Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truy Tìm Tội Phạm

Nhân vật chính của truyện - Loroimer Everett Weldon - vốn là một chàng trai gan góc, anh hùng, xuất thân từ giới giang hồ. Sau vụ gây rối ở sòng bạc Miquel Cabrero, Weldon nhận lời làm người bảo vệ cho Helen O’Mallock - cô con gái duy nhất của tướng O’Mallock đang bệnh rất nặng và có nguy cơ bị những kẻ lạ mặt ám sát sau cái chết của cha. Vốn quả cảm và kiên cường, Weldon quyết tâm bảo vệ tính mạng cho Helen và tìm ra sự thật của những bí mật bao quanh ngôi nhà trên ngọn đồi. Song sự thật ngày càng thêm rối rắm khi anh phát hiện chúng có liên quan đến người con gái mà mình vẫn hằng yêu - Francesca Laguarda... "...Jorram giới thiệu Weldon với cả phòng lần lượt những cái bắt tay gật đầu chào, ánh mắt nồng nàn đến với anh ta. Tâm hồn Weldon trở nên nhẹ nhõm hơn. Từ chiều đến giờ, anh ta cứ trĩu nặng ưu tư với việc bỏ mặc Hellen trong căn nhà trên ngọn đồi cao. Anh ta cứ sợ Francesca dụ anh ta đi vắng nhằm mục đích hãm hại cô gái tật nguyền. Thế nhưng bây giờ anh ta đã quyên hết băn khoăn và sợ hãi. Với những con người như thế này, lòng anh ta thanh thản lạ thường. Đã lâu rồi, anh ta phải vắt óc ra mà làm việc, suy tính, không có những giây phút thảnh thơi. Giờ cũng là cái dịp, anh ta nghĩ vậy. Francesca tiến đến không hề có nụ cười thỏa mãn thích thú, chỉ nắm lấy tay Weldon rồi nhìn thật lâu vào mắt anh chàng..." Trích Bài ca của mỹ nhân ngư trong Truy tìm tội phạm. *** Hai tay sải dài trên nệm, nằm ráng thêm một lát theo thói quen lười biếng, Weldon mở mắt nhìn khoảng trần nhà thụng xuống ngay trên đầu, hít một hơi làn không khí yên lặng, ấm cúng của buổi chiều lúc 5 giờ 30. Dòng suy nghĩ mông lung khiến anh như bất động. Anh chẳng thể nhớ đến nước Mỹ, quê cha đất tổ hay cái tỉnh lẻ anh ta đang hiện hữu đây ‐ cho đến khi anh ta ngước mặt lên nhìn qua cửa sổ, bỗng trông thấy phần mặt trước xù xì, nham nhở của ngọn núi Bull. Thở phào nhẹ nhõm, Weldon hạ đầu xuống chiếc gối mềm mại. Anh đang ở San Trinidad, và với chút băn khoăn, anh cần lưu ý đến vùng đất này. Đã có quá nhiều nơi trong khoảng thời gian gần đây lướt nhanh qua mắt tựa những lá bài chuyển động dưới ngón tay anh. Nhắm mắt lại lần nữa, anh để mặc cho tên tuổi và những gương mặt hiện ra trong ký ức như dòng nước chảy qua khe suối. Bất giác anh mỉm cười. Giờ thì anh thích nằm yên với đầu óc trống rỗng, suy tư thụ động để mà hồi tưởng. Cuộc sống đối với Weldon, không mục đích, không cần đạo đức hóa và tất cả khía cạnh đầy hương hoa mật ngọt của nó. Chuyện ăn uống, anh có thể so tài với một con dê, thần kinh có thể sánh với con bò mộng, chúa tể trầm tĩnh của vùng đồng cỏ. Lúc ăn, khi ngủ, cả chuyện hít thở, Weldon đều thích thú hưởng thụ. Thế thì chả vội gì ngồi dậy lúc này. Từ phần còn lại của căn phòng nhỏ quét vôi trắng, trời nóng ngột ngạt như bếp lò. Nhưng chính trong sức nóng mãnh liệt ấy, Weldon say sưa chìm đắm trong cảm giác từng sợi dây thần kinh và cơ bắp đang được thư giãn. Cuối cùng, khi cơn đói bắt đầu trỗi dậy, anh vói tay mở cửa. ‐ Thức ăn. ‐ Weldon gọi, âm thanh vang vọng dọc theo hành lang. Nhắm mắt lại lần nữa, anh chờ đợi. Sau cùng, anh nghe tiếng sột soạt của chiếc váy dài. Cô hầu phòng người Mexico gõ cửa bước vào. Thông thường, những cô hầu phòng không rụt rè, e thẹn. Thế nhưng anh cảm giác được vẻ do dự của cô ta qua những bước chân ngập ngừng khi cô ấy bước vào. ‐ Thưa ngài. ‐ Không nói tiếng Anh được à? ‐ Weldon ướm lời. ‐ Không, thưa ngài. Một chút ít thôi. ‐ Hãy báo cho bố cô biết đi. ‐ Bằng giọng Tây Ban Nha rất chuẩn, Weldon nói tiếp. Rồi anh mở to đôi mắt ngước nhìn cô nàng xinh xắn, một nét xinh xắn không chối cãi được. Ý tưởng về thức ăn bỗng hiện ra trong đầu Weldon. ‐ Chẳng biết quý ngài dùng gì? ‐ Giờ nào thức đó. ‐ Weldon đáp và tiếp tục quan sát cô nàng. Không hề có một yêu cầu thô bạo mà hầu như anh đang chiêm ngưỡng bức tranh đẹp. Và rồi, anh khẽ hát, nhẹ nhàng như hơi thở: “Ánh mắt như chiều hôm, miệng như mặt trời hồng”. Cô ả đỏ mặt, còn Weldon mỉm cười thân thiện. ‐ Quý ngài đây có đói bụng không? ‐ Hẳn rồi. ‐ Ông muốn dùng gì? ‐ Bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này đều OK. Dĩ nhiên là món bánh frijoles, lại nữa, món bánh xèo bằng bột bắp tortillas. Chẳng nơi nào trên đất Mexico có món bánh frijoles tuyệt hơn thứ bánh quế trắng, mỏng do chính bàn tay má cô ta làm ra. Còn món thịt dê tơ tươi rói luôn sẵn sàng để nấu: những miếng thịt thái mỏng, ghim vào cây xiên, nướng lên thơm phức có thể vừa thổi vừa ăn. Chuyện tắm rửa đã có hai cậu bé mozos khỏe mạnh mang những xô nước đến làm đầy cái bồn thiếc ở căn phòng sát vách. Anh hoàn toàn có thể bơi lội trong đó. Cô ta rời phòng. Giọng hát Weldon mượt mà theo sau: “Ánh mắt như chiều hôm, miệng như mặt trời hồng”. Anh nghe thấy tiếng chân cô nàng ngập ngừng nơi hành lang rồi cất bước chầm chậm. Anh chàng ngồi dậy với nụ cười thầm. ‐ San Trinidad, ‐ Giọng anh chàng thì thầm ‐ ta yêu mày lắm! Rồi Weldon đứng lên, bước vào bồn thiếc trong căn phòng kế cận. Hai cậu bé mozos vừa thán phục, vừa tỏ vẻ kinh sợ xối từng xô nước lạnh này sang xô khác lên bờ vai to lớn, trắng trẻo, lên những bắp cơ run run vì lạnh của anh. Lau khô mình mẩy và mặc quần áo xong xuôi, anh bước xuống sân trong của khách sạn. Những chiếc đinh giày lẻng kẻng theo từng bước chân của anh. Những chiếc đinh vàng với vẻ lấp lánh, ngời sáng mới tuyệt vời làm sao khi chàng vượt qua khoảng trống đầy ánh mặt trời. Sức nóng chói chang chết tiệt ấy làm màu đỏ của ngói mang màu lửa, bức tường trắng trở thành bức màn lửa. Nhưng Weldon chẳng cần tránh né. Đứng ngay giữa sân, hạ chiếc nón rộng vành xuống, anh để vầng sáng chói lòa phủ quanh người với tất cả sức nóng của nó. Một người đàn ông thấp bé, gương mặt nhỏ, rám nâu, từ bóng râm của một góc sân phủ dây leo, nói tiếng Anh với giọng cau có: ‐ Này, cậu bé, cẩn thận đấy. Coi chừng phỏng nắng! ‐ Cám ơn. ‐ Anh đáp lại ‐ Nhưng tôi cần tắm nắng. Băng ngang qua cái bàn nhỏ giữa những hàng cột, chàng nằm ườn trên một chiếc ghế, làm nó kêu kẽo kẹt như chẳng thể chịu nổi sức nặng của anh ta. ‐ Nắng giết vi khuẩn! ‐ Anh giải thích. Vẫn luôn là cách nói như vậy: hoàn tất một câu với những phần rời rạc. Weldon ngước nhìn người đàn ông nhỏ bé với nụ cười vui vẻ, ánh mắt long lanh, một chút ngây ngô như thầm bảo mọi thứ trong cuộc đời đối với anh đều tốt đẹp cả. Những chiếc bánh frijoles hấp chín cuốn trong những chiếc bánh quế mỏng xám được mang đến. Anh bắt đầu ăn mạnh, nhưng không vội vã. Đằng sau điếu xì gà Mexico, người đàn ông thấp bé, gương mặt nâu nhỏ cau mày nhìn mớ thức ăn dần dần biến mất. Nhích chiếc ghế một chút, ông ta lắc đôi vai đột ngột để ngồi sát Weldon hơn. Những chiếc bánh frijoles và cả món bánh xèo bằng bột bắp tortillas đã mất dạng. Thêm những chiếc tortillas được mang ra với một dĩa lớn thịt dê tơ chặt thành từng khúc vuông vức, vàng rộm. Thêm một dĩa nước sốt đỏ, Weldon nhúng từng miếng thịt vào dĩa sốt, không vội vã nhưng thức ăn bắt đầu biến đi rất nhanh. Không bao giờ anh ngốn cho đầy họng. Chẳng qua là khả năng ẩm thực quá tốt cho bất kỳ khoảng thức ăn nào được mang ra. Người đàn ông thấp bé chỉ ngồi yên lặng mà đưa mắt nhìn, dù ông ta không hề muốn nhìn người khác ăn với kiểu cách như vậy. Lắc lư cái đầu và hướng đôi mắt về phía trước như thể đang đuổi ruồi, giờ thì ông ta nhìn ra xa, tay nhịp nhịp nhanh những ngón nhỏ xíu lên bàn. Tuy nhiên, thỉnh thoảng đôi mắt ông ta vẫn quan sát dĩa thức ăn và Weldon đang dùng. Weldon giơ cao một cục thịt đặc biệt ghim vào phần cuối của con dao trên tay: nó cháy khét ở phần ngoài rìa, phần còn lại to dày màu vàng sậm dính đầy nước sốt. ‐ Dùng một ít đi. ‐ Weldon thử mời ông ta. Người đàn ông nhúc nhích xung quanh cái ghế. ‐ Anh bạn trẻ à, ‐ Ông ta lên tiếng ‐ có phải tôi đã đủ già để khuyên anh bạn điều gì chăng? ‐ Lời khuyên ư? ‐ Weldon thì thầm ‐ Chẳng ai cho không một lời khuyên. Hẳn phải trả giá cao để đáp lại chúng đúng không? ‐ Này ‐ Người đàn ông bắt đầu. ‐ Lời khuyên hả? ‐ Weldon nhắc lại ‐ Lời khuyên là kinh nghiệm, có thể tóm tắt như vậy. ‐ Nó là... ‐ Người đàn ông tiếp lời ‐ và vì thế... Hạ thấp giọng, Weldon thì thầm. ‐ Một lời khuyên hẳn tốt hơn ánh mắt soi mói. ‐ Dĩ nhiên rồi anh bạn. Tôi muốn kể cho anh bạn nghe một chuyện. ‐ Ai mà không nghe theo lời khuyên. ‐ Weldon tiếp tục với giọng nhỏ nhẹ ‐ Chẳng làm nên tích sự gì cả. ‐ Tiếp tục. Tiếp tục đi! ‐ Người đàn ông cau có ‐ Nói cho biết những điều bạn muốn về vấn đề ấy đi. Tôi có thể chờ. Tôi đang đợi đây này. ‐ Tôi sẽ nhận lời mách bảo từ bất kỳ ai như thể là bố tôi. ‐ Anh tiếp tục. ‐ Bảo ban vẫn tốt hơn là roi vọt. Ấy, người ta thường nói những người tệ hại nhất vẫn có thể khuyên những lời tốt nhất. ‐ Weldon mỉm cười thân thiện. ‐ Ông có thể dùng một chút thịt nướng không? Khẽ nhịp những ngón tay, người đàn ông hầu như giận dữ. ‐ Không. ‐ Ông ta kêu lên ‐ Tôi không dùng những thứ đó. Và những thứ kia nữa, loại nước sốt ấy. Anh có biết nó là gì không? Weldon ngập ngừng một chút. Nhưng với bản tính không nề nao núng anh nói tiếp: ‐ Khẩu vị đối nghịch nhau như nước với lửa. Ông nghĩ sao về điều này? Người đàn ông mở to mắt nhìn. Chòm râu cằm mỏng, nhọn, để theo mốt xưa tạo cho vẻ mặt ông ta có nét hiểm độc. Nó run run khi ông ta gằn từng tiếng một: ‐ Nhìn anh bạn ăn tôi muốn lợm giọng. Nó làm gan ruột tôi muốn nôn ra từng khúc. ‐ Giọng ông ta quả quyết. Anh chàng Weldon đặt mẩu thịt đang được làm đề tài vào miệng, vẫn nói tiếp không một chút phiền lòng về những điều vừa nghe. ‐ Nó à? ‐ Anh đáp lại ‐ Ngay bây giờ, ông biết tôi có cảm giác gì không? Mọi thứ đều rất OK nếu ông dùng nó đúng cách, còn nếu không thì... ‐ Thế sao? ‐ Ông ta mỉa mai ‐ Thần học à? ‐ Tại sao không? ‐ Weldon hỏi lại ‐ Nếu ông muốn dạy một người làm bếp thì phải thực hiện ngay trong nhà bếp chứ không phải trên bàn ăn. Thường tôi vẫn dùng những gì tôi có. Ông ta rùng mình. Đưa hai tay đỡ lấy đầu, môi ông ta run run quanh điếu xì gà. Những ngụm khói lan nhanh trước mặt ông ta và xuyên qua làn khói ấy, đôi mắt lim dim hướng về phía Weldon. ‐ Tôi nghĩ ra điều gì trong bụng dạ anh bạn rồi. ‐ Ông ta thở dài. ‐ Tôi chưa từng biết đau bụng là gì. ‐ Weldon đáp lại. Và anh kết thúc miếng thịt cuối cùng với phần nước sốt còn lại. Vét hết chỗ nước sốt bằng miếng thịt dê, nước sốt bám vào miếng thịt nhiều đến nỗi chàng phải dùng môi hứng. Người đàn ông chẳng dám nhìn cái hỗn hợp đó được nuốt như thế nào. Đưa hai tay che mắt, ông ta vẫn để tay thấp vừa tầm kịp quan sát cái màn ăn uống ghê rợn đó. Vừa nấc một cái, vừa rời khỏi ghế, ông ta rảo vài bước tới lui rồi ngồi xuống với một cốc bia, bắt đầu ngắm nghía Weldon. Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Tội Phạm của tác giả Max Brand.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thập Giác Quán - Yukito Ayatsuji
“Phải giết từng đứa, từng đứa một…” Một ngày nọ, có bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K ra thăm hoang đảo Tsunojima. Ở đây có một tòa nhà độc đáo hình thập giác, tác phẩm của một kiến trúc sư đã chết cháy nửa năm về trước. Vốn yêu thích và ham suy luận, họ toan kết hợp việc vui chơi với điều tra khám phá các bí mật ẩn sau vụ chết cháy này, nhưng chẳng ai ngờ chuyến thăm đảo lại mau chóng biến thành một chuỗi án mạng mới, và các sinh viên lần lượt biến thành nạn nhân trong một kế hoạch ám sát tinh vi. Bảy ngày và bảy người… Giác quán giữa Giác đảo… Ai là kẻ sát nhân? Ai là người tiếp theo phải chết? Tại sao? Và quan trọng hơn: Làm cách nào thoát nạn? Chẳng thể tin tưởng một ai, từng nạn nhân đơn độc đối mặt với quỷ dữ, run rẩy vén bức màn ma mị để tìm ra sự thật. Bằng kiến thức thu lượm được từ kho truyện trinh thám đã tích lũy, liệu họ có vạch mặt chỉ tên được kẻ thủ ác và thoát nạn, hay có học mà không có hành, cuối cùng sẽ đi đến kết cục bi thảm là cuối cùng chẳng còn một ai? Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất trong lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Cung Quán – 1988; Hình Nhân Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Thập Giác Quán gồm 12 chương (không kể mở đầu và hồi kết), xoay quanh chuyến hành trình một tuần ghé thăm hoang đảo Tsunojima của bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K. Mỗi nhân vật đều có cho mình một biệt hiệu riêng mượn từ tên các nhà văn trinh thám Âu-Mỹ mà họ ngưỡng mộ, theo thứ tự lần lượt là: Yamasaki Yoshifumi – Edgard Poe, Suzuki Tetsuro – John Dickson Carr, Matsuura Junya – Ellery Queen, Iwasaki Yoko – Agatha Christie, Oono Yumi – Emma Orczy,  Higashi Hajime – Gaston Leroux và Morisu Kyoichi – S.S Van Dine. *** Có cùng mô tuýp với Mười người da đen nhỏ của nữ hoàng trinh thám người Anh Agatha Christie về bối cảnh và lối gây án, song Thập Giác Quán đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình khi đã lồng ghép rất hoàn hảo các diễn biến của vụ án cả trên đảo và đất liền. Tình tiết được xây dựng khá lôi cuốn ngay từ những trang đầu tiên, luôn thôi thúc người đọc mau chóng khám phá sự thật, nhưng càng về cuối lại càng không thành công. Tuy được đánh giá là có cái kết ấn tượng, nhưng nếu bạn là người “sành” trinh thám, thì chỉ cần vài chương là đã đoán được hung thủ là ai. Tác giả đã đề cập luận điểm “chủ nhà” khá sớm, và mặc dù diễn biến dần khiên cưỡng và mờ mịt, nhưng dường như cũng không có ý phủ nhận luận điểm này. Động cơ gây án cũng là một điểm trừ nữa cho Thập Giác Quán, khi trong mắt độc giả, lý do trả thù dường như không đủ để gây ra một vụ thảm sát có tính toán và quy mô lớn nhường này. *** Thập Giác Quán vẫn là một cuốn truyện đáng mua đối với những ai đam mê trinh thám nói chung. Còn một khi bạn đã là fan “ruột” của thể loại trinh thám cổ điển, thể loại mà theo lời Ellery nói thì: “Có thể cho tôi là hoài cổ, nhưng tiểu thuyết trinh thám thực chất chỉ cần: một thám tử tài ba, một tòa nhà rộng lớn, những kẻ mờ ám, bi kịch đẫm máu, tội ác không tưởng, và những trò lừa có một không hai của hung thủ.”; sẽ thật may mắn nếu bạn không mua phải cuốn này.
Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.