Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết ở Venice - Thomas Mann

Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Cà Rồng Sa Ngã - Jie May
"NGƯỜI SÓI VÀ MA CÀ RỒNG LUÔN LÀ NHỮNG KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG... " Truyện này dành cho các bạn thích thể loại tình cảm pha chút viễn tưởng nha. Tác phẩm xoay quanh ba nhân vật chính: MIE - JAY (vampire) - YUL (wolf) Yul vì một mối thù truyền kiếp của làng yêu sói với gia tộc ma cà rồng nên khiến anh luôn phải đối đầu với Jay. Và khi số phận đẩy đưa đã mang hai người đem lòng yêu cùng một cô gái. Để rồi trớ trêu thay, cả ba người họ đều bị rơi vào vòng xoáy của ái tình. Liệu kết thúc sẽ ra sao? Họ có tìm được hạnh phúc? Hay là tất cả sẽ phải ra đi, rời xa người mình yêu mãi mãi? MIE: một cô bé bình thường, cô có một trái tim vô cùng thuần khiết. Vào một chuyến đi định mệnh năm đó đã cho cô gặp hai chàng trai rất kỳ lạ. Một người là ma cà rồng, người kia là một yêu sói. JAY : người thừa kế của một gia tộc ma cà rồng luôn phải chịu sự huấn luyện tàn khốc từ người cha độc ác và máu lạnh của mình. Cậu không giống với những ma cà rồng khác vì bản thân cậu mang dòng máu lai. YUL : một người sói sống trong làng yêu sói. Anh sống nội tâm và khép kín. Chấp nhận chỉ là người mãi mãi dõi theo Mie. Yul vì một mối thù truyền kiếp của làng yêu sói với gia tộc ma cà rồng nên khiến anh luôn phải đối đầu với Jay. Để rồi số phận trớ trêu thay khi hai người họ đã đem lòng yêu cùng một cô gái. Điều đó đã làm cho ba người họ bị cuốn vào vòng xoáy của ái tình. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất . Mình khai thác nội tâm của cả ba nhân vật chính luôn. Vì vậy, để biết ai là người đang được đề cập đến thì mình sẽ ghi cấu trúc chap như sau : CHAP: NHÂN_VẬT_ĐANG_KỂ - TÊN CHAP Ví dụ : CHAP 11: JAY - TÔI GỌI MIE LÀ CHỊ thì người đang kể chuyện là Jay, tên Chap là : Tôi gọi Mie là chị. *** Vì trận chiến này đã khiến cho Kris tàn phế, đôi chân kia không còn cử động được. Anh đã từng nghĩ, đó là cái giá phải trả cho những việc mà mình đã gây ra. Luôn bày kế hãm hại Jay, luôn muốn chiếm giữ vị trí độc tôn trong gia đình này. Và trước giờ cứ mở miệng ra là mắng nhiếc người khác, luôn cho rằng bản thân là đúng, buộc người khác phải phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của mình. Nhưng thật tốt cho Kris là vẫn còn một người luôn kiên nhẫn ở bên cạnh, giúp anh vượt qua sóng gió lần này. Dù cho thời gian đầu có một chút khó khăn để anh có thể chấp nhận được điều đó : - 'Bốp!' Các ngươi ra ngoài hết cho tôi! Kris xua đuổi tất cả người hầu, những ai muốn tiếp cận để chăm sóc cho anh. Khiến cho mọi người càng lúc càng xa lánh anh hơn. - Anh lại bày trò nữa à? Cứ thích mắng nhiếc người khác mỗi khi thấy không vừa ý sao? Có tiếng chân bước vào, là một cô gái... - Mau đi ra ngoài cho tôi! - Kris lại hét lớn. Cô gái ấy không trả lời, lẳng lặng cầm chậu nước tiến đến bên giường, định giúp anh xoa nắn đôi chân tê cứng kia. - 'Xoảng' - Cái chậu bằng sứ rơi xuống nền nhà, vỡ vụn - Cô đang ám chỉ rằng tôi rất vô dụng có phải không? ... Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Sa Ngã của tác giả Jie May.
Khởi Sinh Của Cô Độc - Paul Auster
Mọi điều đều bắt đầu và kết thúc bằng sự cô độc. Auster viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên, khởi sinh từ sự cô độc ấy. Cuốn sách được chia thành hai phần rõ rệt. Phần đầu tiên được kể ở ngôi thứ nhất, có tựa Chân dung một người vô hình. Đó là một cuộc hành trình. Hành trình bước vào một bí mật, khi Auster không cố tình tìm kiếm, không chờ đợi, không kỳ vọng. Từ những vết dấu để lại của người cha trong suốt mười lăm năm sống đơn độc, từ những mảnh ghép lấp chồng trong quá khứ hiện về rời rạc, vô thức, Auster đã tạo nên hình ảnh của người cha mà trước đó ông không thể chạm vào. Những bước chân của ông trên cuộc hành trình ấy, không dẫn lối ông về lòng hoài nhớ quá khứ, mà đi đến sự thấu cảm đầy sầu não. Người cha mà ông đã từng biết, không phải là người mà ông luôn nhìn thấy. Người cha đã từng vô hình, bỗng trở nên hữu hình với ông. Từ những điều ấy, sự đồng cảm nảy nở. Đó là cái khoảng ấm áp, cái tình yêu mà Auster gần như không bao giờ cảm thấy khi cha còn sống.   Ở cuốn sách đầu tay này, Auster cũng đã bắt đầu bày tỏ những trăn trở về việc viết văn. Có lẽ cái khởi đầu của cô độc mà ông nhận ra ấy, đã đẩy ông đến gần hơn với ngôn ngữ. Lối viết của Auster ở đây đã tỏ ra vô cùng linh hoạt, và đa dạng khi cố tình phá bỏ cấu trúc thông thường của tiểu thuyết, để lồng ghép những tiểu thuyết nhỏ trong tiểu thuyết lớn, đặt những câu chuyện tưởng như tách bạch  nhau bên cạnh nhau, tạo thành một đường dây liên văn bản đầy sáng tạo, hứng khởi và thách thức. Thế giới văn chương của Paul là một thế giới văn chương biến hóa khôn lường. Bắt đầu từ Khởi sinh của cô độc, và sau này là Trần trụi với văn chương, Moon Palace, Người trong bóng tối, Nhạc đời may rủi... Paul Auster luôn có cách khiến độc giả bị hấp dẫn ban đầu bởi những đề tài độc đáo, những chi tiết “câu khách”, với lối viết đa dạng, kết hợp nhiều thể loại, như trinh thám, điều tra, đầy bí ẩn, đầy mâu thuẫn, đầy phi lý... Nhưng tất cả những chi tiết ấy, hòa trộn với nhau để tạo thành thế giới nghệ thuật Paul Auster, hoàn toàn đứng vững trên ranh giới giữa nghệ thuật đỉnh cao, và giải trí rẻ tiền. Tác phẩm của Auster rất phổ biến tại Mỹ, nhưng không phải vì thế mà văn chương của ông tầm thường. Ngược lại, tận cùng hạt nhân của những tác phẩm ấy, chính là một sự suy nghiệm nhân sinh độc đáo, khúc tr *** Tôi biết đến Khởi sinh của cô độccủa Paul Auster qua bài viết “Đau lòng sổ bụi, những bức thư không gửi” của Trần Trọng Vũ. Anh Vũ viết bài này trong khi biên soạn và chọn lọc từ di cảo khổng lồ của bố anh, nhà thơ Trần Dần để in thành sách. Trong bài, anh Vũ viết: “Năm 1997, bố tôi, nhà thơ Trần Dần mất tại Hà Nội. Phải đợi nhiều thời gian sau tôi mới cảm thấy sẵn sàng mở lại di cảo của ông. Nhưng không phải với hy vọng được xích lại gần với ông hơn, không phải để hiểu ông hơn. Cũng không phải vì sợ mất ông. Tôi đã không thể xử sự được như trong văn học.” Những lời này hình như để phân biệt để việc anh đi tìm “bản gốc” của Trần Dần với hành trình ngược thời gian của Paul Auster. Ba năm sau khi đọc bài viết của anh Trần Trọng Vũ, tôi mới tìm đọc Khởi sinh của cô độc, vào lúc mà chính tôi cảm thấy nhu cầu lục lọi lại quá khứ, một quá khứ tưởng chừng như đang tuột khỏi tay mình. Đọc quyển sách này đối với tôi là một sự cứu rỗi. Tôi hiểu ra rằng Paul Auster dọn dẹp lại đống đồ cũ trong ngôi nhà cũ cùng với chồng chất ký ức không phải vì ông hy vọng hiểu hơn về người bố đã mất, không phải để xích lại gần, không phải vì sợ mất cái mà đằng nào cái chết cũng đã lấy đi. “Đi tìm thời gian đã mất” chỉ có thể là tên của một quyển sách. Cái mà Paul Auster tìm thấy là cái mà ông chưa bao giờ có, hoặc là chưa bao giờ biết rằng mình có. Đó là tình yêu. Chỉ thời gian mới là cái lọc để cho ta chắt từ cuộc đời ra tình yêu đích thực. GS. Ngô Bảo Châu *** CÁNH CỬA MỞ RỘNG   Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu, nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ   Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu. Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội – kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành. *** Trong hành trình tìm kiếm sự thật, hãy sẵn sàng với những điều không ngờ tới, vì sự thật rất khó tìm và khi đã tìm ra bạn cũng sẽ thấy thật khó hiểu. HERACLITUS   Mới ngày nào còn sống đó. Một người, giả dụ đang ở đỉnh cao sức khỏe, thậm chí chưa già, chẳng có tiền sử bệnh tật gì. Mọi thứ vẫn như xưa, như lúc nào cũng vậy. Ông ta sống từ ngày này sang ngày khác, lo việc của mình, mơ về cuộc đời đang trải ra trước mắt. Thế rồi, đùng một cái, cái chết đến. Ông thở nhẹ một hơi, sụp xuống ghế của mình, và thế là chết. Sự đột ngột của cái chết chẳng để chỗ trống cho suy nghĩ, chẳng cho tâm trí cơ hội tìm kiếm từ ngữ nào để an ủi mình. Ta chẳng còn gì ngoài cái chết, một thực tế không thể thay đổi được trong sự vĩnh cửu của chính ta. Chúng ta cam chịu chấp nhận cái chết sau một quãng thời gian bệnh tật kéo dài. Thậm chí cái chết vì tai nạn cũng được cho là bởi số phận. Nhưng một người đàn ông chết mà chẳng rõ nguyên nhân, một người đàn ông chết chỉ vì ông ta là người, đưa ta đến thật gần với ranh giới vô hình giữa sống và chết mà ta chẳng còn biết mình đang ở bên nào. Sự sống trở thành cái chết, như thể cái chết đã luôn sở hữu sự sống ngay từ đầu. Chết không cảnh báo. Như thể có khẩu lệnh: Đời dừng. Và nó dừng bất cứ khi nào. Tin về cái chết của cha đến với tôi ba tuần trước. Đó là một buổi sáng Chủ nhật, tôi đang trong bếp chuẩn bị bữa sáng cho cậu con trai nhỏ, Daniel. Trên lầu, vợ tôi vẫn ngủ, ấm áp dưới lớp chăn, tận hưởng thêm mấy tiếng ngủ nướng. Mùa đông ở vùng nông thôn: một thế giới im lặng, mùi khói gỗ, màu trắng. Tâm trí tôi đang ngổn ngang suy tư về đoạn mình vừa viết đêm qua, chỉ mong chờ đến chiều để quay lại với công việc. Rồi điện thoại đổ chuông. Tôi biết ngay là có sự không lành. Không ai gọi điện đến vào lúc tám giờ sáng Chủ nhật nếu không phải vì một tin tức không thể chờ đợi. Và tin mà không thể đợi thì lúc nào cũng là tin dữ. Tôi không thể tập trung vào một ý nghĩ ra hồn nào. Thậm chí trước khi đóng gói đồ đạc và khởi hành chuyến xe dài ba tiếng tới New Jersey, tôi biết mình phải viết về cha. Tôi chẳng có kế hoạch, chẳng có ý tưởng trước nào về chuyện này. Tôi thậm chí còn không thể nhớ mình đã quyết định thực hiện nó nữa. Nó cứ ở đó, là điều hiển nhiên, một nhiệm vụ choán lấy tôi từ khoảnh khắc tôi nhận được tin. Tôi nghĩ: Cha đi rồi. Nếu tôi không hành động nhanh lên, toàn bộ cuộc đời cha sẽ biến mất cùng ông. Giờ nhìn lại chuyện ấy, thậm chí chỉ sau vỏn vẹn ba tuần lễ, tôi đã thấy đó là một cách phản ứng thật kỳ quặc. Tôi đã luôn tưởng tượng rằng cái chết sẽ khiến mình đờ ra, bất động trong nỗi đau đớn. Nhưng giờ chuyện đã xảy ra như vậy, tôi không rỏ giọt nước mắt nào, tôi không cảm thấy thế giới quanh mình đổ sụp. Theo một lối lạ lùng, tôi như đã chuẩn bị kỹ một cách đáng kinh ngạc cho cái chết này, bất chấp sự đột ngột. Điều khiến tôi phiền lòng là chuyện khác, không liên quan đến cái chết hay phản ứng của tôi trước chuyện ấy: đó chính là việc nhận ra cha mình chẳng để lại dấu vết nào. ... Mời các bạn đón đọc Khởi Sinh Của Cô Độc của tác giả Paul Auster.
Hôn Ước Và Nỗi Đau - Mun Lương
Nếu bạn đang tìm kiếm một câu chuyện đầy sắc hồng của hạnh phúc thì câu chuyện này không dành cho bạn rồi. Từ đầu cho đến cuối, câu chuyện đều mang trên mình một màu xanh lạnh băng, một màu đen đau khổ và cả một màu đỏ đớn đau. Câu chuyện kể về cuộc sống giữa nó và hắn trong hôn nhân do hai bên gia đình sắp đặt và những nỗi đau của nó do hắn gây nên. Từ việc hắn hiểu lầm nó đến việc mất đi đứa con rồi đến cả việc hắn lạnh nhạt, tàn nhẫn và vô tình với nó. *** Hôm nay là đám cưới của nó và hắn. Nó mặc trên mình một chiếc áo soire màu trắng thuần khiết, một đôi giày cao gót cũng màu trắng nốt, tóc nó được búi cao gọn gàng, nó được trang điểm một cách thật nhẹ nhàng nhưng trông nó còn đẹp hơn cả hằng ngày. Nó ngồi trong phòng trang điểm mà cứ run: - Uyên ơi, tao sợ quá. - Có gì đâu mà sợ. - Tao sợ tao làm không được. - Mày chỉ cần lên đó nói ba lần con đồng ý là được. - Nhưng... Cánh cửa phòng được mở ra, hắn khoát trên mình một bộ vest trắng trông vô cùng điển trai bước vào, hắn tiến đến bên nó: - Anh nghe nói vợ anh đang sợ hả? ... Mời các bạn đón đọc Hôn Ước Và Nỗi Đau của tác giả Mun Lương.
Thám Tử Kỳ Duyên - Tài Tử Kim Thiền Khánh
Là tựa truyện ngôn tình mang lẫn thể loại truyện teen, Thám Tử Kỳ Duyên còn mở ra cho bạn đọc những tình tiết rùng rợn trong truyện ma, hứa hẹn sẽ đầy hấp dẫn nhé. Xin nói qua một chút cá nhân, tôi viết truyện trinh thám này cũng khá mệt mỏi, âu cũng do sức khỏe và căn bệnh khó thở hành hạ, ngồi máy tính chưa được 5 phút đã lên cơn, mỗi lần như vậy tôi phải hít vào thật sâu, cố gắng thông khí trong buồng phổi cho dễ thở hơn, những ngày ngủ đủ giấc thì còn đỡ; những ngày căng thẳng và suy nghĩ nhiều thì đúng là cực hình. Căn bệnh sơ phổi quả thật ảnh hưởng không nhỏ đến việc viết lách của tôi. Dù vậy, tác phẩm cũng hoàn thành, tôi rất mừng và tự hào về mình. Truyện viết xong cũng là lúc vong linh cô ấy được đem về chùa, cầu cho cô sớm siêu thoát, những gì tôi viết ra một phần là để giải nỗi oan cho cô. Cô đã sống như vậy và đã chết như vậy, cô muốn tôi viết, muốn cho mọi người thấu nỗi oan của cô, tôi đã hoàn thành ý nguyện đó giúp cô, cũng là lúc cô trả lại linh hồn cho tôi tiếp tục con đường sáng tạo mà tôi đã chọn. Hai mười năm gắng kết, nghiệp duyên đã dứt… *** Ghi chép của Khôi Nguyên. Ngọc Diệp đã nhắc nhở tôi rất đúng lúc. Vụ án mà tôi đang theo đuổi vẫn chưa kết thúc. Cây đinh gãy đó buộc tôi phải lật lại hồ sơ. Cây đinh đó và người đàn ông bí ẩn đã hẹn hò với Kiều Oanh trước lúc cô ấy chết... một biến số cần phải có lời giải ngay lập tức. Bằng không, tôi vẫn chưa thể kết thúc vụ án. Người đàn ông đó là ai? Tôi đã dò hỏi những thông tin liên quan đến con người đó thông qua Văn Phú nhưng vẫn không thu được kết quả như mong muốn. Chỉ có một manh mối rất mơ hồ do Văn Phú cho biết. Anh ta nói: Có một lần anh ấy gọi điện thoại cho Kiều Oanh, lúc đó Kiều Oanh đang hẹn hò với anh chàng kia. Qua điện thoại, Văn Phú nghe rất nhiều tiếng ồn; anh ta khẳng định lúc đó Kiều Oanh đang ở một nhà hàng người Hoa. Tôi có hỏi Văn Phú dựa vào đâu mà anh ta lại quả quyết như vậy? Văn Phú nói: “Tôi nghe thấy tiếng ăn uống, tiếng bát đũa, và tiếng hai người đang nói chuyện, điều đáng nói là hai người đó nói với nhau bằng tiếng Trung Quốc.” Văn Phú nhận mình kém cỏi thua anh chàng đó; đáng lý, Văn Phú phải hiểu hơn về người đàn ông đó mới phải, đằng này ngay cả cái tên của tình địch cũng không biết. Anh ta quá bí ẩn. Và Kiều Oanh cũng vậy, cô ấy ngay từ đầu đã không xem anh là “người thân”, không chỉ đối với Văn Phú, mà đối với bạn bè khác cũng vậy, Kiều Oanh rất kín đáo chứ không cởi mở như vẻ bề ngoài của cô ấy. Tôi có gọi điện hẹn Minh Hằng để hỏi cô ấy một số thông tin liên quan đến Kiều Oanh. Minh Hằng đã cung cấp cho tôi một thông tin khá thú vị. Cô ấy cho biết, trước lúc Kiều Oanh tự tử, cô ấy đã thấy một “giấu hiệu lạ”. Tôi hỏi đó là giấu hiệu gì? Thì cô ấy trả lời: “Tôi thấy trên cổ Kiều Oanh có những vết bầm.” Tôi hỏi lại: “Một vết hay là nhiều vết?” Kiều Oanh đáp: “Nhiều vết.” Ngoài ra Minh Hằng còn phát hiện trên cầu vai trái của Kiều Oanh có vết răn rất sâu. Tôi hỏi: “Làm sao Minh Hằng thấy được?” Minh Hằng trả lời: “Hôm đó Kiều Oanh đến nhà Minh Hằng, Kiều Oanh đã thiếp đi có lẽ do quá mệt mỏi, lúc kéo chăn đắp cho Kiều Oanh vô tình Minh Hằng phát hiện được. ... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Kỳ Duyên của tác giả Tài Tử Kim Thiền Khánh.