Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Ngày Và Một Đời

Bạn chờ đợi gì ở tác phẩm tiếp theo của một nhà văn vừa giành Giải Goncourt danh giá nhất nước Pháp? Nhất là khi giải thưởng ấy đã được trao cho tác phẩm không-trinh-thám đầu tiên của nhà văn chuyên viết trinh thám? Với Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã có một lời đáp thật khéo léo cho những trông đợi ấy. Ba năm sau giải Goncourt, Lemaitre trở về với sở trường trinh thám, nhưng là kiểu trinh thám rất khác với những gì ông viết trước đây. Một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý.   Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một "kẻ sát nhân mười hai tuổi"! *** Ba ngày bi kịch quyết định cái chết của một đứa trẻ và sự sống sót của một đứa trẻ khác.  Một đời che dấu, dối trá, ác mộng và cảm giác tội lỗi, đắn đo giữa việc tới gõ cửa sở cảnh sát hay cứ lặng lẽ mà sống tiếp.   *** Ba ngày và một đời là tiểu thuyết trinh thám đánh dấu sự trở lại của nhà văn nổi tiếng nước Pháp Pierre Lemaitre. Sau thành công vang dội năm 2013 với giải thưởng Goncourt – giải thưởng văn chương danh giá nhất nước Pháp, Pierre Lemaitre đánh dấu sự trở lại cùng Ba ngày và một đời. Vẫn khai thác đề tài trinh thám quen thuộc, song tác phẩm này mang những đặc điểm rất khác so với những gì ông từng viết trước đây. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý, một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Không hoàn toàn giống với Alex, ở Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã phá vỡ hoàn toàn lối viết trinh thám thông thường, khiến độc giả đôi khi tự hỏi: Liệu đây có phải một tiểu thuyết trinh thám? Câu chuyện bắt đầu từ một sự việc vặt vãnh trong một làng nhỏ hẻo lánh, kéo cậu nhóc Antoine 12 tuổi vào một cơn kích động không kiềm chế được, rồi dẫn tới án mạng. Bị tấn thảm kịch cuốn đi, Antoine mang theo mình bí mật khủng khiếp, một gánh nặng quá tầm đối với một cậu thiếu niên. Bắt đầu từ đây, Pierre Lemaitre dẫn độc giả tiến vào sâu hơn con đường rối rắm trong đầu óc một cậu nhóc 12 tuổi, để ta sống cùng cảm giác tội lỗi của cậu, trải qua cùng cậu từng phút hoảng loạn, từng giây ám ảnh. Cũng như nhân vật Raskolnikov của Dostoievski, Antoine luôn dằn vặt về tội ác mình đã gây ra và trong lòng luôn thường trực nỗi băn khoăn: thú tội hay trốn chạy. Ở những trang đầu, ta như được chứng kiến phiên bản hiện đại của Tội ác và trừng phạt. Nhưng với bàn tay lão luyện của người đã có mười năm viết trinh thám, Pierre Lemaitre cuốn người đọc vào những nút thắt mở liên tục, thôi thúc ta đọc tiếp, không một phút ngơi nghỉ. Phần sau cuốn sách đặt người đọc vào một quãng thời gian sau đó, khi Antoine đã lớn hơn. Ta gặp lại tất cả những người chủ chốt liên quan đến vụ án năm xưa trong một cuộc đời mới. Sự pha trộn những sự vụ trong quá khứ với những hệ quả hiện hữu ở hiện tại khiến cuộc sống của Antoine có thêm những góc độ mới. Những gì còn lại từ quá khứ đóng vai trò quan trọng trong từng quyết định cũng như trong số phận sau này của nhân vật chính. Và những tiết lộ cuối cùng mà Pierre Lemaitre mang lại cho độc giả thật sự ngoài sức tưởng tượng. Bất ngờ, hợp lý và đáng suy ngẫm. Một cuốn sách không dồn dập, mau lẹ với những tình huống cấp tập, mà sâu sắc và đầy ẩn ý. Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một “kẻ sát nhân mười hai tuổi” trong Ba ngày và một đời! Theo Bookaholic.vn *** Ba ngày và một đời có thể được tóm gọn trong một câu thế này: Câu chuyện diễn ra trong ba ngày và gây ám ảnh cả một cuộc đời. Ngày thứ nhất, cậu bé ấy giết người. Ngày thứ hai, cậu ta cùng gia đình nạn nhân đi tìm hung thủ. Ngày thứ ba, một cơn bão đã cuốn phăng tất cả mọi thứ, chôn vùi luôn cả bí mật mà cậu muốn che giấu suốt cuộc đời mình. Hung thủ được nêu đích danh ngay ở những chương đầu tiên, thậm chí phần giới thiệu ở bìa truyện phía sau quyển sách còn tiết lộ rằng kẻ sát nhân mới chỉ mười hai tuổi. Xuyên suốt quyển truyện không hề có những tình tiết phá án đuổi bắt hồi hộp, cũng không có quá trình điều tra bộ mặt thật của hung thủ. Tất cả chỉ là vụ giết người bí ẩn được đăng trên các phương tiện truyền thông nhưng lạ lùng thay, không có bất kỳ vết tích cụ thể nào được khẳng định. Ba ngày và một đời thể hiện đúng thứ tinh thần cần có của một quyển trinh thám xã hội, nặng về yếu tố tâm lý và khai thác những góc cạnh tối tăm trong suy nghĩ của nhân vật. Tớ nghĩ về mặt này Pierre Lemaitre đã làm rất tốt, đặc biệt ở những phân đoạn đấu tranh nội tâm của hung thủ. Ba ngày và một đời đề cập một phần về xã hội Pháp, lấy một nhóm nhỏ để đại diện cho xã hội đương thời, tuy có hơi chủ quan vì không xét trên tổng thể rộng lớn, nhưng nhóm người mà ông khắc hoạ cũng đã đủ để tạo thành một xã hội thu nhỏ, nơi mà mỗi cá thể bị trói chặt lại bằng định kiến và ánh nhìn của người khác. Khi ta huỷ hoại cuộc sống của một ai đó, khi ai đó huỷ hoại cuộc sống của ta, ánh nhìn của xã hội đóng vai trò gì. Xã hội và cá thể không thể tách rời nhau, một cá thể có thể tác động lên xã hội và ngược lại, cả xã hội có tác động vô cùng to lớn đối với một cá nhân nhỏ bé. Câu hỏi mà hung thủ tự đặt cho chính mình cứ khiến tớ nghĩ hoài: Chấp nhận đầu thú, hay là chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình. Hẳn là không ai muốn đầu thú rồi, nhưng đầu thú rồi chấm dứt nỗi đau đó hay là sống với sự ân hận và niềm day dứt cho tới phút cuối cùng của cuộc đời, quả không dễ trả lời. Điểm duy nhất khiến tớ chưa hoàn toàn đánh giá cuốn này 4 sao là vì tác giả cho người đọc biết khá sớm về hung thủ, điều đó giống như một con dao hai lưỡi, nó vừa có thể khiến câu chuyện bớt đi một phần lôi cuốn vì người đọc đã biết trước, lại cũng có thể khiến câu chuyện trở nên hồi hộp và bí ẩn vì người đọc hẳn sẽ tò mò đến cuối cùng thì hung thủ sẽ bị vạch trần thế nào. Dẫu sao tớ cũng thích những quyển trinh thám đấu trí cân não, nhưng quyển này là trinh thám xã hội nên tạm thời gác lại vấn đề này. Thường thì trinh thám xã hội sẽ đưa ra câu trả lời Hung thủ là ai, rồi mới dẫn dắt người đọc đi tìm Hung thủ đã làm chuyện đó như thế nào. Có điều khoảng cách giữa “Là ai” và “Làm như thế nào” trong quyển này hơi ngắn. Ừm tớ chỉ nhận xét có vậy thôi. Dẫu sao trinh thám của Pierre Lemaitre cũng đáng để đọc thử mà. Đại khái thì nếu cậu tò mò thì hãy cứ đọc đi, mình đâu biết được mình thích một quyển sách cho đến khi cầm lên và đọc nó. Truyện này có thể không quá xuất sắc đối với những ai là fan cứng của thể loại trinh thám, còn đối với một đứa coi trọng yếu tố tinh thần của truyện như tớ thì nó đọc ổn. *** Thật là khó định danh thể loại cho tác phẩm này, bảo nó là trinh thám thì chắc chắn không phải rồi. Vậy thì cứ gọi nó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý – tội ác đi. Cậu bé Antoine, vì gặp nhiều ức chế nội tâm không thể xả bỏ, đã vô tình đánh chết Rémi, đứa bé 6 tuổi con nhà hàng xóm. Quá sợ hãi, cậu đã giấu xác Rémi xuống cái hố sâu trong rừng và tình cờ làm sao, khi người ta đang ráo riết tìm kiếm Rémi thì một cơn bão xuất hiện. Cơn bão khủng khiếp đó đã phá tan thị trấn nhỏ, thậm chí thổi rạp cả khu rừng tội ác. Người ta bận rộn tái thiết thị trấn, tu sửa thiệt hại, hầu như không còn ai muốn quan tâm đến số phận Rémi nữa, Antoine thoát hiểm một cách ngoạn mục…   Thật ra, từ đầu đến cuối, Antoine luôn thoát hiểm, dù cho đó là lúc cậu lỡ tay đánh chết người, hay mười mấy năm sau, khi cậu đã trở thành bác sĩ của thị trấn, xác Rémi được tìm thấy, thì cậu vẫn lọt lưới. Nhưng cái giá để trả cho sự trong sạch giả tạo ấy quả thực không nhỏ nếu không muốn nói là cậu sẽ phải gánh nó trên vai, mãn kiếp. Một án chung thân của tòa lương tâm đại hình đã lặng lẽ tuyên ngay từ khi câu vung gậy… Cuốn sách này vừa mỏng vừa nhẹ, đã thế lại đầy chi tiết thừa thãi, thậm chí có chỗ còn thiếu logic, mạch văn ỡm ờ chậm không ra chậm nhanh không ra nhanh, ít ra cũng phải đến 1/3 nội dung có thể cắt bỏ mà không làm ảnh hưởng gì đến kết cấu truyện. Nhưng cái kết thì đặc biệt xuất sắc, chỉ vài trang cuối truyện đã làm cho giá trị cuốn sách tăng vọt, với tôi nó gần giống như một cú shock vậy. Và sau cái kết, có lẽ hiệu ứng đi kèm với nó là cảm giác thỏa mãn nhẹ nhàng. Thoát được tội ác do mình gây ra không đồng nghĩa với việc thoát được nỗi bất hạnh mà mình phải gánh chịu. Có lẽ, chỉ là có lẽ, ở một góc heo hút nào đó của nước Pháp, Antoine vẫn đang tự sám hối lỗi lầm. Trần Hùng *** Đọc Pierre Lemaitre nên xác định luôn rằng với nhà văn này, không có ranh giới định dạng thể loại trinh thám, tâm lý hay xã hội… tôi không thích việc nhất định phải định danh các tác phẩm của Pierre Lemaitre vào thể loại văn học gì (nếu nó là trinh thám thì phải như này như kia, nếu nó là xã hội thì phải thế này thế khác…), bởi ở Hẹn gặp lại trên kia là tác phẩm không trinh thám đầu tiên của tác giả thì nó cũng có yếu tố trinh thám, rượt đuổi, điều tra thông tin; ở Alex, Ba ngày và một đời dù được định danh là tiểu thuyết trinh thám song là kiểu trinh thám không cần thiết phải rõ nét vai trò của thám tử cảnh sát điều tra. Pierre Lemaitre thích các “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương”, các câu văn, ý tứ có sự vay mượn của các tác giả mà ông ngưỡng mộ, tiếc rằng ở đối tượng người đọc trâu cũng như bò như tôi, thì chỉ nhận ra “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương” của tác giả ở tiểu thuyết giành giải Goncourt Hẹn gặp lại trên kia. Chúng ta có trinh thám vừa đọc vừa suy đoán hung thủ hoặc vừa đọc vừa khớp tất cả mảnh ghép để hoàn thành bức tranh; trinh thám biết ngay hung thủ và sự thật từ đầu; trinh thám để mở, mỗi người đọc có một đáp án… Ba ngày và một đời là kiểu trinh thám có thể biết ngay hung thủ là ai từ khi chưa mở sách, chỉ cần tinh ý đọc text bìa cũng lờ mờ đoán ra thủ phạm, hoặc chỉ sau 20-30 trang đầu đã rõ mười mươi hung thủ. Thế thì tại sao còn đọc làm gì. Cái này là gout đọc, tôi đọc trinh thám không nhiều, lại thích trinh thám chậm, thiên về tâm lý nhân vật, các chi tiết rất nhỏ lẻ và thực ra không thích quy mô vụ án nhiều xác chết. Vụ án chỉ tầm ở mức tìm thấy một chiếc chìa khóa lạ của người đã khuất và muốn tìm hiểu chiếc khóa này mở cái gì thì với tôi cũng đáng đọc, miễn sao, quá trình điều tra thu thập xử lý thông tin được tác giả chú trọng vào các chi tiết rất nhỏ nhưng kỹ thuật quăng thả phải thật khéo, tâm lý nhân vật phải nhiều suy tư móc nối nhạy cảm, và cuối cùng, rất quan trọng, đã là văn học thì thể loại nào cũng vậy, phải nhiều tính văn chương (nhưng đừng sến quá). Ba ngày và một đời kể một câu chuyện rất đơn giản, cậu bé 12 tuổi Antoine với nhiều vấn đề bị dồn nén không giải quyết được đã lỡ tay dùng gậy phang vào đầu (chỗ hiểm) của cậu bé 6 tuổi Rémi và Antoine trở thành hung thủ gây ra án mạng. Trong 2-3 ngày người ta cho rằng Rémi bị mất tích và tổ chức tìm kiếm nhưng không có kết quả, Antoine lọt lưới. Trong thời gian sau đó, một cơn bão kéo theo mưa giông quét qua thị trấn, tất cả mọi vật, việc trôi bồng bềnh, đảo lộn trật tự vị trí, người ta cũng không thấy dấu vết của Rémi, Antoine cũng lọt lưới. 12 năm sau, xác của Rémi được tìm thấy nhưng Antoine vẫn thoát tội. Nếu chỉ nghe kể như vậy, thấy bất công không? Trong một tập truyện ngắn của Karel Capek tôi đọc gần đây, tôi rất ấn tượng ở một vài truyện ngắn bởi ý tứ của nó, rằng, con người thích hợp và phải chịu thứ công lý của chính xã hội loài người, không phải Thượng Đế hay bất cứ đấng nào phán xét, mà chính là những gì thuộc về xã hội loài người, mà ở Ba ngày và một đời, chính là sự cắn rứt lương tâm của hung thủ. Cậu bé 12 tuổi đồng nhất sự nặng nề của cuộc sống với nỗi cô đơn, sự sợ hãi của cậu, từ đấy cậu có cái nhìn bi quan với cuộc đời dù rất cố gắng sống tốt đẹp hơn mỗi ngày. Sự thật dường như được che đậy để không một ai biết, nhưng, những biểu hiện rất nhỏ của mọi người cũng khiến Antoine bị giày vò, muốn chạy trốn, chối bỏ vùng đất với ký ức buồn thảm. Công lý là trừng phạt sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu như người phạm tội không sám hối. Sám hối là sự dừng lại, không tái diễn và ăn năn về hành vi đã gây ra. Hung thủ ở Ba ngày và một đời trở thành trung tâm của nỗi bất hạnh, một nỗi buồn thảm thuần khiết đã được dành cho Antoine ngay từ tuổi ấu thơ. Để rồi phải trả giá bằng việc sống không thôi lo sợ dằn vặt, lấy một người phụ nữ mình không yêu, là bố của đứa con ngoài mong muốn… như vậy, Antoine đã tự kết án chính mình. Hơn 240 trang sách, hung thủ biết ngay từ đầu nhưng tôi vẫn đọc, để cùng đi qua hành trình nhiều năm dài cô đơn u uẩn của Antoine, người đọc cũng có cùng tâm trạng như Antoine rằng, lúc này đây, sự việc cậu bé Rémi chỉ cần có người hỏi cặn kẽ thì lập tức sẽ nhận tội luôn, để mong chấm dứt sự khổ sở trong lòng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi, ăn năn. Trong ba quyển của Pierre Lemaitre xuất hiện ở VN thì Ba ngày và một đời là quyển có lẽ mờ nhạt, lỏng lẻo nhất; đầu tiên ở văn chương rời rạc, nhiều đoạn được viết gượng ép ngô nghê như một cây bút non tay, việc này gây thất vọng không nhỏ cho người đọc thích Pierre Lemaitre (như tôi, có lẽ khoảng viết về trận bão và mấy chục trang đoạn cuối là tôi thấy đúng chất Pierre Lemaitre); thứ nữa về nội dung nhàm chán, ề a, tiết tấu nhanh không ra nhanh, chậm rãi xoáy vào tâm lý tạo độ sâu cũng không, nó rất không phù hợp với độc giả quen đọc trinh thám cướp giết hiếp nhiều án mạng và hành động, thậm chí chắc chắn sẽ có người chê đây là một quyển trinh thám nhiều lỗi, phi lô gíc, gượng gạo. Nhưng tôi lại đặc biệt thích cái kết của nó, một cái kết như nhét kẻ trụy lạc vào đời sống khổ hạnh vậy, trừng phạt, trả giá, kỷ luật đôi khi chỉ cần mang hình bóng như cái kết này thôi đã là một hình thức chịu án khổ hình rồi vì không gì bằng toà án lương tâm. Với một số trường hợp người ta sống tốt hơn hay tu tập, không phải bởi tính bản thiện mà chỉ bởi có thể sống như vậy người ta mới cảm thấy được thanh thản, đẩy lùi được phần tối trong họ. Cái kết diễn ra nhanh và đột ngột trong 1-2 trang cuối, nó tạo một cú chuyển bất ngờ, một cảm giác lâu lắm rồi tôi mới có lại kể từ thời đọc Nghe mùi kết thúc của Julian Barnes cách đây 4 năm, nó gây nên chút chao đảo và ngay sau đó, cho tôi cảm giác dễ chịu như vòng tròn đã khép lại, ta quay trở về điểm xuất phát ban đầu. “Hình phạt mà anh phải chịu, vì tội ác anh từng phạm phải, không được hình thành từ những năm tháng ngồi tù, mà từ cả một cuộc đời anh đã kinh tởm từ trước, nó là tất cả những gì anh ghét cay ghét đắng, phải gần gũi những con người tầm thường, phải làm cái nghề mà anh yêu thích trong một hoàn cảnh mà anh căm thù. Hình phạt dành cho anh là như thế đó: chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình”. Bất kỳ điều gì bắt đầu, đều khởi sự một kết cục. Ta đã kích hoạt một kết thúc bắt đầu vận hành, như bật một công tắc. Và dù cơn bão nào có quét qua, thì tất cả rồi sẽ được thiết lập lại theo trật tự và cách riêng của nó. EMi Delicate Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Và Một Đời của tác giả Pierre Lemaitre & Phúc Chi Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Dâu Đen
Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản lần đầu năm 1940, là mốc son trong sự nghiệp cầm bút của Cornell Woolrich, khởi đầu cho danh tiếng tác giả “trinh thám đen” bậc thầy. Câu chuyện xoay quanh một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn ra tay mưu sát những đàn ông theo nhiều cách thức. Đâu đó trong thành phố, một gã đàn ông trước đấy hãy còn cảm thán về tương lai tươi sáng của mình thì ngay sau đó, cuộc đời gã kết thúc trong bi thảm. Bỏ lại kẻ xấu số sau lưng, CÔ DÂU ĐEN tiếp tục hành trình trả thù đẫm máu của mình, vẫn còn những cái tên phải gạch bỏ, vẫn còn những kẻ thù cần trừng phạt. Woolrich đưa nội tâm nhạy cảm và xu hướng bi quan của chính mình vào trong tác phẩm. Đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên không khí bất an và hồi hộp. Những câu văn mềm mại dẫn lối câu chuyện đến một kết cục đầy ngỡ ngàng. Phải chăng mọi sai lầm đều có thể sửa chữa và những mối hận thù có thể hoàn trả đầy đủ? *** Review Nguyễn Ngoc Nam: Cô Dâu Đen thuộc thể loại trinh thám đen, một thể loại mà lần đầu tiên tôi đọc, với bố cục sách khá là vừa tầm và dung lượng sách không quá nhiều thì việc ngốn nó trong khoảng thời gian ngắn là điều dễ dàng. Câu truyện bắt đầu bằng cái chết của nạn nhân đầu tiên khi anh ta đang trong một buổi tiệc với người vợ tương lai của mình. Tiếp theo đó là hàng loạt những cái chết đầy bí ẩn của những người đàn ông khác. Điểm chung của những vụ án mày mà đều liên quan đến một người phụ nữ xinh đẹp mặc đồ đen. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh hung thủ thực sự thú vị với sự biến hóa ngoại hình tài tình, cách nói chuyện đầy mê hoặc, quyến rũ. Nó tạo cho người đọc cảm giác chân thực đến nỗi nếu đặt chính tôi vào vị trí các nạn nhân thì có lẽ tôi sẽ cùng chung số phận với họ. Xuyên suốt quá trình đọc tôi thấy ấn tượng với cái chất hài mà tác giả mang lại, 1 cái hài rất đặc trưng của nền văn học thế kỷ trước. Điều làm nên sức cuốn hút, điểm nhấn, giá trị cho toàn bộ tác phẩm chính là cái cách mà hung thủ tiếp cận con mồi của mình: Công phu - Kiên nhẫn - Tàn độc. Như cách mà phụ nữ trừng phạt những kẻ làm tổn thương mình vậy. Và điều cuối cùng mà tôi muốn nói chính là truyện có nhiều lỗi chính tả và đánh máy làm người đọc cảm thấy khó chịu. Nxb và đv phát hành cần phải xem xét lại vấn đề này cho những tác phẩm xb tiếp theo. Qua truyện này tôi rút ra 6 điều: Thứ nhất, nấm đẹp là nấm độc. Đừng để nhan sắc đàn bà giết chết sự kiêu hãnh của người đàn ông. Thứ hai, đ' có cái gì là tự nhiên cả, tất cả đều có nguyên do của nó. Thứ ba, phụ nữ là những diễn viên xuất sắc. Thứ tư, đừng bao giờ chọc điên hay gây thù với phụ nữ vì bạn không biết họ sẽ làm gì sau đấy đâu ???? Thứ năm, phụ nữ là những người giỏi chịu đựng và rất chung thủy một khi đã yêu thật sự. Thứ sáu, trái tim của người phụ nữ thật sự rất mong manh. *** Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. Tác phẩm: Cô Dâu Đen Người Đàn Bà Trong Đêm Hạn Chót Lúc Bình Minh Điểm Hẹn Đen Đêm Ngàn Mắt Kết Hôn Với Người Chết Theo Em Vào Bóng Đêm Ám Ảnh Đen ... *** “Julie, Julie ơi!” Tiếng gọi bám theo người phụ nữ suốt bốn đợt cầu thang. Tiếng gọi đó là âm thanh mềm mại nhất mà cũng mạnh mẽ nhất mà đôi môi có thể phát ra được. Nhưng nó không khiến cô do dự, không ngập ngừng một bước. Khuôn mặt cô chỉ trắng bệch khi bước ra đón ánh mặt trời, chỉ thế thôi. Có một thiếu nữ đứng cạnh vali đợi cô ở cửa, dường như không tin vào mắt mình khi thấy cô bước tới, lòng phân vân không biết cô lấy đâu ra sức mạnh để vượt qua chuyện đó. Cô như đọc được suy nghĩ này, liền trả lời câu hỏi chưa thốt ra, “Mình từ biệt họ chẳng dễ dàng gì, họ cũng vậy. Có điều mình đã quen rồi, còn họ thì chưa. Mình đã có nhiều đêm dài khiến bản thân cứng rắn, còn họ mới chỉ một lần. Mình đã trải qua cả nghìn lần rồi.” Không hề đổi ngữ điệu, cô nói tiếp, “Bắt taxi thôi, có một chiếc đằng kia!” Người thiếu nữ nhìn cô dò hỏi khi chiếc xe chạy tới. “Ừ, cậu muốn thì tiễn mình cũng được. Bác tài, tới ga trung tâm nhé.” Cô không ngoái nhìn ngôi nhà, không ngoái nhìn con phố đang lùi dần phía sau. Cô cũng chẳng nhìn ra những con phố thân quen kế tiếp vốn là biểu trưng cho thành phố này, nơi cô lớn lên và trưởng thành. Ở quầy vé, họ phải chờ vì có người đã đến trước. Người thiếu nữ đứng bơ vơ một bên. “Cậu định đi đâu?” “Cũng chưa biết nữa. Mình chưa tính toán được gì cả.” Cô mở túi xách tay, chia cuộn tiền nhỏ làm hai phần không đều nhau, cầm lấy phần nhỏ hơn. Cô bước tới cửa bán vé, đẩy tiền vào. “Chỗ này đủ cho tôi đi bao xa, chuyến trong ngày ấy?” “Ngần này đủ cho cô đến Chicago. Còn thừa chín mươi xu.” “Thế thì cho tôi vé một chiều.” Cô quay lại với người thiếu nữ. “Giờ cậu về nói với họ như vậy nhé.” “Nếu cậu không muốn thì mình sẽ không tiết lộ đâu, Julie à.” “Có sao đâu. Tên của một nơi nào đó có quan trọng gì khi mình một đi không trở lại?” Hai người ngồi trong phòng chờ một lúc, rồi đi xuống phía đường tàu, đứng ở cửa ra chờ tiếp. “Hôn tạm biệt nào, như bọn mình thường làm hồi bé ấy.” Môi họ chạm nhẹ. “Đúng rồi.” “Julie ơi, mình biết nói gì bây giờ?” “Cứ nói ‘vĩnh biệt’ thôi. Trong cuộc đời này, người ta còn gì để nói với nhau nữa cơ chứ?” “Julie yêu quý, mình hi vọng sẽ sớm gặp lại cậu.” “Không bao giờ đâu.”   Sân ga lướt về phía sau. Con tàu lao qua một hầm dài rồi lại ngoi lên trong ánh nắng, lăn bánh trên những trụ cầu cao ngang với tầng trên của những tòa chung cư, những con phố lướt qua như những khe hẹp trên hàng rào. Đoàn tàu chạy chậm lại trước cả khi nó đạt vận tốc tối đa. “Phố Hai Lăm”, tiếng người soát vé vang trong toa. Người phụ nữ quyết tâm ra đi này với lấy chiếc vali, đứng lên, bước giữa hai hàng ghế như thể đây là trạm cuối của hành trình chứ không phải điểm khởi đầu. Cô đứng chờ sẵn ở cửa khi tàu dừng. Cô bước ra ngoài, đi dọc sân ga tới cổng, men theo cầu thang ra phố. Cô mua một tờ báo ở quầy tại phòng chờ, chọn một cái ghế ngồi xuống, lật trang cuối ra xem phần rao vặt. Cô cuộn tờ báo lại cho vừa rồi lấy ngón tay dò theo cột có tựa Phòng đủ tiện nghi. Ngón tay dừng ngẫu nhiên ở một cái tên mà cô chả buồn để ý xem những tiện nghi kèm theo là gì. Móng tay cô bấm sâu vào giấy để đánh dấu vị trí. Cô kẹp tờ báo vào nách, nhấc va li rồi ra ngoài gọi taxi. “Đưa tôi tới chỗ này. Đây.” Cô đưa tờ báo cho tài xế.   Bà chủ nhà lặng lẽ đứng chờ cô quyết định, cửa phòng vẫn mở. Cô quay lại nói với bà ta. “Tôi thấy chỗ này phù hợp rồi. Tôi sẽ trả tiền ngay cho hai tuần đầu.” Bà chủ nhà đếm tiền xong mới viết giấy biên nhận. “Cô tên gì?” Bà ta ngước lên hỏi. Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Đen của tác giả Cornell Woolrich.
Công Lý & Báo Thù
Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.
Cốt Tủy
“Trong khu phố Bone có một ngôi nhà Trong ngôi nhà có một cô gái Trong cô gái là bóng tối ngự đầy...” Tại sao chúng ta lại thích đọc tiểu thuyết về tội phạm, xem các chương trình truyền hình tội phạm và những điều tương tự. Chúng ta tìm hiểu cách thức họ gây án? Động cơ gây án là gì? Tất cả bởi vì chúng ta muốn muốn hiểu họ; tại sao họ lại có "hành động" khác với chúng ta. Những kẻ tội phạm - Bản thân họ sinh ra đã mang "mầm ác" hay do hoàn cảnh, xã hội đưa đẩy? Tarryn Fisher là một trong những tác giả Best-seller. Cô là một bậc thầy về những nhân vật hư hỏng về mặt đạo đức và làm cho chúng ta suy nghĩ về vẻ đẹp trong "bóng tối". Cốt tủy (tên gốc tiếng Anh là “Marrow”) là một trong những câu chuyện về vẻ đẹp bên trong xấu xí. Nhân vật chính của tác phẩm là Margo - cô gái sinh ra và lớn lên ở khu phố nghèo nàn, trong ngôi nhà "hố đen của sự sống". Lặng lẽ ngủ yên trong từng ống xương, ngày qua ngày, “cốt tủy” chưa một lần lên tiếng, chỉ âm thầm đồng hành cùng cô gái ấy - Margo Moon -qua những ngày buồn thảm ở khu Bone (Xương), trong ngôi nhà “hố đen sự sống”, cùng người mẹ loạn thần, đàng điếm và vô cảm. Thật khó có thể nói Cốt tủy là hành trình "tha hóa tâm hồn" hay "thăng hoa tâm hồn". Cuốn sách giống như một bộ phim hình sự. Nửa đầu, tĩnh lặng đến đáng sợ, tĩnh lặng trong những suy nghĩ miên man của cô gái nhút nhát, nghĩ rằng cô ấy không quan trọng. Nhưng nửa sau, khi đã nắm trong tay số phận của chính mình, mạch truyện trở nên dồn dập và nhanh hơn. Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra giữa "khúc cua" ấy? Với Cốt tủy, người đọc như đang chứng kiến những điều từ phía bên kia của luật pháp. Một cuốn tiểu thuyết chạm đến tận cùng "góc tối" của con người. Một cuốn tiểu thuyết vừa lạnh lẽo, vừa thơ mộng đến "xảo quyệt". Quyến rũ nhưng cũng rất nguy hiểm. Thế nào là sai? Thế nào là đúng? Một cuốn tiểu thuyết sẽ khiến bạn phải day dứt, đau đến tận cốt tủy. Nếu bạn thích tham gia một cuộc hành trình ở góc tối của tâm hồn, có lẽ bạn sẽ thích cuốn sách này! *** MỖI VIÊN NGỌC TRAI ĐƯỢC HÌNH THÀNH NÊN TỪ MỘT MẢNH VỤN - đó là thứ vô dụng như một mẩu gốm hay bụi bẩn tình cờ lọt vào cơ thể con trai. Theo bản năng, để tự chữa lành vết thương, con trai sẽ sinh ra phản ứng tự vệ, tạo ra một chất trơn, cứng và sáng bóng bao bọc lấy dị vật. Chất này được gọi là “xà cừ”. Một khi vẫn còn nằm trong cơ thể con trai, dị vật sẽ luôn được phủ trong lớp xà cừ đẹp đẽ. Tôi vẫn luôn cho rằng con trai thật phi thường khi bao bọc lấy thứ làm đau mình bằng chính phần tinh túy nhất của bản thân. So với kim cương - loại đá quý đắt đỏ và quý hiếm được người đời khao khát, ngưỡng vọng, những viên ngọc trai có phần lép vế hơn. Chúng sinh ra thật khiêm nhường khi ban đầu chỉ là những vật ký sinh nhỏ bé bám vào cơ thể vật chủ, ngày ngày được chính vật chủ nuôi dưỡng và trở nên đẹp đẽ. Sự hình thành ngọc trai từ mảnh vụn thật kỳ diệu. Những câu chuyện quý báu cũng thường được tạo nên từ những điều tầm thường như thế. *** Năm 13 tuổi CÓ MỘT NGÔI NHÀ TRONG KHU XƯƠNG. Ngôi nhà ấy có một cánh cửa sổ vỡ. Chỗ vỡ được che bằng giấy báo dán băng dính chằng chịt ở bốn góc. Lớp ván gỗ ốp tường chống đỡ phần mái xập xệ, lõm xuống như da thịt người già, như thể phải chống đỡ sức nặng của cả trái đất vậy. Đó là ngôi nhà nơi tôi sống cùng với mẹ, chịu đựng mưa gió, chịu đựng sự đè nén. Tôi gọi nó là “hố đen sự sống”, vì nếu không chống cự lại, ngôi nhà này sẽ xâu xé bất kỳ ai bước vào trong. Như nó đã làm thế với mẹ tôi. Và như nó đang cố cắn xé cả tôi. “Margo, cầm cho mẹ cái khăn tắm.” Tên tôi được xướng lên cùng với lời sai bảo. Tôi vâng lệnh. Rõ ràng không thể gọi đây là cái khăn tắm được. Trông nó chẳng khác gì cái giẻ cũ kỹ vì dùng quá lâu ngày và đã bạc màu vì phải lau chùi quá nhiều thứ bẩn thỉu. Mẹ lấy cái khăn từ tay tôi mà chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái. Ngón tay mẹ rất thon thả, móng tay sơn màu đen được cắt tỉa gọn gàng. Mẹ luồn khăn vào giữa hai chân và lau thật mạnh. Tôi ái ngại quay mặt đi để mẹ được riêng tư một chút. Chỉ khi không có những ánh mắt dòm ngó, người ta mới được riêng tư trong ngôi nhà này. Lúc nào cũng có những kẻ - chủ yếu là đàn ông - núp xung quanh cửa và hành lang nhìn vào với ánh mắt hau háu thèm muốn. Chỉ cần được phép là mấy kẻ đó ngay lập tức lao vào. Đấy là nếu họ được phép. Nhưng tôi không đời nào làm thế. Mẹ tôi bước ra khỏi bồn tắm và cầm lấy cái khăn mặt trong tay tôi. Ngôi nhà lúc nào cũng bốc mùi ẩm mốc và hôi thối, nhưng trong vòng một tiếng sau khi mẹ tắm, nó sẽ phảng phất mùi muối tắm của mẹ. “Margo, lấy cho mẹ cái áo choàng.” Tên tôi lại được xướng lên cùng với câu ra lệnh. Mẹ tôi rất ghét phải tắm một mình. Mẹ kể với tôi rằng bà ngoại từng cố dìm chết mẹ trong bồn tắm khi mẹ còn nhỏ. Đến bây giờ mẹ tôi vẫn bị ám ảnh vì chuyện đó. Ban đêm, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng mẹ rên rỉ trong khi mơ màng ngủ: Đừng mẹ ơi! Tôi không biết gì về bà ngoại mình. Sau lần suýt chết ấy, mẹ tôi được đưa vào Trung tâm bảo trợ trẻ em. Mẹ tôi gọi nơi đó là một cơn ác mộng. Đúng lúc mẹ tôi được chấp nhận vào trại thì bà ngoại tôi qua đời vì lên cơn đau tim dữ dội và để lại cho đứa con gái duy nhất ngôi nhà này - chính là “hố đen sự sống”. Trong khi mẹ soi gương, tôi trải chiếc áo choàng đỏ mềm mại của mẹ ra. Tôi có nhiệm vụ giặt là nó hai lần một tuần và luôn làm thật cẩn thận vì chiếc áo này là tài sản quý giá nhất của mẹ. Mẹ tôi là người phụ nữ đẹp. Vẻ đẹp dữ dội sánh ngang với bão tố. Mẹ phóng túng và mạnh mẽ. Dường như Chúa đã trao cho mẹ quyền năng khủng khiếp để phá hủy mọi thứ mỗi lần mẹ nổi cơn thịnh nộ. Chúng tôi cùng chiêm ngưỡng hình ảnh mẹ trong gương suốt mấy phút. Tôi dõi mắt theo những ngón tay mẹ đang kiểm tra từng nếp nhăn trên mặt. Đây là “thủ tục” mà chiều nào mẹ cũng làm trước khi bắt tay vào việc khác. Mẹ lấy mấy tuýp kem nhỏ tôi mua cho mẹ ở hiệu thuốc ra bày trên mặt chậu rửa sứt sẹo, rồi lần lượt chấm từng loại kem lên vùng da quanh miệng và mắt. “Margo”, mẹ gọi tôi. Tôi nín thở chờ lệnh. Nhìn tôi đứng lấp ló đằng sau, mẹ nói, “Trông mày khó coi quá. Ít nhất cũng phải giảm cân đi chứ. Mặt không xinh thì dáng người phải hấp dẫn.” Để mang thân đi bán như mẹ sao? “Con sẽ cố ạ.” Việc của tôi là phục tùng. “Margo, mày đi được rồi đấy. Nhớ ở yên trong phòng.” Tên tôi vang lên kèm theo hai câu mệnh lệnh. Đúng là được đối xử đặc biệt! Tôi đi giật lùi khỏi nhà tắm để tránh bị đập hay ném đồ vào đầu. Nếu không uống thuốc, mẹ tôi có thể trở nên vô cùng dữ tợn. Chẳng ai lường trước được khi nào mẹ lên cơn điên. Thỉnh thoảng tôi lại lén vào phòng mẹ đếm xem có bao nhiêu viên thuốc, để biết mình còn được sống yên ổn bao nhiêu ngày nữa. “Margo!” Đúng lúc tôi sắp ra đến cửa thì mẹ gọi giật lại. “Dạ, mẹ?” Tôi hỏi như thì thầm. “Tối nay mày không cần ăn cơm đâu.” Nghe có vẻ dễ chịu nhưng thực chất ý mẹ là, “Tối nay mẹ không cho mày ăn đâu.” Không sao hết. Tôi đã tự tích trữ đồ ăn rồi, dù sao trong chạn cũng không có đồ gì ăn được. Tôi đi về phòng mình. Tôi nghe tiếng mẹ khóa cửa rồi bỏ chìa khóa vào túi. Ngoài cửa chính thì trong nhà chỉ có cửa phòng tôi là khóa được. Mẹ lắp cửa phòng tôi từ mấy năm trước. Lúc đầu tôi cứ tưởng mẹ làm thế để giữ an toàn cho tôi, nhưng sau đó tôi phát hiện ra mẹ cất giữ tiền ngay dưới ván sàn phòng tôi. Ngay dưới chân tôi là cả kho báu của mẹ. Mẹ tôi không mua quần áo, ô tô hay đồ ăn, mà lại tích trữ hết tiền ở đây. Tôi thường lấy vài đồng để mua đồ ăn. Chắc là mẹ cũng biết vì thực chất tôi vẫn sống khỏe, lại còn béo tốt nữa. Tôi ngồi bệt xuống sàn, lôi từ gầm giường ra một cái hộp rồi khẽ lấy ra một quả chuối và hai lát bánh mì, cố để mẹ tôi không nghe thấy tiếng giấy gói sột soạt. Quả chuối đã chín đen, vỏ dính nhớp nháp, bánh mì cũng sắp hỏng nhưng vẫn còn ăn được. Tôi cấu mấy miếng bánh mì, vê tròn lại rồi ăn, trong đầu tưởng tượng như đang dự tiệc Thánh vậy. Bạn tôi là Destiny đã được tham dự lễ ban Thánh thể đầu tiên. Cô ấy kể rằng linh mục sẽ đút một miếng bánh mì dẹt vào miệng người chịu lễ. Miếng bánh mì sẽ tượng trưng cho xác thịt của Chúa Jesu. Phải chờ “thân thể Chúa Jesu” tan ra thì mới được nuốt xuống, vì không được cắn vào xác thịt của Người. Sau đó còn phải uống cả “máu Chúa” nữa. Tôi không biết gì về Chúa Jesu hay lý do vì sao lại phải làm như vậy thì mới trở thành giáo dân, nhưng tôi thấy thà giả vờ đang ăn xác thịt Chúa vẫn tuyệt hơn là ăn bánh mì sắp mốc hỏng. Ăn tối xong, tôi nghe thấy có tiếng chân nện huỳnh huỵch và sàn nhà kêu kẽo kẹt. Là tiếng chân ai? Phải chăng là người đàn ông cao lớn có đám lông xoăn rậm rạp màu xám trước ngực? Mà cũng có thể là cái gã ho dữ dội đến mức làm rung cả giường của mẹ. “Là bệnh bạch hầu”, tôi tự độc thoại với cái vỏ chuối mềm oặt. Tôi đã đọc về bệnh này trong một cuốn sách mà tôi đăng ký mượn liên tục ở thư viện vì không muốn trả lại. Tôi ăn một cái bánh Honey Bun rồi lục cặp rút cuốn sách ra, vừa xem tranh vừa liếm mấy ngón tay dính đồ ngọt. Lúc nghe thấy tiếng tấm ván đầu giường của mẹ va kẽo kẹt vào tường, tôi lại ăn một cái bánh nữa. Chẳng mấy chốc tôi sẽ thành đứa béo phì nếu còn sống trong “hố đen sự sống” này. Chừng nào ngôi nhà còn ăn dần ăn mòn chính bản thân tôi.   Mời các bạn đón đọc Cốt Tủy của tác giả Tarryn Fisher.
Mẹ Đã Sai Rồi
“Tôi có nhiều mẹ. Đối với tôi, chuyện này hơi phức tạp. Nhất là vì họ không thực sự yêu thương nhau. Thậm chí một người còn sắp chết. Phải chăng phần nào là do lỗi của tôi? Phải chăng mọi chuyện xảy ra là tại tôi? Bởi lẽ tôi không nhớ được mẹ nào mới là mẹ thật." Không có gì ngắn ngủi như trí nhớ của một đứa trẻ, nhất là khi đứa trẻ đó mới ba tuổi rưỡi. Không ai tin Malone khi cậu khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật, ngoại trừ bác sĩ tâm lý Vasile, người duy nhất tìm cách khám phá ra sự thật, trước khi các kí ức mong manh của Malone bị xóa nhòa theo thời gian. Một cuộc chạy đua gấp gáp. Trước khi mọi sự đảo lộn. Trước khi tất cả các miếng ghép được xếp vào đúng chỗ. Trước khi những chiếc mặt nạ bị lột bỏ. Malone thực sự là ai? “Bussi liên tục đưa ra những hướng điều tra, xáo trộn các manh mối, đùa giỡn với ảo giác và những bề ngoài đầy lừa mị. Quả là một bậc thầy trong nghệ thuật đánh lừa. - ELLE *** Review Linh Lee:   Malone - một cậu nhóc 3 tuổi đã dứt khoát khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật. Trí óc non nớt và những ký ức mong manh như khu rừng yêu tinh, tên lửa hay toà lâu đài nhìn ra biển với một con thuyền đắm gãy đôi về cuộc sống trước kia cùng Mẹ thật khiến không một ai tin lời Malone - họ cho rằng đó đơn thuần chỉ là thế giới tưởng tượng sinh động của cậu nhóc 3 tuổi, chỉ trừ anh chàng bác sĩ tâm lý Vasile, người quyết tâm chạy đua với những ký ức bí ẩn ấy để tìm ra sự thật đằng sau những lời nói của đứa trẻ. Đồng hành cùng anh là cô thiếu tá Marianne - một người phụ nữ 40 tuổi, chưa chồng cũng chẳng tình nhân, một nữ thiếu tá quyết đoán trong công việc nhưng cô vẫn mang trong mình giấc mơ hạnh phúc yên ổn với một đứa con, một gia đình. Trước lời nhờ cậy của Vasile, cô chấp nhận tìm ra chân tướng sự thật sau những bức tranh hay câu chuyện của Malone. Cùng lúc đó chính bản thân Marianne đang săn đuổi theo một tên tội phạm đã gây ra vụ cướp nữ trang nhiều tháng trước mà cảnh sát vẫn chưa tóm gọn được. Hai hay thậm chí ba, bốn vụ án chồng chéo nhau tưởng như tách biệt lại chính là những ghép vừa vặn tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh, dẫn tới chìa khoá giải đáp bí ẩn mang tên Mẹ thật của cậu nhóc 3 tuổi. Mạch truyện ổn định, logic chặt chẽ, dẫn dắt người đọc theo dòng ký ức và khiến người đọc sống trong những suy nghĩ và câu chuyện của Malone. Michel Bussi đã thể hiện xuyên suốt được yếu tố psychological đan xem trinh thám trong cả câu chuyện. Ngoài ra, Mẹ đã sai rồi còn có thêm một chút yếu tố thriller được thể hiện qua ý nghĩ của cậu nhóc Malone nên đọc buổi đêm yếu tim có hơi rờn rợn tí. Điểm trừ là bìa sách, dù nhìn thoáng qua rất ổn nhưng 'hơi sai sai' so với nội dung truyện, con thú bông của cậu nhóc là Gouti - con chuột chứ không phải là con gấu bông. Ngoài chi tiết đó thì nhìn chung là rất ổn. Hơi thắc mắc vì không nhiều người biết cuốn nè. 3.8/5. *** Review Nhã Nguyễn: ”Khi bạn nói dối đủ lớn và đủ nhiều thì đó là sự thật”? Một đứa trẻ hơn ba tuổi khăng khăng rằng cha mẹ hiện tại không phải cha mẹ thật của nó, bởi vì con thú bông loài gặm nhấm của cậu kể cho cậu nghe như vậy. Một vụ cướp ngân hàng diễn ra từ nhiều tháng trước mà quá trình điều tra đang đến giai đoạn nước rút. Một chàng bác sĩ tâm lý học đường điển trai, người duy nhất tin lời của cậu bé. Một cô thiếu tá “lỡ thì” bị cuốn vào hai vụ án diễn ra song song (vì anh bác sĩ đeo bám cô không ngừng). Và cuối cùng, một nhân vật bí ẩn, mấu chốt của vấn đề, một bộ óc tính toán đến mức tinh vi (và nhờ đôi chút may mắn?). Tất cả đã đủ cuốn hút bạn chưa, với một cuốn tiểu thuyết trinh thám đến từ nước Pháp? Như đã nói ở trên, tác phẩm này gồm hai vụ án được điều tra độc lập cùng lúc với nhau, và dĩ nhiên, tôi bị hút hơn vào vụ án của cậu bé Malone, với bí ẩn của cậu, rằng những câu chuyện mà cậu kể có là thật, dù mang ít nhiều hoang đường? Chàng bác sĩ tâm lý đã khẳng định rằng trí nhớ của một đứa trẻ ở độ tuổi này có thể dễ dàng mất đi chỉ sau vài tuần, vài tháng, và những ký ức mà ta còn lưu giữ lại vào khoảng thời gian đó khi lớn lên thực chất không phải ký ức trực tiếp, vậy vì sao Malone có thể nhớ và kể lại những câu chuyện ấy suốt một thời gian dài mà không hề quên nó đi? Cái con thú bông loài gặm nhấm đó liên quan gì đến tất cả chuyện này? Bên cạnh vụ án của Malone, quá trình đuổi bắt tên cướp ngân hàng cũng khá là hấp dẫn. Vì sao mỗi khi cảnh sát đuổi đến sát nút, hắn lại có thể biến mất tài tình đến vậy, trong khi đang bị trọng thương? Hồi hộp, gay cấn đến những trang cuối cùng, một số bất ngờ cài cắm đúng lúc xuyên suốt tác phẩm, đây thực sự là một cuốn sách rất đáng đọc. Điểm trừ nhẹ có lẽ là một số đoạn tả cảnh tả tình hơi dài dòng và lãng mạn hóa (có lẽ là theo kiểu Pháp?), và quý cô Marianne hoàn toàn vẫn có thể là một cô gái độc thân kiêu hãnh cơ mà? Điều đầu tiên tôi thích ở tiểu thuyết này đó là đây không phải câu chuyện tôn vinh chỉ một người hùng đơn lẻ. Vụ án được phá không chỉ bởi công sức của cô cảnh sát Marianne, mà nó là sự đóng góp từ giả thiết của bác sĩ Vasile, linh cảm hợp lý của cảnh sát sắp về hưu Papy và những suy luận rất đúng thời điểm của chàng cảnh sát cấp dưới. Điều thứ hai tôi thích hơn nữa, đó là những câu chuyện của Gouti kể cho Malone rải rác suốt tác phẩm, những câu chuyện tưởng chừng cho trẻ con nhưng chứa đựng những triết lý mà người lớn cũng phải suy ngẫm. “Khi con còn nhỏ thì thật khó mà hiểu được, nhưng con hãy lắng nghe cho kỹ. Ai đó mà ta yêu thương, đôi khi phải dám để cho họ đi xa. Hoặc biết chờ đợi thật lâu. Đó là bằng chứng đích thực của tình yêu, có lẽ là bằng chứng duy nhất” - câu chuyện của Gouti. Khi đọc hết tác phẩm này rồi, ngồi ngẫm nghĩ lại, có lẽ bạn sẽ thấm thía nó hơn, tôi nghĩ nó ít nhiều có liên quan đến toàn bộ nội dung tác phẩm đấy. SPOIL NHẸ (dành cho bạn nào đọc rồi). Cá nhân mình thấy cả kế hoạch có những điểm phụ thuộc quá nhiều vào may mắn (ví dụ tình tiết người mẹ tìm thấy tấm vé máy bay, hay tình tiết Marianne hiểu ra toàn bộ vấn đề ở cuối truyện). Kết thúc chuyện tình cảm ở cuối cùng cũng khá là khiên cưỡng, giống như muốn Marianne hết kiếp gái ế vậy =.=. Ngoài ra vụ con thú bông biết nói, bạn nào hay đọc Reddit chắc lờ mờ đoán ra được rồi. *** Michel Bussi là một tác giả người Pháp, được biết đến với việc viết tiểu thuyết ly kỳ, đồng thời là nhà phân tích chính trị và Giáo sư Địa lý tại Đại học Rouen, nơi ông lãnh đạo một Cơ sở Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Công cộng tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, nơi ông là chuyên gia về địa lý bầu cử. Tác phẩm: Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Xin Đừng Buông Tay ... Mời các bạn đón đọc Mẹ Đã Sai Rồi của tác giả Michel Bussi.