Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Văn Hóa Là Gì - Đào Duy Anh PDF

Về ý nghĩa của chữ Văn-hóa và chữ Văn-minh (tương đương với tiếng Pháp là Civilisation và tiếng Đức là Kultur), các nhà học giả thế giới, nhất là Tây-phương, bàn cãi đã nhiều lắm ; ở đây tôi đã không thể nhắc lại tất cả những cuộc thảo luận ấy thì cũng xin gác bỏ hẳn ra ngoài, mà chỉ nói khái quát về cái ý nghĩa mà chính tôi đã thừa nhận. Người ta thường nói dân tộc văn-minh, thời đại văn-minh để đối với dân tộc dã-man, thời đại dã-man. Trái lại, người ta thường nói văn-hóa Tây-phương, văn-hóa Đông-phương (văn-minh), văn-hóa các dân tộc Da-đen, Da-đỏ (dã-man), văn-hóa đồ đá cũ, văn-hóa điện khí. Xem thế, ta nhận thấy ngay chữ văn-hóa khác với chữ văn-minh thế nào, tuy rằng theo các ý-niệm khác nhau ấy, tiếng Pháp đều nhất tề dùng một chữ CIVILISATION thôi.Văn Hóa Là GìNXB Tân Việt 1947Đào Duy Anh80 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Ký Hoạ Việt Nam Đầu Thế Kỷ 20 PDF (NXB Trẻ 1989) - Nguyễn Mạnh Hùng
Trong những năm gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã đưa tin về một «Bộ tranh khắc gỗ» hay «Một kho tàng văn hóa» gồm hàng ngàn bức vẽ mới tìm lại được khi từ Hà Nội, từ Paris hay khi từ Thành phố Hồ Chí Minh. Tin ấy đã gợi sự chú ý của nhiều người xa gần muốn tìm hiểu thực chất của kho tàng này như thế nào. Để đáp ứng yêu cầu trên, chúng tôi đã cố gắng làm việc trong nhiều năm qua để thu thập thêm các tài liệu, ghi chép thêm nhiều ý kiến để sớm hoàn thành tập sách giới thiệu nhỏ này – KÝ HỌA VIỆT NAM ĐẦU THẾ KY XX.Song do trình độ và hoàn cảnh còn hạn chế và khó khăn, kính mong độc giả khắp nơi rộng lượng chỉ bảo những chỗ còn sai sót, nhầm lẫn. Và nhân đây, tôi xin được bày tò lòng biết ơn của tôi đến các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, đến các thầy, cô và bè bạn trong ngoài nước đã luôn thăm hỏi, nhắc nhở hoặc giúp đỡ tôi thêm nghị lực vượt qua những trở ngại trên bước đường nghiên cứu, học hỏi.Ký Hoạ Việt Nam Đầu Thế Kỷ 20NXB Trẻ 1989Nguyễn Mạnh Hùng216 TrangFile PDF-SCAN
Luận Về Tiếng Nam PDF (NXB Đời Mới 1943) - Ngô Quang Châu
Mấy năm gần đây, trên các báo cũng như trong các cuộc nói chuyện bàn về tiếng nước nhà, chúng ta thường thấy phàn-nàn: " Tiếng mình nghèo". Ta hãy thử xét xem câu phàn-nàn đó phải - hiểu thế nào, và có hẳn tiếng nước nhà là một thứ tiếng nghèo-nàn không đủ cho ta diễu-bầy ý nghĩ chăng? Chắc các bạn đọc sẽ không tin ngay, nếu có một người đến nói với các bạn rằng tiếng ta giầu, hay ít ra, tiếng ta cũng không quá nghèo như ta vẫn than-phiền đâu!Luận Về Tiếng NamNXB Đời Mới 1943Ngô Quang Châu100 TrangFile PDF-SCAN
Lê Thánh Tông 1442-1497 PDF (NXB Hàn Thuyên 1943) - Chu Thiên
Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành, là con thứ tư của Lê Thái Tông. Cuối năm 1442, Hoàng đế Thái Tông mất, Thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi tức Lê Nhân Tông, phong Tư Thành làm Bình Nguyên vương. Năm 1459, người con cả của Thái Tông là Lê Nghi Dân đột nhập cung cấm giết vua Nhân Tông. Nghi Dân tự lập làm vua, cải phong Tư Thành làm Gia vương. Nghi Dân chỉ ở ngôi được 8 tháng. Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460, các tể phụ Nguyễn Xí, Đinh Liệt, làm binh biến, bức tử Nghi Dân. Hai ngày sau, họ bàn nhau đón Tư Thành nối ngôi. Lê Thánh Tông lên ngôi Hoàng đế, xưng làm Thiên Nam Động chủ, đặt niên hiệu là Quang Thuận, sau đổi thành Hồng Đức.Lê Thánh Tông 1442-1497NXB Hàn Thuyên 1943Chu Thiên256 TrangFile PDF-SCAN
Lục Súc (1887) - Trương Vĩnh Ký PDF NXB Sài Gòn
Những năm cuối thế kỷ XX có một hiện tượng tiêu cực và đặc biệt ngày càng trầm trọng, đó là việc các nhân vật lịch sử và văn hóa Việt Nam liên tục bị hạ bệ, vẽ trấu: Nguyễn Huệ, Gia Long, Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, ... cũng như một số lãnh tụ, tướng lãnh bất kể phe phái nào. Có khi là những nỗ lực đi tìm sự thực lịch sử, có khi là những đánh giá lại, có khi gián tiếp chửi bới một chế độ, phe nhóm, có khi vì kỳ thị tôn giáo hay vì mặc cảm, dị ứng, biến ứng, có người riêng rẻ, lại có những tổ chức qui mô. Sự kiện 30-4-1975 đã chứng minh vai trò của „hoả mù“ tuyên truyền, phản thông tin trong cuộc chiến tranh đó! Trong một tình cảnh chung của người Việt lúc này sống chết với ... lịch sử, với hiện tượng hồi ký tạp loại, nhất là tiểu thuyết lịch sử, dã sử. Dĩ nhiên đó cũng là lý do trong nước gần đây (4-2000), tại đại hội Nhà văn lần thứ 6, việc sáng tác về các đề tài lịch sử đã được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề ra như là một phương hướng nhiệm vụ cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005 (1). “Hoả mù“ cứ thế mà tiếp tục thôi ! Dĩ nhiên, Trương Vĩnh Ký không thoát những đòn hỏa mù đó! Từ ngày ông qua đời đến nay và qua nhiều cuộc đổi đời, đã có nhiều công trình biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có. Trong bài này chúng tôi với chủ ý đặt lại một số vấn đề nghiên cứu căn bản, do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi vấn về con người và sự nghiệp Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là người mở đường báo chí và văn học chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX. Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, ... nhưng mỗi người một cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh hướng người Việt lúc bấy giờ đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.Lục SúcNXB Sài Gòn 1887Trương Vĩnh Ký26 TrangFile PDF-SCAN