núi, những người phụ nữ trong các tư thế khiêu gợi. Cái kệ sách bên trên chiếc bàn trưng bày những thành tích thể thao cùng những món đồ lưu niệm mua từ Bali và chiếc máy vi tính hiển thị quay vòng hình ảnh toà tháp đôi sụp đổ. Bà nắm lấy bàn tay tôi và tôi đưa tay mình cho bà. Người bà cũng chẳng ấm áp hơn đứa con đã chết của bà. - Sẽ không có ai hiểu cho đâu. - Vâng - Tôi nói - Có lẽ là không. - Ông cũng có con chứ? - Phải. Có tiếng cửa xe đóng sầm dưới đường. - Bà June, bà vui lòng ở lại đây một mình với Aaron trước khi cảnh sát vào, được chứ? - Tôi đã có được một thời khắc dễ chịu - Bà nói và buông tay tôi ra để vỗ nhẹ mơ hồ lên mái tóc mình. - Jodie, nhờ cô xuống dưới bảo cho cảnh sát biết chúng ta đang ở đâu nhé. Jodie khoanh tay cáu kỉnh nhưng rồi bước đi với chòm tóc đuôi ngựa đong đưa. - Cô gái này không thích anh. - Vâng, không thích cho lắm. - Vậy thì tôi nên làm gì? - Tôi không thể khuyên gì bà được, thưa bà. - Tôi còn phải lo cho mấy đứa con nữa. - Vâng. - Và một ông chồng. - Tôi e rằng ông ấy phải vào bệnh viện. - Cũng may cho ông ấy. Tôi đứng lên thu dọn bộ dụng cụ của mình. Bà ta đứng dậy, vuốt vuốt chiếc váy và nhìn lại đứa con trai nằm trên giường. - Bà có cần tôi gọi giúp cho ai nữa không? Jodie và hai viên cảnh sát xuất hiện nơi cửa. - Gọi ai ư? - Bà June nói - Ông có thể gọi cho con tôi trở về. Ông thấy đó, nó đâu có nghe lời mẹ nó. Khi chúng tôi sắp trở về trạm nghỉ ngơi thì Jodie phá vỡ sự im lặng. - Vậy anh định đến khi nào mới cho chúng tôi biết về tất cả mọi chuyện? - Tất cả chuyện gì? - Chuyện về người phụ nữ tội nghiệp này. Có một lúc ở đấy tôi nghĩ là anh đã tán tỉnh bà ta. - Được, cô có thể ghi thêm chuyện ấy vào trong nội dung tố tụng của cô. - Kìa, tôi xin lỗi nhé. - Kiêu căng, lạnh nhạt, thành kiến với giới tính, thiếu cởi mở. Rõ ràng là tôi đã không nắm hết mọi chuyện, vì đến trễ. Nhưng, Jodie, hãy nhớ rằng tôi không phải là một cựu chiến binh tại Việt Nam. Dù cô có tin hay không tin, nhưng khi ấy tôi chưa đủ tuổi. - Tôi thấy thật ghê sợ, đúng không? - Vậy hãy nên thay đổi công việc. Hãy làm khách mời của tôi. Nhưng đừng gièm pha như lúc bàn giao ỗ giữa nhà kho mà cô quay lưng ra cửa. Như vậy không phải là thân thiện và chuyên nghiệp. - Kìa, tôi đã nói là tôi xin lỗi mà. Khi nhìn lại Jodie, trong ánh đèn của một xe tải chạy qua, tôi thấy cô ta gần như đang khóc. Cô ta gục đầu trên tay lái. - Cô không sao chứ? Jodie gật đầu. Tôi hạ kính xe xuống. Thành phố nồng sặc mùi cỏ ướt và khói thải. - Tôi không ngờ là chuyện này làm tôi xúc động mạnh đến thế. - Chuyện gì? - Đây là vụ tự tử đầu tiên tôi gặp - Cô ta lẩm bẩm. - Phải, ghê thật. Nhưng đâu phải là tự tử. - Trời ơi, Bruce, người ta đã phải phá cánh cửa vào để cắt và đem nó xuống. Thằng nhỏ đã tự treo cổ. - Rủi ro thôi. - Nhưng sao anh biết thế? - Tôi là người biết tất cả. Cô không nhớ à? Cô ta nhăn mặt và tôi bật cười. - Này, anh là một người kỳ lạ. - Tôi cũng nghĩ thế. - Anh không định nói cho tôi biết sao? Tôi không tin là anh sẽ không nói. Tôi ngồi ở đó một lúc, nghĩ về những con người tội nghiệp đã làm sạch sẽ hiện trường trước khi chúng tôi tới. Bà mẹ ngồi đấy, băn khoăn với những nhục nhã, ngượng ngùng. Những đứa trẻ khác dưới kia sững sờ vì cú sốc. Người cha trên bãi cỏ ngoài kia trông như một pho tượng. - Hãy để lúc khác - Tôi nói. - Được - Cô ta nói - Tôi cứ chờ đó. Chúng tồi lặng lẽ chạy trở về nhà để xe. Tôi lao sâu vào đám sa mù dày đặc bên dưới mặt biển, xuyên qua bao lớp bọt tăm cho đến khi hết mọi nhiễu loạn, thì tôi gục người rũ rượi giữa vùng sáng xanh mờ nhạt trong khi tất cả hơi nóng nơi lồng ngực tôi tan đi và sự sống rút dần ra khỏi cơ thể tôi. Thế rồi một luồng ánh sáng trắng từ trên rọi xuống. Một người nào đó trên mặt nước đang bơi lại. Người đó nắm lấy tôi, kéo lê đi, và thổi không khí vào trong tôi nghe nóng như là luồng máu. Anh ta dúi xuống rồi ngưng lại, và tôi nhận thấy bộ mặt của mình qua bóng tối, ngập ngừng ở khoảng xa một cánh tay, có vẻ như không biết nên làm gì. Miệng tôi mở ra. Một chuỗi bong bóng sáng ngời tuôn ra và tôi không sao hiểu được. Rồi tôi thức dậy với tiếng lầm bầm trên chiếc trường kỷ trong căn hộ trống, nơi có nắng chiều xuyên ngang qua khung cửa trượt, vẫn còn mặc bộ sắc phục. Nơi này bốc mùi mồ hôi cùng mùi gà chiên bơ. Tôi đứng dậy, xô cánh cửa, nghe hơi gió nam mằn mặn. Tôi đi tiểu, bật ấm nước lên và rút lấy cái ống didj bên dưới tấm thảm lót nhà được làm bằng rong biển. Bên ngoài hành lang, cỏ mọc cao và xanh. Tôi bôi sáp ong lên miệng ống rồi dọn sạch cổ họng. Sau đó tôi thổi cho đến khi cổ họng bỏng rát. Tôi thổi vào những căn hộ trâng tráo chắn ngang giữa tôi với bãi biển. Tôi thổi vào những con hải âu đang ăn bánh pizza ngoài bãi đậu xe và luồng khí thổi ngang qua tôi thành những vòng tròn, nóng bức, vù vù, bất chấp tất cả. Nóng trên bầu trời xanh nhạt. Nóng trong căn hộ, trong thế giới chói chang ngoài kia. ... Mời các bạn đón đọc Lằn Ranh Sinh Tử của tác giả Tim Winton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Đầm Ma - George Sand
George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Mặt đẫm mồ hôi, ngươi kiếm sống; Đời người khốn khổ, chẳng ra chi. Lao động, mỏi mòn, như thế mãi, Đến ngày thần chết gọi ngươi đi. Đoạn thơ bốn câu bằng tiếng Pháp cổ đó, đặt bên dưới một bức tranh của Holbein, thật là mộc mạc, mà lại buồn thấm thía. Bức tranh miêu tả một người thợ cày đang cày giữa một cánh đồng. Một vùng quê rộng lớn trải ra xa xa, người ta trông thấy ở đó những túp lều tồi tàn; mặt trời đang lặn sau đồi. Đây là vào cuối một ngày làm việc nặng nhọc. Người nông dân đã già, thấp béo, quần áo rách rưới. Cỗ ngựa bốn con, ông đang đẩy về phía trước, vừa gầy, vừa kiệt sức, lưỡi cày ngập sâu xuống một thứ đất gồ ghề, khó làm. Trong cảnh này chỉ có một sinh vật vui vẻ và nhanh nhẹn. Đó là một nhân vật quái dị, một bộ xương, được vũ trang bằng một cái roi, coi như làm thợ phụ cho ông lão thợ cày, đang chạy trong luống cày, bên cạnh mấy con ngựa đang khiếp sợ, và đuổi đánh chúng. Tôi vừa xem bức tranh ấy một lúc lâu và thấy buồn thấm thía, rồi tôi ra đồng đi dạo, lan man nghĩ đến đời sống nơi đồng ruộng và số phận người thợ cày. Chắc chắn là vất vả rồi, khi phải tiêu hao sức lực và ngày tháng của mình vào việc cày xới mảnh đất ác nghiệt ấy, mà phần thưởng duy nhất và lợi lộc duy nhất nhận được cuối một ngày làm việc nặng nhọc như thế, chỉ là một mẩu bánh mì loại đen nhất và tồi nhất. Những tài nguyên bao phủ mặt đất kia, những thóc lúa gặt về kia, những hoa quả kia, những con vật kiêu hãnh được nuôi béo trong đám cỏ cao kia, là tài sản của một vài người và là công cụ làm mệt mỏi và nô dịch số người đông nhất. Kẻ nhàn rỗi nói chung đâu có yêu những cánh đồng, đồng cỏ, cảnh sắc thiên nhiên, những con vật đẹp, mà tất cả những cái đó phải được đổi ra những đồng tiền vàng để người ấy tiêu dùng. ... Mời các bạn đón đọc Cái Đầm Ma của tác giả George Sand.
Bóng Ma Giữa Trưa - Alberto Moravia
Ricardo Molteni là một người chồng trẻ hạnh phúc. Anh yêu vợ và được vợ yêu một cách nồng nàn. Tình yêu của họ đơn giản, trong sáng, hồn nhiên như hơi thở của họ. Tuy nhiên, một chuỗi những ngộ nhận, như một phần của Định Mệnh, với những trò đùa tinh vi và tai ác của nó, đã dần đẩy họ ngày càng xa nhau. Ricardo càng tìm cách để chinh phục lại tình yêu của chính vợ mình càng như vấp phải bức tường của những ngờ vực, định kiến của một người vợ càng nồng nàn trong tình yêu lại càng sắt đá và bướng bỉnh trong lòng căm hờn. Những tâm trạng mà Ricardo trải qua, từ thảng thốt, ngờ vực, đến hoang mang, tuyệt vọng, đã đi đến tận cùng của giới hạn, của những thống khổ của một kiếp con người. Sự xuất hiện của kẻ thứ ba trong cuộc tình, Battista với những lợi thế về tiền bạc,, vật chất của hắn, chỉ là một nhân tố xúc tác để đẩy mau những diễn biến của màn kịch, cho trò chơi của Định Mệnh mau chóng đi đến hồi chung cuộc. Khi Ricardo phát hiện ra những sai lầm của mình thì mọi chuyện đã trở nên quá muộn, để từ đó càng tuyệt vọng trong mơ ước khắc khoải được yêu, được sống lại trong cái thế giới bình yên của hạnh phúc. Cái chết của Emilia chỉ như là một kết thúc buồn thảm nhưng tất yếu, có lẽ, đã hoá giải được tấn bi kịch muôn thưở của tình yêu và hơn nữa làm cho phép mầu tình yêu được nhóm lêng trong tim ta ngọn lửa ấm áp… Chủ đề của tác phẩm là những diễn biến tâm lý phức tạp của bốn nhân vật đầy cá tính đối đầu nhau trong bủa vây của tình yêu cũng như của công việc trong đời sống. Chuyển biến của những xúc cảm, hành vi của các nhân vật, tác động bởi một xã hội chuẩn mực vật chất, vai chính trở nên như một con rối trong tay người diễn trò. Giá trị của tác phẩm Alberto Moravia càng nâng cao hơn ở những phân tích tâm lý sâu sắc, đưa người đọc sống cùng với nhân vật, chia sẻ với nhân vật từng tâm trạng, từ hân hoan, vui sướng cho đến buồn thảm, tuyệt vọng, làm người đọc cảm thấy thấm thía cho thân phận nhỏ nhoi yếu ớt của con người trong oái oăm của trò trốn bắt của hạnh phúc, của bi kịch. Về mặt văn học, với Bóng ma Giữa trưa, A. Moravia đã tạo nên một kiệt tác cổ điển lãng mạn đúng nghĩa, vừa tinh tế, vừa mạnh mẽ, vừa đam mê, vừa cuồng nhiệt trong tình yêu và ảo ảnh cuộc đời. Alberto Moravia là một trong những nhà văn Ý có lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Ông sinh năm 1907 ở Rome. Thời niên thiếu ông hay ốm đau, bệnh tật nên học hành dang dở, và chuyển sang viết văn từ rất sớm. Ông xuất bản cuốn tỉêu thuyết đầu tay vào năm 1925, khi vừa mười tám tuổi. Văn tài của ông sớm bộc lộ, đưa ông trở thành đại diện ưu tú nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong trào lưu văn học Ý hiện đại. Những tác phẩm của ông tiêu biểu là "Những kẻ lãnh đạm", "Bệnh truyền nhiễm", "Aghostino", "Cô gái thành Rome", chứng tỏ tài năng lớn của A.Moravia trong hiểu biết thấu đáo về đời sống, phng tục, ngôn ngữ, tư duy, và nhất là tình yêu của người dân Ý nói chung và của người dân Rome nói riêng. Ông có một cai nhìn nhân hậu, đầy thông cảm với người nghèo, "con người nhỏ bé", luôn bị thua thiệt trong xã hội tư bản. Trong những năm đầu của chế độ phát xít, sách của ông bị cấm và bản thân nhà văn phải đi lánh nạn. Biệt tài dẫn nhập người đọc vào trong thế giới của các nhân vật khiến Moravia trở nên một trong những nhà văn có sức hấp dẫn đặc biệt. Người dịch mong muốn giới thiệu với độc giả một tác phẩm hay trong văn học hiện thực đương đaị, để bổ sung vào tủ sách Văn học nước ngoài, trong đó nền văn học Ý có một vị trí quan trọng nhất định. Mặt khác, chúng tôi cũng mong muốn chuỷên đến người đọc tấn thảm kịcyh của nhân vật chính mà không ít lần trong cuộc sống đời thường, chúng ta đã ngậm ngùi chứng kiến. Biết đâu có thể là một bài học cho những ai quá vô tư với hạnh phúc, để làm sao tránh khỏi phải gặp tình trạng đến khi hạnh phúc mất đi mới biết được giá trị đích thực của nó thì đã quá muộn màng. Trương Xuân Huy *** Chuyến trở về của tôi rất chậm chạp, từng lúc, tôi ngưng chèo và ngồi yên, hai tay nắm chặt đôi mái dầm, mắt nhìn sững xuống mặt biển xanh, sáng ngời. Rõ ràng tôi đã trải qua một ảo giác. Như lần cách đây hai hôm, khi Emilia nằm dài trần truồng phơi nắng và tôi đã tưởng tượng ra mình đã cúi xuống và hôn nàng, trong khi thật ra, tôi vẫn ở nguyên tại chỗ, thậm chí, không hề đến sát bên nàng. Lần này, ảo giác chính xác và rõ nét hơn, nhưng để chứng minh đó chỉ là một ảo giác không hơn không kém, tôi nghĩ có lẽ không cần chứng cứ nào khác hơn là cuộc trò chuyện mà tôi đã tưởng tượng trao đổi với bóng ma của Emilia – một cuộc trò chuyện trong đó, tôi đã cho Emilia nói những gì tôi ao ước nàng nói, và có những thái độ tôi ao ước nàng co. Mọi điều bắt đầu và chấm dứt ngay nơi tôi. Điều khác biệt duy nhất trong những trường hợp như thế này là tôi đã không tự giới hạn trong phạm vi chỉ tưởng tượng ra những gì tôi ao ước xảy ra, nhưng từ nguồn cảm xúc tràn ngập thôi t húc trong lòng, tôi đã tự đánh lừa mình bằng cách xem những điều mong ước ấy đã thật sự xảy ra. Điều lạ lùng là tôi không lấy làm ngạc nhiên chút nào vì đã có một ảo giác không những kỳ dị, mà có lẽ chưa từng có với bất kỳ ai. Như thế là ảo giác còn tiếp diễn, tôi không để ý đến tính hư vô của nó mà chỉ quan tâm đến những chi tiết, lần lượt tạo dựng lại từng chi tiết một, dừng lại một cách khoái trá ở những tình huống làm tôi sung sướng nhất. Emilia xinh đẹp biết bao khi ngồi ở đuôi thuyền, không thù nghịch, nhưng tình tứ biết bao, những lời nói của nàng ngọt ngào, và những cảm xúc của tôi mãnh liệt biết bao khi tôi ngỏ lời muốn làm tình với nàng và nàng khẽ gật đầu đồng ý. Giống một kẻ vừa trải qua một giấc mơ đầy khóai lạc và sống động, đến khi thức dậy còn vương vấn một cách thú vị với cảnh tượnmg và cảm xúc trong mơ, tôi thật tình còn sống trong ảo giác, tin vào nó, và vui sướng được sống lại với nó trong hồi ức, tôi không bận tâm lắm về vấn đề đó chỉ là ảo giác, vì tôi đã trải qua những cảm giác thật, như người ta cảm thấy được trước một sự việc có xảy ra thật. Vẫn lưu luyến với những chi tiết của ảo ảnh, tôi chợt nảy ra ý tưởng đối chiếu lại một lần nữa thời gian khi tôi rời Piccola Marina bằng thuyền với thời điểm tôi ra khỏi Hang Đỏ, và tôi sửng sốt nhận ra tôi đã ở lại lâu đến thế trên bãi ngầm trong hang ấy. Trừ đi chừng bốn mươi lăm phút là thời gian tôi đi từ Piccola Marina đến Hang Đỏ, thời gian tôi ở trong hang phải lâu hơn một giờ đồng hồ. Như đã nói ở trên, tôi đã cho thời gian ấy là thời gian tôi ngất đi, hoặc ít ra, thiếp đi. Bây giờ đây, xét lại ảo giác của tôi, xét vì nó kéo dài một cách đầy đủ và đáp ứng một cách thoả đáng những ước nguyện sâu xa nhất của tôi, tôi tự hỏi phải chăng tôi đã nằm mơ hết toàn bộ sự việc. Phải chăng tôi đã lên thuyền một mình từ ở bãi tắm với chẳng một con ma nào trên thuyền, và đã chui vào hang một mình, nằm dài ra bãi và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ - nếu đúng như thế - tôi đã nằm mơ thấy tôi bắt đầu lên thuyền cùng với Emilia ngồi gần ở cuối thuyền, tôi đã nói chuyện với nàng, nàng đã trả lời tôi, tôi đã ngỏ ý muốn làm tình với nàng và cả hai chúng tôi đã vào hang. Rồi thì tôi cũng đã mơ thấy tôi đã đưa tay để đỡ nàng nhảy ra khỏi thuyền, tôi đã tìm nàng mà không thấy, tôi đã hoảng sợ, tôi đã nghĩ rằng tôi đã đi chung thuyền với một bóng ma, tôi đã nằm phục xuống bãi cát và ngất đi. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Ma Giữa Trưa của tác giả Alberto Moravia.
Ba Con Gà Mái Pháp - Lynsay Sands
Hướng dọc theo cái bàn dài trước mặt, Brinna liếc xung quanh căn bếp. Hai cậu nhóc đang giã lấy các loại gia vị với chày cối ở góc bếp, trong khi một cậu bé khác đang cần mẫn quay một con heo trên trục nướng. Ngoài ra thì có Lady Christina và Bếp trưởng, cô và Aggie là những phụ nữ duy nhất có mặt ngay lúc này. Những người khác đang tất bật chuẩn bị cho những vị khách đột xuất mà Lord Menton đã đem về nhà cùng ông. Bản thân Aggie cũng chỉ vừa tới đây khi xong việc của bà. ... Mời các bạn đón đọc Ba Con Gà Mái Pháp của tác giả Lynsay Sands.
Thời Của Mỗi Người - Lê Minh Quốc
Thời của mỗi người là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Lê Minh Quốc bao gồm 9 chương kể về cuộc đời của người lính. *** Tờ lịch của năm 1978 sắp rơi vào hư không. Một năm sẽ qua. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đang tiến gần đến giai đoạn quyết liệt nhất. Sáng nay, không giống như mọi ngày. Một buổi họp bất thường của đại đội đã diễn ra. Bóng cây râm mát, tiếng chim hót véo von - đó là những nhân chứng của lịch sử ngàn đời vĩnh cửu. Một ngày không giống như mọi ngày. Chính trị viên Chương ngồi bệt xuống đất, trước mặt anh là tấm bản đồ tác chiến ... Mời các bạn đón đọc Thời Của Mỗi Người của tác giả Lê Minh Quốc.