Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đất Vỡ Hoang - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov

Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô. *** Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sholokhov đang hồi hộp theo dõi số phận của bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp. Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới với bộ tiểu thuyết ''Đât vỡ hoang''. Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên. Cũng như ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Sholokhov. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Sholokhov. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả. Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn học thế giới. Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sholokhov sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc trên thế giới.  *** Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục. Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng. Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng. ° ° ° Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải. Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô- dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô- dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống. Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại: - Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác? - Iakốp Lukits ấy hả? - Phải, phải. - Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không? - Thấy, cảm ơn bác. Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ. - Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý. Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét- tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói: - Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ? - Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ? - Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen… Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra: - Pôlốptxép. Có nhớ không? Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào: - Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi… - Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không? Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô. - Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn. - Nhà có thóc không, Iakốp Lukits? - Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười. - Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa. - Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô- dắc rồi. Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu. - Chào bà con mạnh khoẻ! - Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?". Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ: - Dọn gì ăn đi. Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói: - Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện. Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp. ... Mời các bạn đón đọc Đất Vỡ Hoang của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vang Bóng Một Thời - Nguyễn Tuân
Văn học Việt Nam thời xưa có nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về mặt nhân văn và nghệ thuật, đã được công nhận và chứng thực qua thời gian. Bộ sách Việt Nam danh tác bao gồm loạt tác phẩm đi cùng năm tháng như: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Việc làng (Ngô Tất Tố), Gió đầu mùa, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân)... Vang bóng một thời là một tập truyện ngắn, tùy bút của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên năm 1940 bởi nhà xuất bản Tân Dân. Khi in thành sách, ngay từ lần đầu tiên cho đến các bản in hiện thời, Vang bóng một thời có nhiều đoạn kiểm duyệt từ thời Pháp thuộc bị cắt bỏ. Những đoạn kiểm duyệt này ít thì một hai dòng, nhiều thì vài đoạn... Do đó khi in tác phẩm này trong bộ Việt Nam danh tác vào năm 2014, nhà sách Nhã Nam đã so sánh với văn bản trên tạp chí Tao Đàn để khôi phục lại những đoạn bị kiểm duyệt Hy vọng bộ sách sau khi tái bản sẽ giúp đông đảo tầng lớp độc giả thêm hiểu, tự hào và nâng niu kho tàng văn học nước nhà. Mời các bạn đón đọc Vang Bóng Một Thời của tác giả Nguyễn Tuân.
Tâm Hồn Cao Thượng - Edmondo De Amicis
Tâm Hồn Cao Thượng được xuất bản lần đầu ở Việt Nam năm 1948, với bản dịch của thầy giáo Hà Mai Anh và cái tựa quen thuộc Những tấm lòng cao cả. Cuốn sách đã rất phổ biến và được tái bản lại nhiều lần. Bất kỳ đứa trẻ nào đã từng đọc Tâm hồn cao thượng, đều vô cùng say sưa và thích thú.  Tâm Hồn Cao Thượng được viết theo hình thức nhật ký của Enrico Bottini, một cậu học trò lớp ba trong trường tiểu học ở Ý, với đầy đủ những điều nhỏ bé diễn ra xung quanh đời sống của cậu. Đi theo cậu bé trong một năm học ấy, người đọc không chỉ được chứng kiến một đời sống sôi động, thú vị của những đứa trẻ, mà hơn hết sẽ cảm thấy được những ấm áp vô vàn đáng quý trong mối quan hệ giữa con người với nhau, dù đó là trẻ nhỏ, hay người lớn, là người giàu có, hay người nghèo khổ, người lành lặn hay tàn tật… Không bao giờ có sự phân biệt, khinh rẻ hay hắt hủi, chỉ có sự công bằng, nhân ái vô biên. Mời các bạn đón đọc Tâm Hồn Cao Thượng của tác giả Edmondo De Amicis.
Hiệp Sĩ Không Hiện Hữu - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Hiệp sĩ Agilulfo không hiện hữu, nhưng có hiện diện, thậm chí chàng hiện diện một cách mạnh mẽ, trong đội quân của Hoàng đế Charlemagne. Cùng chàng nam tước chỉ sống trên cây không chạm chân xuống mặt đất của Nam tước trên cây, chàng tử tước có hai nửa con người trong Tử tước chẻ đôi, hiệp sĩ Agilulfo hoàn chỉnh sự kỳ thú cho bộ truyện Tổ tiên của chúng ta của Italo Calvino; ông cũng là nhà văn duy nhất đủ khả năng làm cho sự “không hiện hữu” còn thật hơn sự thật, thêm một lần nữa vinh danh ý chí thuần khiết và lại nhắc nhở ta rằng: những câu chuyện xa xưa rọi rất nhiều ánh sáng lên cuộc sống hiện tại của chúng ta. Mời các bạn đón đọc Hiệp Sĩ Không Hiện Hữu của tác giả Italo Calvino.
Tử Tước Chẻ Đôi - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Với gần hai trăm trang sách, Italo Calvino đã tạo dựng mọi giá trị về một câu chuyên mang đậm tính dụ ngôn của thời hiện đại. Tác phẩm mang vẻ đẹp ẩn tàng đằng sau mọi thứ triết lý về Thiện-Ác. Nó như một bể chứa thủy tinh trong suốt đẹp đến ức chế rồi vỡ tung thành từng mảnh ghép, ở đó sự “lưỡng cách” là những điều mở rộng của một cuộc chạy đua đưa linh hồn đến sự nhiệm màu. Một câu chuyện mang đậm hơi thở của cuộc sống và sự vĩnh cửu đơn giản chỉ là những đổi thay... “Tử tước chẻ đôi” được Italo Calvino lấy từ bối cảnh là cuộc chiến với quân Thổ Nhĩ Kỳ làm cuộc sống của tử tước Medardo bị phân đôi thành hai nửa khác nhau. Tác phẩm mở đầu từ những phân cách của số phận và chiến tranh, nó được viết bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm vóc dáng của đời sống và lịch sử. Tác giả đã sử dụng một hàm lượng điển tích khi tạo dựng các bối cảnh của tác phẩm. Ông đã khéo léo kéo người đọc vào trong câu chữ của quyển sách bằng một thứ dụ ngôn về: Đời sống, Tình yêu, và các giá trị của Bản ngã. Các chi tiết trong “Tử Tước chẻ đôi” được Italo Calvino đẩy lên đến tận cùng của hiện thực: Hình ảnh của người lính trong đội quân Kitô cho đến tử tước Medardo, giây phút ấm cúng hiếm hoi “ở cái độ tuổi mà mỗi trải nghiệm mới, ngay cả chết chóc và vô nhân cũng đều phập phồng và nồng cháy tình yêu cuộc sống”. Từ Bác thợ cả ThạchĐầuĐinh “làm những giá treo cổ như một tuyệt tác” đến Bác sĩ Trelawney “đi tìm mai vỏ sinh vật biển hóa thạch” là các khái niệm bị đánh tráo, nó mang khoảng lùi lặng lẽ của đời sống; những tín đồ Huguenot “an tâm với thứ tôn giáo thầm kín của chính mình” đến ông cùi Galateo tạo nên sự chất chứa và lưu trữ của một “phúng dụ tự truyện về gia đình”. Từ tôi, nhân vật kể lại câu chuyện đến Esaù “những tội lỗi mà họ bảo tao chưa đủ lớn để hiểu”. Cặp đôi nhân vật này, được xem là trục xoay cho tất cả các nhân vật khác trong tác phẩm di chuyển, đối thoại, tồn tại và phát triển. Italo Calvino đã dệt nên chuyện tình yêu giữa: Cô gái chăn dê Pamela với tử tước Medadro. Nó óng ánh với tất cả những trạng thái: từ hẹn hò, đến rượt đuổi, cuối cùng là tranh đấu. Ý tưởng trong phân đoạn này mang Môtíp cũ: Hiệp sĩ và công chúa để “sáng tạo ra những phương thức mới sống bên nhau”. Nhưng cách viết của tác giả không vì vậy mà trượt theo một lối mòn quen thuộc, cũ kĩ. Tình yêu giữa tử tước Medadro và Pamela là sự đấu tranh giữa yêu thương và thù ghét, tính ích kỷ và lòng vị tha, sự độc ác và nét nhân từ hiền lành, khờ khạo. Sự tồn tại song song hai nửa của một con người, được tác giả cài đặt như một ám hiệu mà ở đó tính Thiện-Ác được tự bộc lộ những mặt mạnh và điểm yếu của nó. Lối viết của Italo Calvino đưa câu chuyện tới một kết cấu nhân bản: điều hoàn hảo thật sự là những giá trị xác nhập, nơi cái Thiện-Ác là một, tình yêu là một, đời sống là một. Mời các bạn đón đọc Tử Tước Chẻ Đôi của tác giả Italo Calvino.