Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Dublin (James Joyce)

Một Dublin hiện lên với những đường phố, nhà thờ, quán rượu, sòng bạc…cùng tiếng nói cười ồn ã, xô bồ của những con người sống trong những không gian chật chội, xám xịt, trong những khoảnh khắc ngày đêm bất chợt…Các nhân vật của Người Dublin đang cố gắng giãy giụa, vượt thoát khỏi cuộc sống thường ngày đáng chán…Ai vượt qua, người đó sẽ là anh hùng như Ulysses. Anh hùng, trong đời sống hàng ngày, trong từng thời khắc sống. Hình như James Joyce đang từ nơi xa lắm vẫy gọi chúng ta: “Bạn ơi! Can đảm lên mà sống. Hãy là Ulysses”

Một tập truyện ngắn day dứt lòng người với những bí ẩn, những khoảng tối tăm nơi tâm hồn con người trong cái xã hội tê liệt, tù đọng, dối trá, đói khổ…

Nó hé mở cho bạn đọc những bí ẩn tâm hồn, chìm lấp rất sâu nhưng luôn hiện lộ và được che giấu dưới vẻ bề ngoài “lịch sự”, những lời hoa hòe hoa sói, những cử chỉ thanh tao.***

Jame Joyce (1882-1941), một trong những nhà văn vì đại nhất của thế kỷ XX, là người Ireland, viết rất ít. Bốn tác phẩm chính của ông gồm: Ngươi Dublin (Dubliners, 1914), A Portrait of the Artist as a Young Man (1916), Ulysses (1922) và Finnegans Wake (1939). Ngoài ra ông còn viết thơ (tập Chamber Music, 1907), và kịch (Exiles, 1918). Trong cuộc bình chọn gần đây (2007), do nhà xuất bản danh tiếng về sách chuyên khảo W.W. Norton (Anh) tiến hành với sự tham gia của 125 trong số những nhà văn lớn nhất thế giới, Ulysses và Dubliners của Joyce nằm trong danh sách 20 cuốn sách được yêu thích nhất.

I. Một James Joyce quốc tế Tìm mua: Người Dublin TiKi Lazada Shopee

Nằm ở Tây Bắc châu Âu, Ireland là hòn đảo lớn thứ ba châu Âu với diện tích trên 70.000 km2. Còn được gọi là hòn đảo ngọc lục bảo bởi vùng đồng quê xanh tươi tuyệt đẹp với những con sông và hồ đầy nước mát, những trận mưa thường xuyên, những màn sương mù, cùng với nền văn hóa Celtic lâu đời, Ireland đã sinh ra những nhà văn nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng thế giới. Jonathan Swift, James Joyce, George Bernard Shaw, Patrick Kavanagh, Oscar Wilde, W.B. Yeats, Samuel Beckett, Seamus Heaney...Tuy không được trao giải Nobel văn học như Shaw, Yeats, Beckett và Heaney bởi một số lý do ngoài văn chương, James Joyce luôn được coi là một trong những nhà văn vĩ đại nhất, có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.

James Joyce sinh ngày 2 tháng 2 năm 1882 tại Rathgar, ngoại ô thủ đô Dublin, là con cả của John Stanislaus Joyce và Mary Jane Murray, gia đình khá giả, nhưng nhanh chóng sa sút, có tới mười người con. Tuổi thơ Joyce gắn bó thân thương với Dublin, là trung tâm hành chính của chính quyền Anh tại Ireland. Dạo luật Liên hiệp giữa hai nước được thông qua năm 1800. Từ thời vua Henry VIII (1509-1549) khi nước Ireland Công giáo bị đặt dưới sự cai trị của nước Anh Tin Lành đã xuất hiện căng thẳng giữa hai phái Thiên Chúa giáo và Tin Lành. Vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời vua James I (1603-1625), một lực lượng lớn người Tin Lành bắt đầu sinh sống tại miền Bắc Ireland, trong đó có Belfast, thành phố nằm ở phía đông bắc đảo Ireland (nay là thủ đô Bắc Ireland thuộc Vương quốc Anh), hình thành ở đây cộng đồng da số Tin Lành, vẫn tồn tại ngày nay. Phần còn lại của Ireland chủ yếu là người công giáo. Cuối thế kỷ XVII, phần lớn đất đai của Ireland nằm dưới quyền kiểm soát của những người Tin Lành. Đạo luật Chính phủ Ireland năm 1920 công nhận thực tế phân chia tôn giáo này bằng cách tuyên bố tách Ireland thành hai chính thể riêng biệt, miền nam Ireland chủ yếu là Công giáo, miền bắc Ireland chủ yếu là Tin lành. Sau đó miền nam cắt đứt mọi liên hệ với Anh, tách ra độc lập thành nước Cộnghòa Ireland vào năm 1949. Miền Bắc Ireland tiếp tục thuộc Vương quốc Anh.

Joyce học giỏi, có năng khiếu ngôn ngữ, tự học, say mê trường ca Odyssey, tính khí bất thường, rất gần gũi mẹ, bị tác động mạnh bởi cái chết của bà năm 1903. Joyce từ chối theo đạo Thiên Chúa, mặc dù nó rất quan trọng với mẹ ông. Thế nhưng triết lý của Thiên Chúa giáo vẫn ảnh hưởng đến Joyce mạnh mẽ suốt cuộc đời. Cha ông trực tính, sau khi kinh doanh sa sút phải bươn chải đủ nghề, từ làm chính trị đến đi thu thuế. Mẹ ông sùng đạo Thiên Chúa, bất lực trước cảnh gia đình ngày càng túng quân, chỉ biết là một cái bóng dưới ảnh hưởng của ông chồng.

Thời thơ ấu, Joyce được học trường dòng Clongowes Wood nổi tiếng gần Dublin, cha mẹ cậu đồng tình nếu chính cậu cảm thấy linh hồn mình có sức khát khao gia nhập Giáo hội. Sau vài lần tiếp xúc với tôn giáo, cậu mất niềm tin và thay đổi cách nghĩ về những gì cậu đã từng cho là vĩ đại. Nền giáo dục của thế giới Giáo hội đã dạy Joyce hơn cả những gi họ định đào tạo cậu. Nó đã giúp cậu mở to cặp mắt trong sáng để nhìn thấy sự giả dối, lừa đảo của giới thây tu, cha cố. Và cả niềm tin kính Chúa cũng bị đổ vỡ trước dòng đời bế tắc, những thân phận bất hạnh, đói khổ và đau ốm...ngay chính từ người mẹ yêu thương của cậu.

Năm 1898, Joyce nhập học Đại học Tổng hợp Dublin ngành Ngôn ngữ, học tiếng Anh, Pháp và Ý. Ở đây cậu bắt đầu tìm thấy niềm đam mê văn chương qua các tác phẩm, nhất là của nhà viết kịch Na Uy Henrik Ibsen. Lúc này Joyce bắt đầu viết văn và sáng tác thơ.

Tốt nghiệp đại học năm 1902, chàng thanh niên 20 tuổi Joyce quyết định rời bỏ thành phố Dublin nhỏ bé để tìm đường sang Paris, với ý định ban đầu sẽ học Y khoa. Sau đó, cái chết của mẹ ông khiến ông phải quay lại Ireland, nhưng không lâu sau, sau khi gặp Nora Barnacle vào ngày 16 tháng 6 năm 1904, người chính thức trở thành vợ ông năm 1931, Joyce rời bỏ Dublin, sống lưu vong suốt đời và trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX. (Lần cuối cùng ông quay lại quê hương là năm 1912, để thu xếp việc in Dubliners, sau đó Joyce không bao giờ trở lại Ireland nữa).

Cùng với Nora, Joyce chuyển đến và sống bằng nghề dạy tiếng Anh từ năm 1905 đến năm 1915 tại Trieste, nay thuộc Ý, lúc đó được xếp vào hàng những thương cảng lớn nhất thế giới. Những năm tháng nghèo túng ở Trieste chính là thời gian Joyce có nhiều sáng tác được xuất bản nhất - tập truyện ngắn Dubliners, tiểu thuyết A portrait of theArtist as a Young Man, kịch Exiles và cũng tại đây ông bắt tay viết tác phẩm quan trọng nhất Ulysses. Tên tuổi Joyce bắt đầu gây được sự chú ý với phong cách viết theo dòng ý thức.

Chiến tranh thế giới thứ nhất đe dọa, Joyce đưa gia đình mình (khi đó có thêm hai con Georgio và Lucia) sang Zurich Thụy sĩ để sống rất nghèo khổ trong lúc Joyce tiếp tục viết Ulysses và trải qua những lần phẫu thuật mắt liên miên. Chiến tranh kết thúc, mặc dù Joyce muốn quay trở lại định cư ở Trieste nhưng bạn bè đã thuyết phục họ ở lại Paris 20 năm. Tại đây, Joyce hoàn thành và cho xuất bản Ulysses và sáng tác toàn bộ cuốn Finnegans Wake.

Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, gia đình Joyce quay lại Zurich, tháng1 năm 1941, ông mất tại đó.

II. James Joyce - nhà văn khởi đầu Chủ nghĩa hiện đại.

James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez (Colombia)...

Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học.

James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông.

Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm.

Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng.

Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud.

Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học.

Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...và chàng đã chiên thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau 20 năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước...

Tiểu thuyếy Ulysses của James Joyce sử dụng thiên trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta, Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày 16 tháng 6 năm 1904 (là món quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố.

Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dâu câu) cùng thủ pháp "dòng ý thức" miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành riêng cho "một số độc giả nhạy cảm, tinh tế" như nhà phê bình Joseph Collins nhận xét.

Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic của những giấc mơ, hơn 600 trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không ai vượt nổi.

Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi "James Joyce là nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà chúng ta có thể chắc chắn 1000 năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác.

III. Người Dublin:

Tuy Joyce thường được biết tới với tiểu thuyết Ulysses, nhưng giờ đây khi nhắc đến phong cách truyện ngắn hiện đại, James Joyce cùng với tập người Dublin vẫn sánh vai với những tên tuổi đi tiên phong lĩnh vực này như Guy de Maupassant, Katherine Mansfield, Ernest Hemingway...Người Dublin được đánh giá là một trong số ít tậptruyện có sức ảnh hưởng lớn nhất, góp phần làm nên diện mạo của truyện ngắn hiện đại.

Một số nhà nghiên cứu đã so sánh Người Dublin với "thời kỳ Hồng" và "thời kỳ Xanh" của Picasso, giai đoạn họa sĩ hoàn thiện kỹ thuật của mình qua hình thức tả thực quen thuộc trước khi bắt đầu thử nghiệm với những khối lập thể trừu tượng phá cách. Quả thật, tập truyện ngắn Người Dublin dễ đánh lừa người đọc với ấn tượng đây là tác phẩm "dọn đường" bởi cái vẻ đơn giản, dễ hiểu, dề "vào" nếu đặt bên những Ulysses và sau đó là Finnegans Wake, hai tác phẩm với những sáng tạo đột phá về mặt ngôn từ. Nhưng, cũng giống như bức "Cậu bé và chiếc tẩu (thời kỳ HỒng)" về sau kiêu hãnh sánh ngang với "Dora Maar với con mèo (thời kỳ Lập thể) trong 10 bức tranh đắt nhất thế giới, có thể nói Người Dublin cũng chứa đựng những giá trị khiến người đọc đau đầu không kém gì Ulysses.

Người Dublin gồm 15 truyện ngắn James Joyce viết từ năm 1904 đến năm 1907. Tuy nhiên, phải 1o năm sau, năm 1914, Người Dublin mới được in. Nhiều nhà xuất bản phản đối vì ngôn ngữ truyện thông dụng đời thường, nó nêu tên thật của các nhà kinh doanh, các địa danh có thể xác định, và quan trọng hơn cả, đây là cuốn sách phản ánh những mảng đen tối của cuộc sống đương đại, trong bối cảnh phong trào đòi độc lập từ Anh đang lên cao tại Ireland - xã hội Ireland bị chia cắt bởi khác biệt chính trị, tôn giáo và văn hóa.

Tập truyện là những trải nghiệm của James Joyce trong bối cảnh đó, và có thể nói, nó làm nên nền tảng cho toàn bộ văn chương của ông, là bối cảnh cho các tác phẩm ông viết sau này. Người Dublin là những bí ẩn, những khoảng tối nằm sâu trong tâm hồn con người trong cái xã hội tê liệt, tu đọng, dối trá, đói khổ, tối tăm và bế tắc của Dublin. Cách viết Người Dublin khác hẳn lối kể truyện truyền thống. Tác giả chỉ kể lại, một cách chậm rãi, kiệm lời, còn để người đọc tự suy ngẫm, phỏng đoán, kết luận. Không có cốt truyện rõ ràng. Không tiền khoáng hậu. Không có xung đột kịch tính. Là những khoảnh khắc bất ngờ, ngẫu nhiên, bình thường và lặng lẽ, là giây phút mà tính cách bên trong của con người bỗng biểu lộ qua những chi tiết sinh hoạt thường ngày chân thật. Joyce gọi đó là "hiển lộ" - epiphany.

Joyce viết Người Dublin trong nhiều năm, song thứ tự các truyện trong tác phẩm được xếp theo trật tự diễn biến tâm hồn bí ẩn của con người, từ thời thơ ấu, đến thanh niên, trưởng thành, tuổi già và cái chết. Trong Người Dublin, thành phố Dublin hiện ra rõ ràng cảnh sắc, con người, đường phố, nhà thờ, quán rượu, bàn tiệc, tiệm ăn, khách sạn, nhà trọ, công sở, rạp hát, dạ hội, sòng bạc...vang lên những tiếng nói ồn ã, xô bồ, bởi trò chuyện của những con người sống trong những không gian chật chội, xám xịt, trong những khoảnh khắc ngày đêm bất chợt. Họ là tất cả những người đang sống ở Dublin cùng với Joyce thời ấy: những chú bé, những gã ga lăng vô công rồi nghề, cô hầu, gái điếm, cha cố, những bà chị, cô em, bà góa, những người mẹ, những người đàn ông...Họ đang sống và chết dần chết mòn. Các nhân vật trong Người Dublin đều nhận thấy thực chất cuộc sống bi thảm của mình, luôn bị giằng xé bởi thực tại, muốn vươn cao hơn, muốn thay đổi, nhưng họ không làm gì được. Tất cả đều rơi vào tình trạng bế tắc đến nghẹt thở qua từng câu chữ của Joyce.

Phương pháp kể chuyện của Joyce trong Người Dublin là dùng chính những ngôn ngữ đuờng phố, chính tiếng nói, hành động, cử chỉ, dáng điệu của mọi người, để tự nó phơi bày những tính cách xấu xa sâu kín của nó, những tầng ngầm bí ẩn tâm hồn. Những lời trò chuyện, những tiếng nói, những đối thoại, những hành vi ứng xử thường ngày của Dublin đã được Joyce cấu trúc lại trong văn bản nghệ thuật của mình như một trò giễu nhại, như một công cụ lợi hại để chỉ ra những sự thật đáng ghét, những bế tắc, tuyệt vong chìm sâu, đóng kín nơi tâm hồn. Đàng sau những lời nói hoa mỹ, những câu diễn thuyết hào hùng, những cử chỉ, điệu bộ vờ vịt tưởng như hào hoa phong nhã, lịch lãm, thiêng liêng là những trò bịp bợm, đê tiện lừa dối, đạo đức giả, âm mưu, tội lỗi, ám ảnh tình dục, lòng tham, sự ham hố hão huyền, sự tàn ác, nhẫn tâm...của con người. Cuối cùng là nỗi ân hận, day dứt triền miên mang xuống tuyền đài chưa tan...

Có thể tiếp cận Người Dublin từ góc độ xã hội, lịch sử, tôn giáo hay âm nhạc. Và tiếp cận cách nào, người đọc cũng sẽ luôn tìm thấy nhiều bất ngờ qua những ẩn ý của Joyce - tưởng như vậy nhưng lại không phải là vậy. Người Dubiin dẫn người đọc tham dự vào cuộc sống thường ngày hết sức sinh động, chân thực của Dublin, nhưng đó chỉ là bề nổi, còn cái "phần bí ẩn tâm hồn" nằm sâu trong trò chơi chữ của Joyce mới là cuộc sống thật, tâm trí thật đầy bí ẩn và không thể lường được, khó mà hiểu hết.

Với Người Dublin, người đọc không thể đọc một cách dễ dàng, lướt qua câu chữ, hay tìm cốt truyện ra sao, như cách đọc văn chương thế kỷ XIX, mà phải đọc và suy nghĩ để tìm bí ẩn tâm hồn hay "phần chìm của tảng băng trôi" qua những lớp ý nghĩa chìm ẩn trong từng câu chữ. Người Dublin là nghệ thuật văn chương hiện đại. Nó đáp ứng lối tư duy của con người hiện đại. Đó làcách nghĩ không theo quy luật một chiều và thứ tự giờ giấc như ngày và đêm. Đó là lối suy nghĩ tầng này lớp nọ, xuyên thời gian, không gian, chằng chéo, đa chiều, đa phương, khôn khéo che đậy, thậm chí nghĩ một đàng làm một nẻo và nghĩ như thế này, nói như thế kia, đổi thay, quay quắt...với tốc độ cao.

James Joyce đã dùng trò chơi chữ để mô tả bí ẩn tâm hồn con người hiện đại trong Người Dublin với những nhan đề mỗi truyện tưởng chừng như bình thường, nhạt nhẽo, không hề tạo sự hấp dẫn. Chị em gái, Một cuộc chạm trán, Araby, Everline, Sau cuộc đua, Hai chàng ga lăng, Nhà trọ, Đám mây nhỏ, Những bản sao, Đất sét, Một trường hợp đau lòng, Ngày Thường xuân trong phòng hội đồng, Một người mẹ, Ân sủng, Người chết.

Gói trong 15 truyện ngắn ấy là những thông điệp gì? James Joyce muốn nói gì với loài người qua văn bản nghệ thuật Người Dublin?

Bạn phải đọc và tự ngẫm mà thôi! Đọc Người Dublin lần đầu thì thấy chán lắm. Nó chán như chính cuộc sống buồn tẻ, tù túng, không lối thoát, đầy ám ảnh và day dứt ở Dublin vậy. Nó chán như chính bản thân ta có những phút giây phải sống trong tình trạng chán nản, tắc tị vậy, lúc này hay lúc khác trong ngày, trong đêm. Nó chán từ trong ngôn ngữ kể chuyện của Joyce. Chính Joyce đã cố tình gieo những chữ, những từ hiển thị về nỗi chán nản của đời sống thực tại trong tác phẩm, truyền sự buồn chán ấy cho người đọc, để thức tỉnh họ nhìn sâu vào cuộc sống với những bí ẩn tâm hồn.Joyce đã buộc ta phải chịu khó suy nghĩ, tìm ra phút tâm hồn "hiển lộ" hay phần chìm dưới lớp vỏ ngôn ngữ của các nhân vật trong Người Dublin. Bởi vậy người đọc phải đọc đi đọc lại Người Dublin, cốt tìm ý nghĩa sâu xa và vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ mà Joyce đã dày công sáng tạo.

Nhờ kiên nhẫn đọc Joyce, chúng ta đã lờ mờ hiểu "bí ẩn tâm hồn", nó chìm rất sâu. Nó luôn hiển lộ, nhưng lại được che giấu dưới vẻ bề ngoài "lịch sự", những lời hoa hòe hoa sói, những cử chỉ "thanh tao". Nó làm cho những ai ngây thơ hồn nhiên nhẹ dạ tin người, khó phát hiện ra bản chất vô cùng khủng khiếp của nó. Nó dẫn đến cái chết. Nhiều kiểu chết. Chết thân xác. Chết tâm hồn. Chết ngay trong những giây phút ta đang tồn tại. May sao, con người kịp nhận ra chính mình, day dứt và đau đớn. Các nhân vật trong Người Dublin đều day dứt, muốn sống tốt hơn. Hãy yêu thương khi chưa muộn. Hãy sống trong sự tỉnh thức mọi lúc, mọi nơi để bớt bị day dứt và giảm được những kiểu chết.

Truyện ngắn "chị em gái" có gì đâu, ngoài cái tin "Đức cha James Flynn đã mất, thọ sáu mươi lăm tuổi". Đám tang của ông ấy, mấy chị em hàng ngày vẫn chăm sóc cha, trò chuyện với nhau về người quá cố. Sự thật về nhân cách của cha cứ hé lộ dần qua từng lời đối thoại buồn tẻ, không đầu, không cuối của Chị em gái. Người ta nhầm tưởng cha đã sống không đến nỗi tồi trong vai kịch "cha cố" của mình. Người ta bảo cha ra đi thanh thản và cam chịu...Nhưng cậu học trò của cha lại nhìn thấy "khuôn mặt xám vẫn không chịu buông tha tôi. Nó mấp máy, và tôi hoàn toàn nó muốn xưng tội.(..). Nó bắt đầu xưng tội với tôi bằng một giọng thầm thì (...) nó luôn mỉm cười (...) và tôi cảm thấy tôi cũng đang hơi mỉm cười như để tha thứ tội buôn thần bán thánh của nó". Bí ẩn tâm hồn ông cha cố lộ ra qua những câu chữ rất bí ẩn đó. Nó thông báo rằng cuộc đời cha đã sống không phải là tử tế, như người ta tưởng.

Trong Một cuộc chạm trán, Joyce kể cuộc gặp ngẫu nhiên của đám học trò lang thang với người đàn ông trông giống một học giả, nhà giáo dục, nhưng hắn thốt ra những lời dạy đời giả dối, khoe khoang, và bài độc thoại đầy ám ảnh tình dục. Chính hắn đã tự tố cáo bí ẩn tâm hồn bẩn thỉu của mình bằng tiếng nói của hắn. Và James Joyce đã khôn khéo chộp được "Phút giây hiển lộ" sự giả trá, vờ vĩnh ẩn sâu trong tâm hồn hắn để nói với loài người về vấn đề giáo dục, về nhân cách tồi tệ của những kẻ mang danh học thức mà tâm hồn chẳng đẹp đẽ gì, trí tuệ rỗng tuếch, lại chuyên đi dạy người khác, nhất là bọn trẻ, làm cho chính chúng cũng nhận ra bộ mặt giả tạo và co cẳng chạy trốn "bọn hắn" như bị ma đuổi.

Hai chàng ga lăng cũng xuất hiện trong văn cảnh đầy bí ẩn. Bọn hắn la cà trong quán rượu, tán gái trên góc phố bằng tài ngoai giao và hùng biện, vũ khí là một kho truyện cười, thơ nhại, câu đố, những đối thoại láu lỉnh, những độc thoại mua vui, khoác lác, với những cử chỉ ra vẻ cao sang, sành điệu trong quán rượu, bàn ăn...cuối cùng là hành động móc túi bất kỳ ai, kể cả những cô hầu, gái điếm. Bộ mặt thật - "tâm hồn bí ẩn" - của chúng lộ ra bằng tiếng lóng bọn hắn vẫn thường dùng "Có xoay được không?"

Chuyện tình trong "Nhà trọ" giữa chàng khách trọ với con gái bà chủ được Joyce kể bằng giọng điệu nhạt nhẽo, chỉ là phút ham mê xác thịt bản năng, nhưng cách giải quyết lại gây khiếp sợ. Đôi tình nhân bị đưa ra thành món hàng đền bù thiệt hại. Cuộc tranh đấu bản năng diễn ra. Hắn không muốn cưới cô. Đó chỉ là những cơn điên của hắn. Cô sống trong bản năng sợ hãi, khoái lạc, hy vọng và thất vọng...Không tình yêu, không lối thoát.

Truyện ngắn Eveline là những hồi tưởng, độc thoại nội tâm và sự khủng hoảng tuyệt vọng của chính cô trong khoảnh khắc. Evelyne ngồi bên cửa sổ ngắm buổi tối lan dần trên phố. Cô sắp bỏ nhà mình, rời xa Dublin lên tàu ra biển với Frank. Chàng sẽ mang lại cho cô cuộc sống không phải chịu bất hạnh và cả tình yêu nữa. Cô hồi tưởng "Hình ảnh tội nghiệp của cuộc đời mẹ cô phủ màu đen tối như muốn trùm lên chính cuộc đời cô - một cuộc đời chỉ toàn những hy sinh vụn vặt để rồi kết cục là những cơn điên loạn. Cô rùng mình khi lại nghe thấy bên tai giọng mẹ lặp đi lặp lại trong man dại "...Eveline rùng mình chạy trốn! Frank sẽ cứu cô. Nhưng ngay lập tức, từ đáy thẳm tâm hồn, Eveline rơi vào tuyệt vọng "Tất cả đại dương trên thế giới quay cuồng trong cô. Anh đang lôi tuột cô vào chúng. Anh sẽ dìm chết cô. Cô túm chặt lấy hàng rào chắn bằng sắt. (...) Không! không! không! không thể được. (...) Giữa đại dương cô hét lên đau đớn. (...) Anh chạy phía trước hàng rào và kêu to bảo cô chạy theo. (...) CÔ quay khuôn mặt trắng bợt của mình về phía anh, bị động, như một con thú tuyệt vọng. ánh mắt cô nhìn anh không có chút biểu hiện nào, không tình yêu hay lời vĩnh biệt hay nhận ra anh". Thời gian trong truyện bị nén đến cực độ. Tâm hồn bí ẩn bỗng vỡ òa, biến động, quay cuồng, nhảy từ cực này sang cực khác, nhanh như chớp mắt. Ngôn ngữ kể chuyện nổ bùng như những quả bom tấn. Eveline làm cho chúng ta lạnh sống lưng, nhận ra thân phận con người bị dồn vào đường cùng. Không lối thoát. Không tình yêu. Không hy vọng ở bất kỳ ai, bất kỳ nơi nào trên trái đất. Chỉ có sự tuyệt vọng.

Sự tuyệt vọng, cô đơn trong thân phận Ngươi Dublin được James Joyce nhìn ra từ nhiều góc độ, nhiều chiều đen tối, nhiều cảnh ngộ đáng sợ, ở nhiều số phận và hoàn cảnh sống khác nhau, trong những khoảnh khắc thường ngày. Và cách kể chuyện về từng nhân vật trong mỗi truyện của Joyce cũng khác, không lặp lại, sáng tạo đến bất ngờ.

Trong Một trường hợp đau lòng, Joyce dẫn chuyện và kể chuyện tài tình đến mức câu chuyện ăn nhập nhuần nhuyễn với một mẩu tin trên nhật báo. Hình như Joyce đã chép nguyên xi mẩu tin trên báo để cấu trúc thành một truyện ngắn với dụng ý bày ra cả một luận đề về tình yêu, lòng trắc ẩn, sự cô đơn, tuyệt vọng, thế giới tinh thần, sự vô cảm, xã hội đạo đức giả, con người đạo đức giả...Hay Joyce đã bịa ra cái tin ấy để gắn hư cấu nghệ thuật của mình vào đời sống hàng ngày cho nó sinh động? thật khó mà phân giải. Chỉ biết truyện ngắn này có nguồn gốc là một mẩu tin trên báo. Mẩu tin tường thuật về cái chết của một quý bà cố vượt qua đường ray khi tàu chuyển bánh trên sân ga. Thực chất là bà tự tử. Nhưng cái xã hội Dublin giả dối, gia đình giả dối không thích nói đến chuyện ai đó tự tử, nên mẩu tin kể lể vòng vo tam quốc, chia buồn nhì nhằng để che đậy hai từ "tự tử". Quan trọng hơn mẩu tin nhằm mục đích khẳng định "Không ai bị truy cứu trách nhiệm". Những ngôn từ báo chí ấy được che chắn gian ngoan, lộn lèo, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra sự giả trá từ mớ ngôn ngữ đó "Những lời lẽ sáo mòn, những câu chữ tỏ ra chia sẻ được viết một cách ngu ngốc, những từ ngữ thận trọng của một ký giả bị thuyết phục phải che đi những chi tiết của một cái chết tầm thường đáng kinh tởm, tất cả co thắt bụng ông đến buồn".

Ẩn ý câu chuyện không dừng lại ở đó. Sâu sắc hơn, nhân bản hơn, James Joyce đã đi tìm nguyên nhân dẫn đến hành động tự tử của Mrs Emily Sinico. Thủ phạm là ai? Ai đã đẩy bà đến cái chết chán ghét, ghê tởm ấy?

Phạm nhân hiện dần sau những độc thoại nội tâm của Mr James Duffy, nhân viên một nhà băng tư "không sống chung với ai, mà cũng không có bạn bè, không đi lễ mà cũng không có đức tin". Rồi ông gặp quý bà đang sống trong nỗi cô đơn, dù bà ở cùng chồng và con gái. Họ bỏ quên bà. Ông và bà bỗng hòa nhập và chia sẻ, chuyện trò. Tâm hồn ông thăng hoa. Nhưng ông đã dập tắt ngay mối tâm giao đó chỉ vì "giữ sự đừng đắn chính trực của cuộc đời ông". Vì hai quyển sách của triết gia Nietzsche. Vì những câu đại loại như "Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà là không thể vì không thể có quan hệ tình dục, và tình bạn giữa đàn ông và đàn bà là không thể vì bắt buộc phải có quan hệ tình dục". Sau cái chết của bà "ông mới hiểu cuộc đời bà chắc hẳn đã cô đơn đến thế nào, ngồi đêm này qua đêm khác một mình trong căn phòng đó. Cuộc đời của ông cũng sẽ cô đơn cho đến khi, chính ông, cũng, chết (...) màn đêm im lặng tuyệt đối. Ông lắng nghe lần nữa: im lặng tuyệt đối. Ông cảm thấy ông chỉ còn lại một mình". Ông biết, nếu ông không vô cảm, nếu biết yêu thương, ông sẽ cứu được bà khỏi cái chết chán nản đó. Ông không vô can. Và còn hai thủ phạm nữa là chồng và cô con gái yêu quý của bà. Chính họ đã đẩy bà đến cái chết mà họ vẫn dửng dưng.

Cái chết vì cô đơn, vụ tự tử như Mrs Emily Sinico thật đáng sợ, nhưng James Joyces còn nhìn thấy Người chết từ những hình bóng đang tồn tại, đang đi lại, nói cười, ăn uống, tiệc tùng, dạ hội, chiêu đãi và ngay cả phút ái ân...Người chết (được dựng thành phim năm 1987) là truyện dài nhất trong tập Người Dublin.

Người chết kể về một đêm dạ hội trọng đại hàng năm của nhà Morkan. Người đến dự rất đông, họ hàng, người thân, bạn cũ, thành viên đoàn Thánh ca, học trò...đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi ngành nghề. Đêm tối. Tuyết rơi. Trong phòng, mọi người đón tiếp nhau, trò chuyện, nói cười, dạo đàn piano, khiêu vũ, ca hát, đọc thơ, đọc diễn văn...Trên bàn tiệc vô vàn thức ăn ngon, trang trí đẹp, họ xẻ bánh, rót rượu, cắt thịt ngỗng mời nhau, ca tụng nhau, nịnh nọt, khen nhau hết lời. Tiếng nói cười, tiếng thầm thì, tiếng rầm rì, tiếng nhạc, tiếng hát, lời ca, tiếng cốc đĩa, thìa dĩa chạm vào nhau, tiếng diễn thuyết ra vẻ hào hứng, tiếng hoan hỗ, vỗ tay...vang lên không ngớt. Vậy mà chẳng có gì ăn nhập vào nhau. Không khí rời rạc. Đơn điệu. Giả dối. Gượng ép. Vờ vịt. Người này nói với người kia, nhưng chẳng ai chú ý vào câu chuyện. Mỗi người đều bận mải với những suy nghĩ của riêng mình, một ký ức chợt đến, một nỗi buồn lo ẩn hiện, một mơ tưởng hão huyền...Thức ăn ngon mà chẳng ai cảm thấy ngon miệng. Đầu họ mải nghĩ những chuyện đâu đâu, đôi khi họ mang cả chuyện chính trị, văn chương, dòng tu, tôn giáo, giáo hoàng, thời cuộc để khoe kiến thức, cãi vã, ba hoa, khích bác, châm chọc, giễu cợt nhau. Nỗi bực bội của kẻ này dồn vào điệu nhảy với người kia. Dì Julia cất giọng già nua hát bài Điểm trang vì cô dâu dù đời dì đã không bao giờ được làm cô dâu. Mọi người ồ lên, thi nhau khen ngợi giọng ca vàng thánh thót của dì, nghe mới giả dối làm sao! Mỉa mai thay, họ đồng ca những lời sáo rỗng, cốt để che đậy khoảng tối trong lòng mình:

Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng

Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng

James Joyce đã chụp ảnh, quay phim, ghi âm được chính xác cái không khí dạ hội hỗn độn ấy, và dùng chính những câu đối thoại, những lời thăm hỏi hời hợt, những tiếng thì thầmnhát gừng, những câu xã giao mách qué, những lời ca, những cử chỉ, những lời nịnh khen, dáng điệu giả vờ, gượng ép, hành động miễn cưỡng, cả những độc thoại nội tâm...để phơi bày trên trang giấy "bí ẩn tâm hồn". Khi bí ẩn tâm hồn của ai đó hiện ra thì toàn bộ thân phận của họ, cuộc sống tù túng ngột ngạt, giả dối, khổ đau của họ, sự tốt xấu của họ cũng hiện ra, muôn màu sắc. Không ai giống ai. Người Dublin là thế. Họ đang tồn tại mà như đã chết. Cái chết của họ hiện ra trong chính những từ ngữ tẻ ngắt và lạnh lẽo của chính họ, mà James Joyces đã chép lên trang giấy.

Người chết trong lúc thân xác đang tồn tại được Joyce khắc họa đậm nét với cảnh tan dạ hôi, vợ chồng Gabriel ở trong căn phòng của họ tại khách sạn. Giây phút cô đang cởi mũ áo. Giây phút tưởng như anh và cô đang vùng thoát khỏi cuộc sống, trở về cùng trái tim bùng cháy hoang dại ái ân..Giây phút Gabriel run lên vì nụ hôn bất ngờ của cô.Bỗng cô òa khóc. Cô nhớ đến bài hát Cô gái làng Aughrim. Nó làm cô nhớ đến anh chàng người yêu đã chết rất lâu rồi. Cô vùng khỏi vòng tay ân ái của chồng, thản nhiên kể với anh về mối tình mong manh xa vời ấy. Và cô ngủ thiếp đi...Gabriel như bị một cú đấm mạnh, bừng tỉnh nhận ra mình "như một gã lố bịch, đóng vai một thẳng hầu sai vặt cho các dì mình, một người đa cảm đầy thiện ý, đầy lo lắng, diễn thuyết cho những kẻ trưởng giả thô lậu và lý tưởng hóa những ham muốn nực cười của chính mình, một gã đần độn đáng thương". Anh nhìn thấy "tuyết đang rơi nhiều trên khắp Ireland (...) Hồn anh lắng dần khi anh lắng nghe tuyết rơi dịu nhẹ trên toàn vũ trụ, rơi dịu nhẹ, như sự rơi xuống của kết thúc cuối cùng của họ, lên tất cả những người sống và người chết". Gabriel cay đắng nhận ra rằng người duy nhất có trái tim nồng nhiệt như anh, người thật sự sống, lại chính là người đã chết.

James Joyce đã viết những dòng chữ trên vào những năm Đại chiến thứ nhất và dự báo đại chiến thứ hai bùng nổ. Không phải ông chỉ viết về Người Dublin mà ông đã viết về cả loài người và vũ trụ đang sống dở chết dở, sống cùng cái chết, sống mà như chết...thông qua Người Dublin. Bởi thế, Người Dublin cùng với Ulysses của James Joyce được xếp vào danh sách 20 cuốn tiểu thuyết được yêu thích nhất mọi thời đại.

James Joyce muốn con người nhìn thấu chính mình. Loài người tự ảo tưởng về mình, không nhận ra mình là loài sinh vật không bình thường, xuất hiện trên hành tinh này cùng vô vàn những loài sinh vật khác. Phải giải phẫu tâm hồn sâu kín, tinh vi của nó. Phải nhìn nó, soi xét nó từ rất nhiều góc độ, nhiêu chiều kích thời gian, không gian và mô tả nó bằng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật. Bởi thế, các bác sĩ thần kinh cũng tìm đọc James Joyce. Bởi vậy, nhân loại gọi James Joyce là Freud, hay Picasso. Họ nói văn chương của James Joyce là một phát minh khoa học trong thế kỷ XX. James Joyce đã dũng cảm, đã trung thực và thẳng thắn. James Joyce là anh hùng Ulysses của thế kỷ 20 trong cuộc hành trình của con người đi tìm chính mình.

James Joyce yêu loài người, yêu quê hương Dublin máu thịt của ông. Ông viết "Tổ tiên tôi vứt bỏ tiếng nói của mình vì một thứ tiếng khác. Họ để cho một nhúm mấy kẻ ngoại bang đô hộ. Có thể tưởng tượng ra nổi chính cuộc đời tôi đây sắp phải trả những món nợ họ gây ra? Từ thời Tome đến thời Parnell có người đàn ông đáng kính và trung thực nào dù từ bỏ cả cuộc đời, tuổi trẻ và tấm lòng của anh ta cho Ireland mà không bị Ireland bán đứng, lợi dụng, chửi rủa, bội bạc, Ireland là con lợn nái già ăn thịt cả con mình".

Cả cuộc đời, James Joyce đã phải sống lưu vong trong khổ ải, lầm than, đói khát để sống sót trong nhiều hoàn cảnh xã hội khốc liệt, trong hai cuộc Đạichiến khủng khiếp của thế kỷ 20, chống đỡ với bệnh tật, phẫu thuật mắt hơn 25 lần, có khi không nhìn thấy phải nhờ bạn chép...để viết bốn tác phẩm bất hủ hiến dâng cho loài người, như một sự trả giá cho tình yêu ấy. James Joyce anh hùng, vĩ đại, tài năng từ trong cuộc đời đến hành trình sáng tạo. Ông đã can đảm soi xét, tìm ra những "bí ẩn tâm hồn" nhân loại. Đọc Người Dublin, chúng ta thật sự cảm thấy đời sống thường ngày của loài người thật đáng chán. Ta tuyệt vọng và muốn vượt lên, thoát khỏi tình trạng đáng chán ấy. Ai vượt qua, người đó sẽ là anh hùng như Ulysses. Anh hùng trong đời sống hàng ngày, trong từng thời khắc sống. Hình như James Joyce đang từ nơi xa lắm vẫy gọi ta "Bạn ơi! Can đảm lên mà sống. Hãy là Ulysses".

Hà Nội, tháng 1 năm 2009

Nhà văn Mai Thục

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Dublin PDF của tác giả James Joyce nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đôi Bạn Chân Tình (Hermann Hesse)
Đôi bạn chân tình (nguyên tác Narcissus and Goldmund) là một câu chuyện kể về một thanh niên tên là Goldmund. Anh đã từng theo học trong trường học của tu viện dòng Thiên Chúa giáo để tìm hiểu và nghiên cứu xem cái gì được diễn tả như là “ý nghĩa của cuộc sống”, hay cụ thể hơn, là tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của chính bản thân anh. Nhưng rồi, anh đã rời bỏ trường và đi lang thang khắp miền trung nước Đức mà không có mục đích gì cụ thể. Narcissus, một thầy giáo trẻ có năng khiếu trong trường học của tu viện đã nhanh chóng kết bạn với Goldmund, vì hai người chỉ chênh nhau có vài tuổi và Goldmund vốn là sáng dạ. Goldmund kính trọng Narcissus, còn Narcissus thì lại rất yêu mến Goldmund. Một hôm, với ý định hái lượm thảo mộc, Goldmund đã thơ thẩn trên cánh đồng quá xa và anh tình cờ gặp một phụ nữ xinh đẹp. Cô hôn anh và đề nghị anh chung giường với mình. Cuộc gặp mặt này trở thành sự kiện Chúa hiển linh đối với Goldmund, và rồi anh nhận biết được rằng anh không thể nào đi tu được. Goldmund ôm trong mình khát vọng trải nghiệm mọi thứ, học hiểu về cuộc sống, về thiên nhiên theo lối thực hành của chính anh. Với sự ủng hộ của Narcissus, anh rời tu viện và lang thang khắp các miền quê, vẽ nên một câu chuyện về sự tương phản giữa nghệ sĩ và nhà tư tưởng. Câu chuyện kéo dài nhiều năm, mô tả chi tiết những sự việc cụ thể có liên quan đến những địa điểm mà ở đó Goldmund đã học được những điều hết sức có ý nghĩa, và anh thường xuyên trầm ngâm suy tưởng đến những trải nghiệm cũng như những lối sống này. Đôi bạn chân tình của Hermann Hesse xoay quanh những cuộc đối thoại giữa Narcissus (Tri giác) và Goldmund (Trực giác): Con đường tiếp cận chân lý của tôi và anh có thể hòa hợp không? và Chúng ta bổ sung cho nhau những gì? Cuộc hành trình đi tìm bản ngã của Goldmund bắt đầu từ những lời khai minh của Narcissus. Điều này ngụ ý rằng Trực giác luôn cần sự hướng dẫn của Tri giác, đó cũng là khác biệt quyết định giữa Trực giác và Bản năng. Khi cái chết và những trải nghiệm đã bóc tách những lớp vỏ phù phiếm, họ đã gặp nhau ở cuối con đường và cùng bắt đầu một hành trình mới. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Tìm mua: Đôi Bạn Chân Tình TiKi Lazada Shopee Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết: "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ đã qua, hoa ruối hoa bìm đã tàn lụi, ao chuôm nín tiếng ếch kêu, hạc tung cánh bay đi. Goldmund trở về! Y trở về vào một buổi quá trưa âm u mưa bụi, y không vào tu viện mà đến ngay xưởng họa. Y đi chân, không có ngựa. Erich trông thấy y vào thì lo sợ. Thoáng nhìn nó biết ngay và chạy vội ra đón, nhưng hình như nó gặp một người khác: một Goldmund giả, già đi đến vài năm, mặt bơ phờ, ủ rũ, đầy cát bụi, nét mặt nhăn nhúm như người đau đớn bệnh nặng; tuy nhiên y không tỏ vẻ đau đớn mà mỉm miệng cười, một cái cười quen thuộc, bình tĩnh và nhẫn nại, Hai chân kéo lê một cách nhọc nhằn, người ra bộ mệt mỏi thiểu não. Chàng Goldmund đã biến ra người lạ ấy nhìn cậu thợ bạn với cặp mắt kỳ dị. Y trở về một cách kín đáo, làm như ở phòng bên cạnh bước sang, làm như mới hồi nãy vẫn ở đấy. Y giơ tay bắt tay Erỉch, không nói gì cả, không chào hỏi, không chuyện trò. “Tôi phải ngủ một giấc,” y chỉ nói vậy, ra bộ mỏi mệt vô cùng. Y bảo Erich đi chỗ khác và bước vào phòng mình ngay cạnh xưởng. Vào đến nơi y bỏ mũ ra quăng xuống đất, tháo giầy và lại gần giường. Phía trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm màn, y tỏ vẻ thân mật nhưng không vén màn lên chào. Trái lại, y bước tới gần cửa sổ, trông thấy Erich sốt ruột đứng đợi ở ngoài, y nói lớn: “Erich, chú đừng nói cho ai biết tôi về nhé. Tôi mệt lắm. Để đến mai hãy hay.” Rồi y để nguyên quần áo mà đi nằm. Nằm một lúc lâu không ngủ được, y trở dậy lê bước nặng nề đến cái gương soi treo tường, nhìn vào thấy một chàng Goldmund nữa nhìn lại; một khuôn mặt quen thuộc nhưng đã thành ra người lạ, hình như không có mặt đối với mình, không có liên lạc gì với mình. Người ấy chỉ làm y nghĩ đến một người mà y biết: nhang nhác thầy Niklaus, nhang nhác nhà quý tộc ngày xưa đã tặng y một bộ quần áo cậu ấm, nhang nhác Thánh Jacques ở nhà thờ, một ông thánh râu ria, đội mũ hành hương, nom già nua lụ khụ, nhưng có vẻ vui vẻ nhân từ. Y nhận kỹ khuôn mặt trong gương như để biết rõ người lạ mặt. Khi đã nhận ra, y vội tỏ dấu thân mật: phải rồi, chính là mình, khuôn mặt đúng là những nét y tưởng tượng ra là nét mặt mình. Đó là một ông già mệt mỏi, đờ đẫn, mới đi xa về, một nhân vật để chọc cười, chẳng đáng đếm xỉa đến; nhưng ông ta chẳng có gì giận y, y còn khoái ông ta là đằng khác, y khám phá ra ông ta có cái gì mà chàng Goldmund xinh trai ngày xưa không có: ông già mỏi mệt và xuống dốc này có vẻ bằng lòng, đúng hơn, vẻ trai lỳ, trơ trơ. Y khẽ mỉm cười, ông già cũng mỉm cười đáp lễ. Chà! Y đi xa về đã dẫn về nhà một người như thế đó! Sau chuyến đi này y trở về, mỏi mệt và lụn bại như vậy đó! Không những y mất cả ngựa, tay nải lẫn tiền nong, y còn mất nhiều cái khác: tuổi trẻ, sức khoẻ, lòng tự tin, cặp má hồng hào, cặp mắt sáng nảy lửa. Tuy nhiên y cũng thích chí: ông già lẩm cẩm và hết gân này lại hợp sở thích của y hơn chàng Goldmund thuở trước. Ông ta có tuổi, yếu đuối và héo hon thật, nhưng chất phác hơn, an phận hơn, người ta dễ thỏa thuận với ông. Y cười, hạ một mi mắt nhăn nheo xuống, rồi vào gường ngủ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hermann Hesse":Câu Chuyện Dòng SôngẢo HóaĐâu Mái Nhà XưaĐôi Bạn Chân TìnhMối Tình Của Chàng Nhạc SĩNarcisse Và GoldmundNhà Khổ Hạnh Và Gã Lang ThangTuổi Trẻ Băn KhoănĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đôi Bạn Chân Tình PDF của tác giả Hermann Hesse nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đợi Anh Ở Toronto (Nguyễn Thu Hoài)
Đợi anh ở Toronto của nữ tác giả Nguyễn Thu Hoài được coi là "Bản tình ca mùa đông Canada" trong lòng đọc giả yêu văn chương, là một câu chuyện đẹp từ đầu đến cuối với màu tuyết trắng, nỗi buồn, niềm vui đều nhịp nhàng, hợp lý. Nguyễn Thu Hoài thuộc thế hệ 7X cuối cùng với những biến động lớn về cả nội tâm lẫn ngoại cảnh. Với ước vọng được kể chuyện, Đợi anh ở Toronto là câu chuyện đầu tiên được kể một cách say mê, hồ hởi lạ kì. Là cựu học sinh chuyên Văn PTTH chuyên Hà Nội- Amsterdam và là một thạc sĩ kinh tế nhưng cô luôn tin rằng: chỉ những chuyện dễ dàng mới có thể giải quyết bằng tiền, chuyện tình cảm mới thật là khó khăn. Là người Hà Nội, hiện đang định cư tại Toronto, cô yêu Hà Nội bằng cả trái tim nhưng Toronto là nơi cô dành cho những cảm xúc lãng mạn nhất cuộc đời mình. Vào những đông lạnh giá, tuyết trắng phủ ngập đường, trên một đất nước xa lạ. Cô - một cô gái Việt Nam nhỏ bé, gặp anh. Anh - lãnh đạm, rắn rỏi và rất thu hút. Ở bên anh, cô như lao đầu vào một trò chơi: những khi tưởng anh thích mình anh lại hờ hững, tưởng anh theo đuổi anh lại lặn mất tăm, tưởng anh tỏ tình anh lại muốn làm bạn. Cuối cùng, khi đã trong vòng tay vững chãi của anh, lại một lần nữa vụt mất anh. Tìm mua: Đợi Anh Ở Toronto TiKi Lazada Shopee “- Vi, tôi rất cần em... - Anh bỏ lửng câu nói, ngừng lại lấy hơi, giọng khàn đi vì xúc động. Trái tim Vi run rẩy, hồi hộp. Cô hoảng hốt nhận thấy mình đang nín thở. Lẽ nào, đây chính là điều anh muốn nói với cô? - … rất cần… một người bạn như em… - Anh kết thúc câu nói của mình bằng một tiếng ho khẽ. Vi thấy hẫng một cái, hệt như cảm giác khi máy bay đang sắp sửa hạ cánh. Có điều, đối với cô đây không phải là một cuộc hạ cánh an toàn. Lòng tự trọng của cô có lẽ đã bị tổn thương đôi chút. Cô thấy tim mình nhói đau, ước gì cô có thể tan biến khỏi nơi này như một làn khói.” Nhiều người ví “Đợi anh ở Toronto” như một bản nhạc - một bản tình ca. Câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính Vi và Nguyên là một bản nhạc nhiều tiết tấu. Có khúc bối rối, gấp gáp theo tâm trạng của Vi lần đầu biết đến tình yêu; có khúc nhẹ nhàng, vui vẻ khi họ yêu nhau; có khúc trầm lặng như nỗi đau đớn khi tình yêu đi xa. Khúc nào “Đợi anh ở Toronto”cũng đẹp, cũng lãng mạn. Thế nên, có hàng vạn chuyện tình trên thế gian này, nhưng chuyện tình ở Toronto vẫn có thể khiến người đọc say mê dõi theo và hòa chung cảm xúc yêu đương với nhân vật. ***Văn phòng ở downtown(1) Toronto của tập đoàn kiểm toán NKT chiếm trọn toàn bộ một tòa nhà hai mươi sáu tầng bề thế trên đường Front Street. Được làm việc ở đây là ước mơ mà Vi ấp ủ suốt bao nhiêu năm qua. Ước mơ ấy của cô cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực. Vi vẫn còn cảm thấy lâng lâng như đang trong mơ. Cô không thể ngờ rằng, điểm dừng chân của cô trong cuộc hành trình tìm kiếm việc làm lại chính là ở đây, trong tập đoàn kiểm toán đa quốc gia rất nổi tiếng này… Đến bây giờ Vi mới thực sự cảm thấy quyết định chuyển sang học ngành kế toán của cô là một quyết định sáng suốt, vì đó là ngành dễ tìm việc nhất ở đất nước này so với các chuyên ngành kinh tế khác như tài chính hay marketing mà trước đây cô đã định theo học. Vi ngước nhìn một lần nữa biểu tượng của công ty với ba chữ NKT màu trắng giản dị, trước khi bước xuống đường, hòa vào dòng người đang tấp nập trên hè phố trong giờ tan tầm. Cô vừa nhận được quyết định tuyển dụng của công ty, trước hết với vị trí summer student(2). Đây hoàn toàn là một khởi đầu đầy hứa hẹn, bởi nếu quá trình làm việc được đánh giá tốt, cô sẽ có nhiều cơ hội có được một công việc toàn thời gian ổn định. Cô sẽ chính thức bắt đầu làm việc ở đây trong tháng năm này. Chỉ mới một tháng trước đây thôi, Vi vẫn còn mờ mịt về tương lai của mình. Hơn ai hết, cô nhất định phải tìm được một công việc để có thể tồn tại ở đây sau khi tốt nghiệp. Đó chính là yếu tố quyết định đến tương lai của cô và của cả gia đình cô nữa. Chính vì thế, hàng tháng trời nay Vi đã âm thầm chuẩn bị hồ sơ, học hỏi kinh nghiệm trả lời phỏng vấn, tích cực tham gia các công tác ngoại khóa, các buổi hội thảo… để có thể sẵn sàng cho cuộc chạy đua tìm kiếm việc làm. Cô đã cày nát các website về việc làm. Nhưng thật không may cho cô, thời điểm nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng. Các công ty liên tục cắt giảm người. Hiếm hoi lắm mới có một vài vị trí mà cô nghĩ là phù hợp với chuyên ngành học của mình thì lại đòi hỏi các ứng viên phải có kinh nghiệm. Trong hoàn cảnh ấy, sinh viên mới và sắp ra trường kiếm được việc làm hẳn đã là một kỳ tích, huống hồ cô lại là một du học sinh từ nơi khác đến, ngôn ngữ, văn hóa, mối quan hệ… đều hạn chế và không phải là thế mạnh. Cô chỉ có thể trông chờ duy nhất vào điểm số, khả năng làm việc và sự may mắn mà thôi. Giữa lúc Vi gần như mất hết hy vọng nhận được hồi đáp tích cực cho các hồ sơ mà cô đã gửi đi, thì một cơ hội bỗng mở ra cho cô. Hôm đó, khóa của cô nhận được thông báo: tập đoàn NKT sẽ có một buổi career boot camp(3) ở trường cô nhằm giới thiệu về tập đoàn và tìm kiếm những ứng viên xuất sắc cho các vị trí summer student làm việc ở Toronto. Vi không thể để lỡ một cơ hội hiếm hoi như thế. Cả đêm hôm trước cô đã ngồi rà soát lại toàn bộ hồ sơ, kiểm tra chi tiết từng thông tin, từng từ, từng chữ trong đơn xin việc, để đảm bảo bộ hồ sơ của cô được chuẩn bị một cách hoàn hảo nhất. Sáng hôm boot camp, Vi đến thật sớm để kiếm chỗ ngồi ngay hàng đầu tiên, gần với các diễn giả. Hôm nay, sau phần giới thiệu về tập đoàn, còn có hai nhân viên của NKT đến chia sẻ với các bạn sinh viên những kinh nghiệm cá nhân của họ trong quá trình được tuyển dụng và làm việc ở NKT. Vi phát hiện ra một trong hai nhân viên đang thuyết trình là người Việt, hay ít nhất cũng là người gốc Việt, căn cứ vào bảng tên đang cài trên ngực áo của người đó. Cô quyết định sẽ thử một nước cờ táo bạo. Số cô đúng là có quý nhân phù trợ. Vi nhanh chóng tiếp cận được chàng kiểm toán viên đó trong giờ nghỉ giải lao. Chọn đúng lúc đám sinh viên bắt đầu tản ra, và Nam (tên của chàng kiểm toán viên) đang ngồi một mình trước đống giấy tờ, chăm chú nhìn vào màn hình máy tính xách tay, Vi bèn tiến lại gần, cất lời chào bằng tiếng Việt: - Xin lỗi, em có thể hỏi anh một chút được không ạ?Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đợi Anh Ở Toronto PDF của tác giả Nguyễn Thu Hoài nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đói (Knut Hamsun)
Harald Hjärne, Chủ tịch Uỷ ban Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển Căn cứ vào các qui chế của Quĩ Nobel, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã trao giải Nobel văn chương năm 1920 cho nhà tiểu thuyết người Na Uy - Knut Hamsun, với tác phẩm Nhựa của đất (1917) (Markens grøde). Sẽ là thừa nếu đưa ra một tuờng trình chi tiết về quyển sách mà chỉ trong một thời gian ngắn đã được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi, cả bằng nguyên tác và bản dịch. Qua sự độc đáo về cốt truyện và phong cách, cuốn tiểu thuyết đã dấy nên sự quan tâm vô cùng sống động ở nhiều nước và được tiếp nhận nồng nhiệt bởi nhiều tầng lớp độc giả khác nhau. Mới đây, một nhà điểm sách hàng đầu và bảo thủ người Anh đã viết rằng quyển sách này chỉ mới xuất hiện ở Anh năm nay nhưng đã được dư luận ngợi khen là một kiệt tác. Lí do của thành công không thể phủ nhận này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của giới phê bình văn học trong một thời gian dài, nhưng ngay từ bây giờ, với những ấn tượng đầu tiên, thiết tuởng cần chỉ ra những lí do ấy, ít nhất là những nét chính. Bất chấp những ý kiến hiện nay về thời đại chúng ta, những ai cho rằng trong văn học, cái cao hơn tất cả là sự tái hiện trung thành hiện thực thì sẽ thấy trong Nhựa của đất, sự tái hiện một cuộc sống là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của bất cứ xã hội nào nơi con người sinh sống và tạo dựng. Những miêu tả này không bị bóp méo bởi bất cứ hoài niệm nào về một quá khứ văn minh lâu dài. Hiệu quả tức thì ở chỗ khơi lên cuộc đấu tranh gay gắt ngay từ đầu giữa con người tích cực (dĩ nhiên trong những điều kiện bên ngoài khác nhau) bền bỉ chống lại một thiên nhiên bất phục và khắc nghiệt. Khó lòng hình dung sự đối lập nào choáng ngợp hơn giữa cuốn sách này với những tác phẩm thường được gọi là "cổ điển". Tuy nhiên, ta vẫn có thể gọi tác phẩm này một cách chính tắc là cổ điển, nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, nếu ta dùng tính ngữ này thể hiện một điều gì đó khác hơn và nhiều hơn một lời ngợi khen mơ hồ. Cái cổ điển, trong nền văn hóa mà chúng ta thừa kế từ xa xưa, chỉ phần nào là cái hoàn thiện buộc ta bắt chước, còn phần nhiều là những gì có ý nghĩa, được rút ra trực tiếp từ đời sống và tái hiện dưới dạng một giá trị bền vững với cả các thời đại sau. Theo ý niệm này, những gì không có ý nghĩa, những gì tự chúng không quan trọng, chỉ có thể xem như cùng một loại với những gì được chính thức coi là tạm bợ hay khiếm khuyết. Nhưng ngoài ra, bất cứ điều gì quí giá trong cuộc sống con người, dù có vẻ bình thường, đều có thể xếp vào cùng một phạm trù với cái khác thường và cái sáng láng, với một ý nghĩa và dạng thức giá trị tương đương, chừng nào nó được hiển bày lần đầu tiên trong ánh sáng đích thực của nó. Với ý nghĩa này, không hề nói quá nếu cho rằng trong Nhựa của đất, Hamsun đã mang đến cho thời đại chúng ta cái cổ điển có thể so với cái đẹp nhất mà chúng ta từng có. Trong khía cạnh này, cái cổ xưa không có đặc quyền bất khả xâm phạm đối với các thế hệ sau, vì cuộc sống luôn luôn mới và phong phú vô tận, và có thể được tái hiện dưới những hình thức mới bởi những thiên tài mới. Tìm mua: Đói TiKi Lazada Shopee Tác phẩm của Hamsun là một bản hùng ca về lao động, trong đó tác giả nói về lao động bằng những áng thơ hoành tráng. Đây không phải là chuyện phân công lao động vốn chia rẽ những con người mà là chuyện lao động cần cù, tập trung, thứ lao động mà trong hình thức thuần khiết nhất của mình tạo nên toàn bộ con người, xoa dịu và mang lại gần nhau những tâm hồn chia cách, bảo vệ và gia tăng thành quả của mình trong một quá trình đều đặn và liên tục. Sức lao động của người tiên phong và người nông dân đầu tiên, với tất cả những khó khăn, dưới ngòi bút của nhà thơ, mang tính cách một cuộc đấu tranh anh hùng không hề thua kém chút nào so với cái vĩ đại của sự hi sinh lẫm liệt cho tổ quốc và chiến hữu. Cũng như nhà thơ nông dân Hesiod miêu tả lao động trên đồng ruộng, Hamsun đặt lên hàng đầu trong tác phẩm người lao động lí tưởng, người hiến trọn cuộc đời và sức lực mình cho việc vỡ đất và vượt qua những trở ngại mà con người và thiên nhiên dựng lên để chống lại anh. Nếu Hamsun đã vứt bỏ sau lưng mọi hoài niệm nặng nề về văn minh, thì tác phẩm của ông cống hiến một cách hiểu chính xác về nền văn hóa mới mà kỉ nguyên chúng ta đang chờ đợi sẽ nảy sinh từ tiến trình lao động chân tay như một sự tiếp nối nền văn minh cổ xưa. Hamsun không đưa ra cái gọi là "loại hình nhân vật" trên sân khấu của ông. Các nhân vật nam và nữ của ông đều sống động, ngay cả trong những tình huống khiêm nhường nhất. Vài người trong số họ, những người tốt nhất, có những mục tiêu và tư tưởng mà chúng ta không thể hình dung, ví dụ nổi bật là nhân vật chính, người nông dân trầm lặng và lao động không mệt mỏi. Những người khác thì buông xuôi phó mặc, bất an và thậm chí hoang mang bởi những khát vọng ích kỉ và ý nghĩ xuẩn ngốc. Tất cả họ đều mang dấu ấn của dòng máu Na Uy, tất cả đều bị nhào nặn bởi những "quả của đất". Một trong những đặc tính của các ngôn ngữ cùng gia đình Scandinavie chúng ta, đó là cùng một từ biểu thị những sắc thái ý nghĩa rất khác nhau thông qua những hình ảnh mà chúng gợi nên. Khi người Thụy Điển chúng ta nói "quả của đất", ta nghĩ ngay đến một thứ gì đó màu mỡ, dồi dào, ngon lành, nhất là ở một vùng nông nghiệp nào đó đã được canh tác lâu đời. Tư duy trong tác phẩm của Hamsun không đi theo chiều hướng này. "Đất" ở đây là một vùng đất hoang sơ hung hiểm, gồ ghề sỏi đá. Trái quả của nó không tự rơi xuống như là lộc của trời, trái quả của nó là tất cả những gì có thể nảy mầm và lớn lên trên một mảnh đất khô cằn, dù tốt hay dở, đẹp hay xấu, giữa con người hay động vật cũng như trong rừng hay trên đồng ruộng. Đây là những loại quả mà tác phẩm của Hamsun mang lại cho mùa gặt của chúng ta. Tuy nhiên, người Thuỵ Điển chúng ta, hay ít nhất là nhiều người Thuỵ Điển, không cảm thấy xa lạ về những phong tục, tập quán được miêu tả ở đây. Ta phát hiện nơi đây, bầu không khí miền Bắc với một phần hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, với nhiều điểm tương đồng hai phía biên giới (giữa Na Uy và Thuỵ Điển, ND). Hơn nữa, Hamsun cũng miêu tả những người Thụy Điển bị lôi cuốn đến vùng đất mới khai phá và hầu hết bọn họ, không nghi ngờ gì nữa, đều bị hấp dẫn bởi ảo ảnh về thành công kinh tế, bởi những thành phố dọc theo bờ biển Na Uy xuất hiện nơi chân trời như cám dỗ về cuộc sống trần thế huy hoàng, nó quyến rũ những trái tim dễ xiêu lòng muốn thoát khỏi cảnh lao động nặng nhọc của vùng đất này. Những tái hiện tâm lí đó, cũng như nhiều tái hiện khác, đầy tính người, hoàn toàn không làm giảm mà càng củng cố thêm ấn tuợng nhờ nội dung mang tính cổ điển của câu chuyện. Chúng xua đi nỗi sợ có thể nảy sinh trong ta khi nhìn thấy ánh sáng chân lí với cái giá phải trả là sự thật. Chúng đảm bảo tính chân thực trong từng chi tiết, của hình ảnh và nhân vật. Tính toàn nhân loại của chúng không bỏ sót một ai. Bằng chứng là tác phẩm đã được đón nhận bởi những người có tính cách, ngôn ngữ và phong tục khác nhau. Hơn nữa, bằng nụ cười hài hước nhẹ nhàng khi tái hiện những sự việc đau buồn nhất, tác giả chứng tỏ lòng cảm thông đối với số phận con người và bản tính con người. Nhưng trong câu chuyện, ông không bao giờ xa rời sự trong sáng nghệ thuật toàn bích nhất. Phong cách của ông loại bỏ mọi trang trí màu mè, chỉ tập trung vào tính chân thực và sự rõ ràng, và người đọc có thể phát hiện trong đó, dưới một hình thức độc đáo và mạnh mẽ, tất cả sự phong phú về sắc thái trong ngôn ngữ mẹ đẻ của nhà văn. Thưa Ngài Knut Hamsun! Khi đương đầu với thời tiết khắc nghiệt cũng như nỗi mệt mỏi sau chuyến đi dài - mà trong thời gian này lại càng thêm bội phần cực nhọc - để đến nhận giải thuởng trao tặng cho Ngài, Ngài đã mang lại niềm vui lớn cho Viện Hàn lâm Thuỵ Điển, niềm vui nhất định sẽ được chia sẻ bởi tất cả mọi người có mặt trong buổi lễ trọng đại này. Thay mặt Viện Hàn lâm, trong khoảng thời gian ngắn ngủi cho phép, tôi đã cố gắng trình bày ít nhất những lí do chính tại sao chúng tôi đánh giá cao tác phẩm vừa được đăng quang của Ngài như vậy. Vì vậy, giờ đây, với tư cách cá nhân, tôi không muốn nhắc lại với Ngài những gì tôi đã nói. Tôi chỉ còn mỗi việc thay mặt Viện Hàn lâm chúc mừng Ngài và hi vọng Ngài sẽ giữ mãi những kỉ niệm về cuộc gặp gỡ của chúng ta, và đó sẽ là mối dây thắt chặt mối quan hệ giữa Ngài với chúng tôi trong tương lai. Trần Tiễn Cao Đăng và Tân Đôn dịch (Theo VietNamNet)Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Knut Hamsun":ĐóiDưới Ánh Sao ThuPhúc Lành Của ĐấtTiểu Thư VictoriaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đói PDF của tác giả Knut Hamsun nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Độc Y Thần Nữ- Phúc Hắc Lãnh Đế Cuồng Sủng Thê (Nguyệt Hạ Khuynh Ca)
Nàng là huyết mạch duy nhất Thần Sáng Thế lưu lại, bị tộc nhân phản bội, linh mạch bị đoạt, moi tim mà chết, ngã xuống Vị Diện cấp bậc thấp nhất. Luân hồi chuyển thế, tái thế sống lại, mai kia trí nhớ sống lại, linh mạch thức tỉnh, một tay y thuật cứu sống người chết, hồi sinh bạch cốt, thần thú ngũ hệ gặp thần giết thần, gặp phật giết phật, thiếu của nàng, đều phải trả lại tất cả cho nàng. Vị hôn phu vong ân bội nghĩa, đá rớt. Đại sư tỷ lòng dạ độc ác, phế bỏ. Trưởng lão học viện âm hiểm ngoan độc, tiêu diệt. Triệu Hoán Thú của ngươi hung tàn, bá đạo, chưng cách thủy. Nhặt được một mỹ nam núi băng..Ách, cái này phải xử lý như thế nào?Mắt phượng của mỹ nam nheo lại: "Không bằng đóng gói đem đi, dù sao nàng cũng đã mua mạng của ta rồi." Tìm mua: Độc Y Thần Nữ- Phúc Hắc Lãnh Đế Cuồng Sủng Thê TiKi Lazada Shopee "Hả? Ta dùng cái gì mà có thể mua được cái mạng cực kỳ tốt của ngươi?""Lòng của nàng.""Nói vớ vẩn! Ta giao tâm của ta cho ngươi khi nào, làm sao ta lại không biết?" Bạch Vũ trừng mắt.Mỹ nam bình tĩnh ôm lấy nàng: "Kiếp trước."***Sau khi ba người cất bước, Ám Hồ đi ra từ sau sảnh đường, nhìn Ám Lân: "Ngươi có nắm chắc không cần Thánh Quân ra mặt cũng có thể giải quyết chuyện lời đồn?" Nói là lời đồn, nhưng trong lòng bọn họ đều rõ ràng thật ra là sự thật. Chính vì là sự thật, mới không dễ giải quyết. "Thánh Quân không thể ra mặt, ngươi cũng không thể thay Thánh Quân ra mặt. Cho dù ai trong các ngươi ra ngoài cũng có thể bị nhìn thấu, chỉ có thể dùng biện pháp khác." Ám Lân u lãnh nheo mắt lại, khóe miệng gợi lên một chút thâm ý: "Thật ra chuyện lời đồn nhảm gì gì đó, chỉ cần ba vị Vương không tin, vẫn giải quyết rất đơn giản." Ám Hồ nháy mắt mấy cái: "Ngươi nghĩ phải làm sao bây giờ?" "Nếu lời đồn đã bay đầy trời, dứt khoát truyền càng kỳ lạ hơn một chút." Ám Lân đã dự tính trong lòng trước nói. "Ám Lân đại nhân, Ám Ưng đại nhân trở lại." Lúc này, một ám vệ đến nhỏ giọng bẩm báo. Ám Lân biến sắc, lập tức cùng Ám Hồ đến mật thất.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Độc Y Thần Nữ- Phúc Hắc Lãnh Đế Cuồng Sủng Thê PDF của tác giả Nguyệt Hạ Khuynh Ca nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.