Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

The Joker - Phan Hồn Nhiên

Sau cái chết đột ngột của người bạn gái, Huy cảm thấy vô cùng bất an và nghi vấn, anh quyết định dấn thân tìm sự thật. Bắt đầu từ những manh mối nhỏ nhất, bằng sự khéo léo và kiên định, Huy đã khám phá những bí mật đằng sau cái chết và những uẩn khúc trong cuộc đời bất hạnh của cô gái. "The Joker" là cuộc "rượt đuổi" căng thẳng về trí tuệ giữa các nhân vật. Đó cũng là một thể nghiệm viết mới của nhà văn Phan Hồn Nhiên: giải mã những bí mật tâm lý để qua đó hình thành một câu chuyện ly kỳ, gay cấn... *** - Ổn cả chứ? Chốc nữa, anh có cần tôi đưa lên nhà không? - Tôi sẽ tự đi được! - Huy lẩm bẩm, như thể đang nói với một người xa lạ, không liên quan, chứ chẳng phải kẻ đã ra tay nện mình nhừ tử. Luồng khí lạnh từ máy điều hòa chiếu thẳng vào ngực áo lấm ướt khiến anh run nhẹ, đề nghị - Nếu tăng nhiệt độ lên một chút thì tốt! Hơn 12 giờ đêm. Những xe tải và container chở hàng như bầy thú khổng lồ nối nhau kéo vào thành phố. Đoạn rẽ ở một ngã ba, xe đổ vào càng đông đúc. Phát lái chậm hẳn, giữ chiếc xe nhỏ chạy với tốc độ 50km/h. Thảng hoặc, Huy ngỡ như có một bóng người đang kiên trì bám theo, cố gắng nhìn anh qua cửa kính. Nhưng, chỉ là vài vệt đèn sáng từ chiếc xe nào đó lướt nhanh trên cánh cửa phía bên anh ngồi. - Đôi khi tôi lại hành động như một kẻ mất kiểm soát. Nói theo kiểu của Minh, là dấu vết của tuổi niên thiếu bị bỏ mặc, lạc lõng và mất phương hướng - Phát giải thích chầm chậm, đột nhiên mỉm cười. Nụ cười biến gương mặt anh ta thành cái đầu sọ kiệt sức, nỗ lực bày tỏ xúc cảm cuối cùng - Nhưng, giá như anh đừng dò xét, đừng bới tung những thứ đã được sắp xếp đúng chỗ, thì tôi không tốn công sức gây ra những rắc rối như thế này đâu... Mắt vẫn mở to, nhìn thẳng về phía trước, Huy im lặng. Gương mặt anh cứng đờ. Các khối cơ tê dại. Lớp da trên mặt đã biến mất, trở thành cái mặt nạ trơ lỳ, bất động. Toàn bộ con người anh chia làm hai phần rõ rệt. Phần thân thể nhức nhối, bị sợi dây bảo hiểm ràng qua ngực như sắp thắt chặt buồng phổi. Vai và gáy anh đau đến mức tựa nhẹ vào lòng ghế da mềm cũng trở thành cực hình. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, đầu óc anh vô cùng sáng suốt. Đến mức mọi hình ảnh, từ ngữ khi dội đến đều hiện ra với ý nghĩa thật của nó. Bàn tay với những ngón tay dài mảnh đặt hờ trên vô-lăng, Phát vẫn nói, giọng đều đều, không ngưng nghỉ. Dường như anh ta chỉ chờ đến lúc này đây, chọn chính kẻ mà anh vừa bạo hành, không còn sức cựa quậy, để phơi bày một góc sự thật con người anh ta bấy lâu nay giấu kín: Một cậu con trai hời hợt. Các mong muốn dễ dàng được đáp ứng. Những ngày tháng sống nhàn tản, chẳng buồn bận tâm bất cứ điều gì bên ngoài bản thân. Rồi Minh xuất hiện, trong thời gian ngắn ngủi bẻ ngoặt chuỗi niềm tin ngây thơ trong đầu anh ta qua một hướng khác. Phát hiện về một thứ cảm xúc lớn lao mà cô ta có thể đem tới, lớn hơn cả dục vọng. Nó gần giống như sự che chở của một người mẹ, thứ tình cảm anh ta không biết đến từ khi còn nhỏ. Nhưng những ngày đẹp đẽ ấy không kéo dài. Sau đó, một vài xung đột tầm thường của hai người yêu nhau cứ liên tục kéo đến, không sao kiểm soát. Cái chết tình cờ của cô gái quỷ quyệt ấy khiến anh ta sợ hãi, nhưng cũng thật nhẹ nhõm khi ngỡ rằng đã được giải thoát hoàn toàn... Quá nhiều ngôn từ. Quá nhiều hành động không rõ mục đích. Hồ như tất cả những con người chung quanh đều nỗ lực chuyển động. Chuyển động cuồng loạn mà cũng không dám đoan chắc đích đến. Mỗi kẻ hành động đều có lý do chết tiệt nào đó. Không ai quan tâm ai cả. Và rốt cuộc, điều cuối cùng mà người ta có thể nhận ra, như Huy lúc này nhận ra, là quá nhiều thương tổn thương không thể cứu chữa được nữa. Cơn mưa li ti rơi xuống, không tiếng động. Tránh chiếc xe du lịch ngược chiều phóng như điên, cỗ xe tải ở ngay phía trước xe của Phát đánh mạnh tay lái về bên phải. Đám đất cát chất cao có ngọn trong thùng xe chuồi xuống một góc, tung tóe thành lớp bụi đỏ dày đặc, bao phủ đoạn đường phía sau. Bụi và nước mưa mau chóng biến thành lớp bột nhão loang lổ trên lớp kính. Trái với phán đoán của Huy, người điều khiển xe bỗng nhiên tăng tốc đột ngột. Như một con vật mù lòa điên cuồng, cỗ xe nhỏ màu đen lao về phía trước, lách giữa khoảng đường hẹp hiện ra lờ mờ giữa hai làn đường. Trong tích tắc, Huy thấy đuôi chiếc container xám bạc hiển hiện sát ngay trước mặt. Chỉ một phần mười giây thôi, cả chiếc xe con sẽ trôi tuồn tuột, lọt thỏm vào dưới gầm xe, chắc chắn. Đúng khi tấm kính trước mặt họ chỉ cách cạnh dưới của cái hộp sắt khổng lồ chưa đầy nửa mét, Phát đạp thắng, đột ngột. Nếu không có dây bảo hiểm, cả cơ thể Huy đã vọt thốc về phía trước, xuyên qua kính như một viên đạn. Cái cảm giác vừa tiếp xúc với cái chết, quá gần, khiến Huy buồn nôn kinh khủng. Để trấn áp nó, anh ngoảnh sang người bên cạnh, hỏi thẳng: - Anh làm gì vậy? - Anh đã nếm được cảm giác khiếp hãi thật sự, đúng không? Giống hệt như cảm giác anh đã gây ra, khi dai dẳng bám theo tôi, hỏi han về nguyên nhân cái chết của Minh. - Nếu anh không liên quan trực tiếp vụ việc đó, vì lẽ gì nó ám ảnh, khiến anh phải tốn quá nhiều mưu mẹo? - Huy lạnh nhạt. - Anh muốn tôi nhắc lại sự thật bao nhiêu lần nữa đây? - Người cầm lái nhếch môi. Dù anh ta tỏ ra hờ hững nhất, thì Huy vẫn cảm thấy anh ta đang tìm cách che đậy một thứ gì đó, mơ hồ, nhưng không phải không có thật. Đèn đỏ. Dòng xe dừng hẳn. Bảng hiệu giao thông vươn ra tận giữa lòng đường. Các vệt đèn điện tử hắt xuống chùm tia màu đỏ sẫm, vuông góc với lớp kính chắn gió. Chúng kết hợp với bùn đất và nước mưa loang lổ trên kính như một thứ máu đặc sánh ri rỉ. Bấm nút điều khiển cần gạt, các ngón tay Phát vuốt nhẹ gương mặt hốc hác: - Tôi căm ghét Minh. Căm ghét các trò diễn quái quỷ của cô ta. Căm ghét tình thế lố bịch cô ta đẩy tôi vào. Cô ta lấy đi của tôi tất cả những gì tôi từng tin là đáng giá nhất. Tôi ngáng đường anh, vì tôi không muốn chung quanh biết được bí mật tồi tệ giữa tôi và cô gái ấy. Sự thật chỉ có vậy. Anh hài lòng rồi chứ? - Quỳnh thì sao? Anh từng gặp gỡ cô ta, đúng không? - Đúng. Nhưng chẳng có gì đáng kể. Tôi bám theo cô ta, để hỏi thăm và gắng liên lạc với Minh. Nhưng cô ta lại ra sức bảo vệ chị họ. Một cô gái cứng đầu. Trò thách thức của cô ta cũng đáng căm ghét như thái độ tự phụ của chị họ cô ta vậy! - Được rồi. Bây giờ thì cho tôi biết rõ hơn một chút về bí mật tồi tệ giữa anh và Minh đi! Nhưng Phát không nói gì nữa. Suốt quãng đường còn lại, anh ta hoàn toàn chú mục vào tay lái. Chiếc xe lướt trên mặt đường nhựa trơn mượt, lao về phía đầu kia thành phố. Huy nhắm mắt, thở nhẹ. Bằng trực giác, đột nhiên, anh nhận ra người ngồi cạnh bên đang khóc. Không có âm thanh nào. Đơn giản là nước mắt ứa ra, ràn rụa, không cách gì ngăn lại. Điều hòa không khí trong xe tắt. Cửa kính hai bên cửa hạ xuống. Gió đêm thốc vào. Lạnh. Mạnh. Trong sạch. Xe dừng dưới chân chung cư Huy sống. Họ vẫn ngồi im trong xe, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng biệt. Cả hai đều biết rõ, câu hỏi và câu trả lời buộc phải đưa ra, nếu một trong hai người lên tiếng đề cập. Nhưng, Huy hiểu, tốt nhất là không nói thêm gì nữa. Đừng mong thông tin kiếm được dễ dàng từ miệng kẻ khác. Nếu có được, cũng chỉ là thứ tin tức sai lạc. Cuối cùng, người ta chỉ có thể trông cậy vào chính bản thân mình. Tháo dây bảo hiểm, anh đưa tay kéo chốt cửa. Ánh đèn vàng bật sáng tức khắc nhúng mọi thứ trong xe vào dòng sáng hổ phách. Gương mặt đã khô lạnh của Phát hướng thẳng về Huy. Con ngươi trong mắt anh ta giãn rộng. Không phải là vẻ ân hận, mà là sự bàng hoàng kinh sợ không sao hiểu nổi. Rồi anh ta mấp máy môi, thì thào, như nói với chính mình: "Bỏ qua hết đi... Vì tất cả chúng ta đều cô độc!". Tình thế kỳ dị. Không tìm được câu hỏi nào khả dĩ, Huy nhặt chiếc phong bì vàng, lẳng lặng xoay lưng. Ngay khi đế giày mềm chạm xuống mặt đường, một phản chiếu thoáng qua trong kính chiếu hậu khiến anh tê dại. Huy đã hiểu, vì sao Phát lại khiếp sợ như thế khi nhìn rõ mặt anh. Toàn bộ gương mặt anh giờ đây là hình ảnh lặp lại của một hình ảnh có sẵn. The Joker. Suốt phần còn lại của đêm, Huy ngồi trước máy tính. Anh mở chiếc phong bì, xem kỹ các chi tiết cần chỉnh sửa, sau đó bắt tay vào các việc cần làm. Càng vẽ, đầu óc anh càng tỉnh táo. Trong khi chỉnh các đường viền mới cho lưng chiếc ghế gỗ, anh nhìn thấy lại mối quan hệ giữa Minh và Quỳnh. Thoạt đầu là sự trấn áp. Con thú tinh ranh và trải nghiệm dẫn dắt con thú nhỏ hơn, khờ khạo hơn bước theo con đường nó đã đi qua. Tuy nhiên, vào lúc không ngờ nhất, con thú nhỏ đã chống cự, vùng chạy. Vì dù yếu ớt và sợ hãi, nó vẫn biết rõ nó sẽ phải đi con đường của riêng mình. Đây chính là lời giải tốt nhất, cho thái độ yêu quý, tìm hết cách để che chắn, bảo vệ cho chị họ, nhưng đồng thời cũng vẫn gửi đi một thông điệp âm thầm cho anh biết không bao giờ là bản sao của Minh nữa, từ Quỳnh. Đặt lại các cánh cửa đã thay đổi số đo vào khung xương tủ, Huy nhìn thấy rành mạch sự gắn kết giữa Minh và Phát. Anh đã bị đánh lạc hướng bởi sai lầm ngay từ đầu, khi tin rằng giữa hai người ấy là tình yêu. Chẳng có tình yêu nào hết. Anh ta chỉ là một tấm chắn. Thông qua Phát, Minh tiếp cận một người khác. Người đã theo dõi anh khi anh đột nhập nhà trọ của Minh. Chủ nhân thật sự của chiếc mô-tô, kẻ đã tấn công anh hầu chiếm lại chiếc USB chứa đựng bí mật nguy hiểm. Người bị ghi hình, khi tàn nhẫn đánh đập Minh. Cũng chính là người giờ đây khiến Quỳnh khiếp sợ, phải lẩn trốn... Bất giác, anh nhìn ra cánh cửa lớn. Chờ đợi tiếng gõ nhẹ. Nhưng không ai cả. Giống như một bài toán hình không gian, khi anh nối các điểm đã xác định được, những hình ảnh dần hiện ra. Huy đứng dậy, bước đến tủ lạnh, rót một cốc nước đầy và uống cạn. Đột nhiên, anh nhớ quãng thời gian hồi chín tuổi, hoặc nhỏ hơn, anh từng ốm một trận rất nặng. Đến mức anh tin mình sẽ chết. Điều ấy làm anh khổ sở ghê gớm. Nhưng sau cơn mê sảng khiến thân thể muốn vỡ tung ra như các mảnh gỗ ghép lại, anh lại nghĩ thật tuyệt nếu được chấm dứt tất cả. Đó là ý nghĩ kỳ dị với một đứa trẻ nhỏ, anh biết, nên không nói với ai cả. Ngay cả khi cơn ốm qua khỏi một cách kỳ diệu, thì mãi mãi sau này, anh vẫn không quên trải nghiệm có những thời khắc người ta rất thèm được buông xuôi, được thua cuộc. Rồi trí nhớ trôi dạt của anh lại hướng về Quỳnh. Hoàn toàn không đúng lúc, hiện ra hình ảnh cô khỏa thân hoàn toàn. Không có gì che chắn. Yếu ớt. Khoảng vai hẹp nhô lên. Đường cong nhẹ của khoảng ngực gầy. Tấm lưng bầm tím. Gương mặt lạc lõng, xa cách ngay với thân thể của chính mình... Nếu lúc khác, hẳn anh đã tự trách mình bởi các tưởng tượng tồi tệ. Nhưng giờ đây, ngược lại, anh bấu víu vào những hình ảnh ấy. Có thật cô ấy cần anh không hay là anh tự vẽ ra? Có thật là từng có giây phút, cô ấy tin cậy, trao cho anh tất cả con người cô, chẳng ngại ngần? Cái buổi sáng kỳ dị ấy, có thật không hay là anh tưởng tượng nên? Nếu là mơ, thì nó quá đẹp và sinh động. Nhưng nếu là thật, thì vì sao anh lại một mình đứng đây, đứt lìa mọi liên lạc với cô gái lạ lùng? Các cánh cửa đều mở. Ngoài âm thanh rù rì của máy vi tính, căn phòng trống rỗng. Gió đã biến mất. Những rèm cửa phẳng lặng. Nhiệt độ quanh anh không thay đổi. Anh đứng im, nhìn ra khoảng trời đêm. Vệt đèn sáng nhấp nháy bên dưới chiếc trực thăng đang bay qua bầu trời thành phố như một con mắt nhìn anh từ trên cao, mệt và buồn, nhưng thấu hiểu. Cảm giác tổn thương, nỗi sợ hãi, sự giận dữ lâu nay tích tụ trong anh chầm chậm đổ sụp xuống. Anh dựa lưng vào tường, run rẩy, nhìn vào đống đổ nát hỗn loạn bên trong chính mình. Kiệt sức. Nhưng, ít nhất, anh đã chiến đấu, không bỏ cuộc. Ít nhất, anh đã chống cự lại sự mục ruỗng của mong muốn thỏa hiệp. Ít nhất, trong cuộc săn đuổi con quái vật vô hình, anh đã không biến thành một con quái vật mới, vô cảm, thô bạo và lạnh lẽo. Dưới ánh sáng của ngọn đèn néon trắng, cái bóng anh trên mặt sàn mỗi lúc thêm sẫm lại, như một người khác, cũng đang lặng lẽ quan sát anh. Huy vào phòng tắm, mở nước lớn. Vài vệtmáu dưới mũi và quanh miệng anh đã khô. Dưới làn nước mạnh, chúng trôi đi mộtcách dễ dàng. Anh tắt vòi nước đột ngột, ngẩng lên. Trong gương, làn da trắngsáp của cái mặt nạ vẫn còn phảng phất. Một chỉ dẫn kỳ dị, nhưng không thể rõràng hơn. Khi hàng loạt suy nghĩ, phỏng đoán không tìm ra câu trả lời, thì vớimột hình ảnh tình cờ của gã hề gây rối loạn, mọi thứ bỗng xếp đúng vị trí. Manhmối cuối cùng đã được tìm thấy. Anh sẽ đến tìm gặp kẻ cần gặp ấy, ngay khi trờisáng. ... Mời các bạn đón đọc The Joker của tác giả Phan Hồn Nhiên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phía Sau Một Cô Gái - Ploy Ngọc Bích
Từ những bước chân dọc biển ấy, tôi bắt đầu hành trình tìm kiếm những gì ở phía sau một cô gái, từ các cô gái sống quanh tôi. Đa phần những câu truyện trong Phía sau một cô gái bắt nguồn từ chất liệu cuộc sống thật thà. Vì: Cuộc sống trong nhân dáng và tâm tính của một cô gái hiện đại tuy vất vả nhưng độc đáo. Sự dịu dàng, đằm thắm, yêu ghét khó phân minh và hay suy nghĩ chất đầy trong tâm tính. Đồng thời, cái mạnh mẽ, thông minh và tham vọng cũng chi phối nhiều mặt cuộc sống. Chính những kéo co của trái tim và khối óc trong một cô gái tự thân đã cho nhiều cái hay, lạ làm xuất phát điểm của những câu chuyện. Phía sau một cô gái, dù ngọt hay đắng, dù ghét hay thương, thì nếu quay đầu lại cũng nên dành cho quá khứ cái chớp mắt biết ơn. Vì bước ra khỏi những ngày ấy, mới có được cô gái của thời hiện tại. Phía sau một cô gái là những cái kết mở, vì truyện cũng như sống, hiếm khi kết bằng một dấu chấm tròn trĩnh, vẹn toàn. Chia tay đấy, có khi mai gặp lại. Bên nhau đấy, có khi mai rời xa. Cười và khóc, vui và buồn - cái ranh giới ấy rất mong manh... *** Giáng Sinh Về Nhà. Hayden gọi chỉ vài tiếng sau khi tôi gửi thư trả lời. Chúng tôi hẹn nhau trong một cái nhà sách. Chúng tôi tường thuật lại những sự vụ đã khiến khoảng cách giữa hai lần gặp là sáu năm. Chúng tôi cùng cười. Rồi cứ mỗi cuối tuần, rồi bất cứ khi nào rảnh … Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn trong một quán cà phê kiểu Pháp. Chúng tôi đi xem phim. Chúng tôi cùng săm soi một chiếc bánh, cố tìm xem có sợi tóc nào dính vào hay không. Chúng tôi cùng đi shopping. Tóm lại, chúng tôi hẹn hò. Giáng sinh đến ngày một gần. — Hai đêm trước giáng sinh, tôi và Hayden tay trong tay thả bộ trên những con phố trung tâm lấp lánh đèn. Tôi tựa vào vai anh, hít nhẹ mùi nước hoa rất lạ. Những ngày chờ đợi giáng sinh thật tuyệt. Trong không gian như có tiếng tíc tắc của một quả bom hẹn giờ đang nô nức chờ nổ: Vài chục cú nhích kim đồng hồ nữa thôi thì sẽ tưng bừng một niềm hạnh phúc, một sự đẹp đẽ lớn lao. Chúng tôi cứ thế bước đi trong làn hương giáng sinh thơm phưng phức. Hết con phố này sang con phố khác. Tôi trực giác rằng Hayden muốn nói với mình một chuyện, nhưng cứ lần lữa mãi. Dường như anh đang tự nhủ hãy để yên cảm giác lãng mạn này thêm một chút, thêm một chút, rồi lại thêm một chút. Tôi bên anh, im lặng chờ đợi. Trên con phố cuối cùng của lộ trình đi bộ hôm ấy, anh siết tay tôi một cái: - Nga, ngày mai anh phải quay lại Đức. Cha anh bệnh. Ông lại đã ly dị lần nữa. Anh e giáng sinh này ông chỉ một mình. Giáng sinh một mình, anh biết nó … - Giáng sinh là để về nhà. – Tôi vẫn tựa đầu vào vai anh, nhẹ nhàng cắt lời. — Đồng hồ gần 11 giờ đêm. Trên chuyến bay Hồ Chí Minh – Berlin, Hayden một tay nâng lon coca, một tay cầm chiếc bánh bông lan lạnh. Lòng anh hồi hộp ngóng đợi. Đã mười lăm cái giáng sinh anh vắng nhà. “Giáng sinh là để về nhà” – Nga đã lặp lại câu này khi tiễn anh ở sân bay. Chất giọng trầm và lạnh của cô bỗng trở nên ấm áp như một que diêm bật sáng giữa trời đông khi nói câu này. Và nó khiến anh muốn về nhà, thật sự là muốn về nhà. Hayden nâng cao lon coca hơn một chút: “Merry Christmas, em yêu!” — Tôi áp má vào tấm kiếng cửa sổ mát lạnh, nhìn dòng người hoan hỉ ngoài phố. Em trai, em gái đã cùng bạn bè hòa vào biển người đó ngay sau buổi tiệc gia đình. Chỉ mình tôi ở nhà cùng cha mẹ. Tôi quay đầu, nhìn về phía cái tivi đang oang oang. Trên ghế sô-pha, cha mẹ đang tranh nhau bấm liên tục cái điều khiển để chuyển kênh. Cha đòi xem chương trình ca nhạc giáng sinh. Mẹ lại đòi kênh đang chiếu phim The Holiday. Người già giống như trẻ con. Tôi mỉm cười, lòng dễ chịu như trong lồng ngực đang có một que diêm sưởi ấm. Hayden không biết giờ này đang làm gì. Nhưng chắc chắn là anh, sau rất nhiều năm, đã có cho mình một giáng sinh đúng nghĩa – Giáng sinh về nhà. Bận rộn, hiểu lầm, bất hòa, dù xảy ra chuyện gì đi nữa thì giáng sinh vẫn là ngày để về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Phía Sau Một Cô Gái của tác giả Ploy Ngọc Bích.
Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin
 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Những Năm Ảo Mộng - Archibald Joseph Cronin
ARCHIBALD JOSEPH CRONIN sinh năm 1896 ở Cardross (Scotland), làm y sĩ ở một khu kỹ nghệ xứ Galles rồi làm thanh tra mỏ (1924). Ông đã trình một luận án có giá trị về y khoa tại Đại học Glasgow (1925). Sau đó, ông đến hành nghề ở Londres, phòng mạch rất đông khách. Rồi vì quá lao lực, ông bắt buộc phải nghỉ việc. Để giải trí, ông viết cuốn: Người thợ làm nón và lâu đài của ông ta (1931), quyển truyện đã tạo được một thành công đáng kể. Tiếp theo, thành công đã được lập lại với các tiểu thuyết Thành trì (tác phẩm phần lớn như một tự thuật), Chìa khóa mở thiên đường, Những năm tóc còn xanh… Trở thành một nhà viết truyện nổi tiếng trên thế giới, A.J. Cronin bắt đầu chia thời gian cho việc viết văn và du lịch. Cho tới nay, ông đã xuất bản hơn hai mươi tác phẩm. Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với tác phẩm Thành trì và Thanh gươm công lý; nay chúng tôi xin giới thiệu Những năm ảo mộng (The valorous years) nhằm giúp cho các bạn trẻ yêu thích văn học hiểu biết thêm về một tác giả lớn của văn học Anh hiện đại. *** Xuất thân từ một gia đình lao động nghèo ở Levenford, Duncan Stirling, nhân vật chính của tác phẩm có thể được xem là từ nhân dân mà ra, và với nghị lực, đôi bàn tay trắng, tài ba trời cho của mình, anh đã vượt qua bao thử thách, trở lực để giành lấy học bổng trường Y và cuối cùng trở thành bác sĩ. Nhưng cũng chính vào lúc đó, anh đứng trước một sự lưa chọn: ở lại làm một chuyên gia tại thành phố lớn, tìm ra các phát minh mới, nổi danh và giàu có nhưng xa cách bệnh nhân, không dùng đến trí tuệ mình mà chỉ dựa vào máy móc hiện đại, hay trở về nông thôn hẻo lánh làm một thầy thuốc khiêm nhường cả về chức vị lẫn tiền bạc, phương tiện y khoa chỉ gồm thuốc men và dụng cụ cổ lỗ sĩ, nhưng lại rất gần người bệnh, lại ấm tình người, chăm sóc bệnh nhân đến phút cuối. Tác phẩm đã lý giải một cách thỏa đáng đầy xúc động về sự lựa chọn của Duncan. Đây có lẽ cũng là câu hỏi dành cho các bạn trẻ khi sắp rời mái trường Y, đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. *** Thứ sáu. Duncan ra khỏi bệnh viện sau một ngày thật bận rộn. Ngay sáng, anh đã nộp đơn ứng cử vào chức viện trưởng, và bây giờ tâm trí đầy ắp dự tính, anh đi ngược đường Công Chúa để về nhà. Anh chợt dừng lại. Một bóng dáng quen thuộc đi về phía anh. - Hamish! - Vâng, chào bác sĩ, chính tôi đây! Họ bắt tay nhau thật chặt. Rõ ràng là Hamish có vẻ không được tự nhiên trong bộ quần áo diện ngày chủ nhật màu sậm, mặt đỏ au lên vì cái cổ cồn cao trắng. Anh ta rụt rè nhận xét: - Thưa bác sĩ, đã lâu rồi tôi không gặp bác sĩ. Nhân dịp ghé qua Edimbourg, tôi định sẽ qua thăm bác sĩ một lát. Bây giờ, bác sĩ đã là người thành danh, chắc bác sĩ không còn thì giờ tiếp những người như bọn tôi. - Thật là vớ vẩn, Hamish ạ! Ông bạn già ôi, mình thật mừng gặp lại cậu. Hãy vào phòng tôi đi, mình sẽ cụng ly. Chỉ lát sau, Hamish đã ngồi ở trong phòng Duncan, mũ kết trên gối và một ly whisky cầm ở tay. - Xin chúc sức khỏe bác sĩ! - Mình cũng chúc sức khỏe cậu, Hamish ạ! Có gì lạ không? Cậu lên Edimbourg làm gì thế? - À …ờ mà! Tôi phải lên mua mấy thứ. Thuốc men, vài thứ vặt vãnh… Duncan ngạc nhiên: - Tôi tưởng dưới nhà mua thuốc ở Saint Andrews chớ? - Vâng, hồi xưa. Nhưng bây giờ mua ở một tiệm khác, rẻ hơn. - À ra thế! Duncan chợt thẳng người lại. - Vả lại… (anh chàng cao lớn này có vẻ lúng túng) tôi không chỉ đến Edimbourg vì mỗi việc ấy, tôi đi bán vài quyển sách cũ của bác sĩ Murdoch. - Lại có chuyện đó nữa cơ à? Duncan nhìn sững người khách đến thăm. Rồi với lấy cái tẩu để trên mặt lò sưởi, anh bắt đầu nhồi thuốc. - Tôi mong rằng mọi việc đều tiếp tục tốt đẹp ở Strath Linton chứ? - Vâng, vâng, Hamish vội trả lời, mọi việc cũng chạy vậy thôi. Hiển nhiên là cụ chủ không được khỏe lắm từ ít lâu nay. Chao ôi, bảy chục chứ ít gì, cũng phải mệt chứ! - Đáng lý cụ phải có một phụ tá. - Phụ tá! Hamish nhắc lại, môi bĩu ra dè bỉu, cụ đã thay bốn bác sĩ phụ tá chỉ trong có sáu tháng! - Sao thế? Hamish e dè mỉm cười: - Họ làm mọi việc đều trái khoáy hết cả. Họ không chịu đi khám nếu có bệnh nhân gọi lúc ban đêm, họ nhầm thuốc. Chao ôi! Họ làm cụ chủ gần phát điên lên, vì vậy cụ đã tống họ ra cửa hết người này đến người khác. (Anh ta dừng lại giây lát) Có thể nói là chẳng gặp ai ra hồn cả, ngoại trừ bác sĩ, bác sĩ ạ. Duncan quẹt mạnh một que diêm: - Chắc chắn ta có thể tìm ra một người tốt. Tôi biết khối bác sĩ trẻ rất có khả năng. Tôi sẽ gửi về một người. Rượu Whisky đã làm Hamish hoạt bát hẳn lên: - Không cần nữa đâu bác sĩ ạ. Bây giờ thì số khách không còn nhiều đủ để phải có một phụ tá. Duncan quay lại và bắt đầu đi tới đi lui. - Trời đất! Sao lại thế? - Thế này, bác sĩ ạ, ở nhà đang có sự cạnh tranh. Có một bác sĩ, ông Bailey, do đích thân Overton mang tới. Ông ta nhận lệnh của tên cướp có giọng đường mật đó và đáp lại, ông ta được một ngàn hai trăm công nhân của nhà máy đúc nhôm và nhà máy thủy điện. Họ bắt buộc phải đến phòng khám của ông ta, dù họ ưng hay không. Vì đó là người của công ty! Bác sĩ cũng biết là cụ chủ không bắt trả tiền mặt. Cụ chỉ nhận ít tiền qua các phiếu bảo hiểm xã hội đem lại. Thế mà bậy giờ cụ chỉ còn khoảng nửa tá phiếu, chỉ đủ chi tiêu theo kiểu giật gấu vá vai thôi, chật vật lắm! Bác sĩ cứ tin tôi đi. Duncan thảng thốt hình dung ra tình cảnh túng quẫn của ông thầy thuốc già. - Ôi dào! Rồi cũng có lối thoát chứ! Hamish tiếp thêm đầy vẻ lạc quan. Dẫu sao tôi cũng rất mừng gặp lại bác sĩ. Cô Jeanne dặn tôi nhắn với bác sĩ là bác sĩ luôn luôn là vị khách quý của nhà nếu có khi nào bác sĩ có dịp ghé thăm cái nơi chó ăn đá gà ăn muối của chúng tôi. Khi nghe nhắc đến Jeanne, Duncan cứng người lại. Anh mường tượng thấy cô đấu tranh chống lại thù nghịch, làm việc vất vả với lòng can đảm bình thản và vui vẻ biết chừng nào! Anh hiểu ra là anh chưa bao giờ hết yêu cô, và anh cũng lại nhớ ra một điều khác. - Tôi tưởng cô ấy thường gặp cậu Aigle. - Đúng vậy! Alex vẫn lảng vảng đến nhà. Cậu ấy nghĩ rất tốt về cô. Hai tháng sau này, cậu ấy ở Canada. Nhưng chúng tôi chờ cậu ấy trở về vào cuối năm nay. - Có lẽ khi ấy mọi việc sẽ được dàn xếp cho bác Murdoch. Và cho cả cô Jeanne. - Là cái chắc rồi! (Hamish mỉm cười đầy ngụ ý) Alex muốn lấy cô, bác sĩ biết chứ! Sau khi Hamish ra về, Duncan ngồi thừ ra nhìn những món quà đạm bạc mà gia đình Mac Kebre gửi tặng anh. Anh nhớ lại thật rõ căn nhà nghèo nàn của người gác rừng trong đêm tối đầy tuyết với người phụ nữ đang hấp hối, người phụ nữ mà anh đã cứu sống. Đêm đó mới thật sự có ý nghĩa, thật sự tuyệt vời. Anh thả mình vào suy tư “Trời ơi! Tôi đã thật sự làm được điều gì có ích chưa kể từ thời kỳ đó tới giờ?” Nhưng bây giờ, tấn bi kịch trong tuyết đó có nghĩa lý gì? Những rủi ro của một vị thầy thuốc nông thôn già nua và tầm thường liên quan gì đến anh? Đã từ lâu, anh gột bỏ ngoài đời mình mọi xúc cảm. Tương lai và sự nghiệp của anh tùy thuộc vào sự gột bỏ cảm xúc ấy. Vả lại cuộc hôn nhân giàu có sắp tới sẽ xóa đi rất nhanh những lo âu phiền muộn của gia đình Murdoch. ... Mời các bạn đón đọc Những Năm Ảo Mộng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Những Điền Chủ Nếp Xưa - Nikolai Vasilyevich Gogol
Nikolai Gogol một cái tên khá quen thuộc với độc giả Việt Nam với những tác phẩm như “Những Linh hồn chết”, “Quan thanh tra”. Thậm chí nó còn được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy ở các trường phổ thông. Cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nikolai Gogol đã có hẳn một cuộc hội thảo về các tác phẩm của Gogol tại Trung tâm Khoa học và Văn hoá Nga ở 501 Kim Mã. Hà Nội với nhiều tham luận có giá trị của các dịch giả, các nhà nghiên cứu Văn học Nga như Phạm Vĩnh Cư, Vũ Thế Khôi, Hoàng Thuý Toàn, Phan Hoàng Giang, Cao Xuân Hạo, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Trường Lịch… Trên tay tôi đang có cuốn truyện vừa “Những điền chủ nếp xưa” của Nikolai Gogol qua bản dịch của dịch giả Nguyễn Thị kim Hiền. Với người đọc, chắc cái tên Nguyễn Thị Kim Hiền cũng khá quen thuộc với những tác phẩm như: “Trở về E-Đen”, “Thế giới ngược”, “Sonechka”… Xin trân trọng giới thiệu với các bạn cuốn truyện song ngữ Việt-Nga “Những điền chủ nếp xưa” của Nikolai Gogol qua bản dịch của Kim Hiền, chúc các bạn mọi điều tốt lành!!! Lê Thanh Minh *** Tôi rất yêu cuộc sống giản dị của những chủ nhân các làng quê xa xôi mà ở Tiểu Nga người ta thường gọi là điền chủ nếp xưa, những người hệt như những ngôi nhà hữu tình già nua cũ kỹ, đáng yêu bởi vẻ tạp sắc loang lổ, hoàn toàn đối lập với kiểu nhà tân thời phẳng phiu nhẵn nhụi, khi mà tường nhà còn chưa bị nước mưa xói tẩy, mái chưa hề phủ rêu xanh và thềm nhà còn chưa bị tróc vữa để phô ra những viên gạch đỏ. Thi thoảng tôi vẫn thích được lạc vào nơi ấy, dù chỉ phút giây thôi, vào cái môi trường cuộc sống biệt lập lạ thường ấy, nơi không một ước muốn nào có thể vượt qua dãy bờ giậu quanh khoảng sân nhỏ, ra khỏi hàng rào của ngôi vườn đầy những cây táo cây mận, vượt khỏi những ngôi nhà gỗ quê mùa lung lay xiêu vẹo xung quanh khu vườn, được những cây liễu, cây cơm cháy và cây lê nghiêng bóng che chở. Cuộc sống của các vị chủ nhân khiêm nhường ấy bình lặng quá, êm ả quá, đến nỗi trong phút chốc dường như bạn bỗng quên lãng đi và bạn nghĩ rằng hoàn toàn không hề tồn tại những niềm say mê, những ước vọng và những sản phẩm bất an của hung thần vốn thường làm nhiễu loạn trần thế, chẳng qua là bạn chỉ thấy tất cả những thứ đó trong những cơn mơ sáng chói và lấp lánh mà thôi. Từ nơi đây tôi thấy ngôi nhà nho nhỏ thâm u có hàng hiên với những cột gỗ nhỏ đen xỉn bao quanh toàn bộ nhà, để mỗi khi sấm sét và mưa đá thì có thể ra đóng cửa chớp mà không bị ướt. Đằng sau nhà có cây dã anh thơm ngát, những hàng cây ăn quả thấp lè tè, lúc lỉu quả anh đào đỏ thắm với cả một biển những trái mận màu hồng ngọc mờ phấn xám, cây phong lòa xòa, dưới gốc có trải tấm thảm để ngồi hóng mát; trước nhà là chiếc sân rộng thênh thang với lớp cỏ tươi xén ngắn, một lối mòn dẫn từ vựa lúa mì đến bếp và từ bếp đến phòng ngủ của các vị chủ nhân; con ngỗng cổ dài đang uống nước với bầy ngỗng con lông mịn như tơ; hàng dậu treo đầy những xâu táo xâu lê phơi khô và những tấm thảm đang hong gió; chiếc xe ngựa chở đầy dưa bở bên cạnh vựa lúa mì, con bò thiến được cởi dây buộc đang lười biếng nằm bên cạnh – đối với tôi, tất cả những cái đó có một vẻ gì đó tuyệt mỹ không sao cắt nghĩa được, có thể do tôi chẳng thể nào gặp lại chúng nữa, hoặc cũng có thể đối với chúng ta tất cả những gì đã xa cách thì đều đáng mến đáng yêu. Trong mọi trường hợp, ngay cả thưở ấy, khi chiếc xe ngựa của tôi gần đến bậc thềm của ngôi nhà nhỏ đó, tâm hồn tôi bỗng dâng trào một trạng thái dễ chịu và yên tĩnh lạ thường; những con ngựa vui vẻ chạy tới trước thềm nhà, người xà ích rất bình thản nhảy từ trên ghế xuống và rất bình thản nhồi thuốc vào tẩu, như thể bác ta vừa về đến nhà mình, ngay cả tiếng sủa mà mấy con chó barbos, brovka và zhuchka1 lãnh đạm cất lên cũng khiến tôi thấy vui tai. Nhưng hơn tất thảy những cái đó, tôi thích nhất các vị chủ nhân của góc nhỏ giản dị ấy, những ông lão, bà lão ân cần, vồn vã bước ra chào đón khách. Cho đến tận bây giờ, đôi khi tôi vẫn hình dung ra họ trong tiếng ồn ào giữa đám đông những người mặc áo đuôi tôm theo mốt, và những lúc đó tôi lại như thấy mình dường như đang trong giấc mơ dở dang về một thời quá khứ đã qua. Trên gương mặt những ông bà già đó lúc nào cũng thể hiện lòng nhân từ, sự vồn vã chân thành đến nỗi dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, bạn vô tình từ bỏ những mơ ước táo bạo của mình và dần dần toàn tâm toàn ý chuyển sang một cuộc sống yên bình phẳng lặng. Đến tận thời điểm này tôi vẫn không thể nào quên được đôi vợ chồng già thế kỉ trước, những người mà than ôi, nay đã không còn nữa, nhưng cho đến bây giờ tâm hồn tôi vẫn tràn đầy thương cảm, và tôi thấy lòng mình thắt lại một cách lạ thường mỗi khi hình dung rằng đến một lúc nào đó mình lại đến khu tư thất xưa của họ mà nay đã thành hoang vắng, và sẽ thấy hàng loạt nhà cửa đổ nát, mảnh ao đã bồi lấp, đoạn hào bị cây cỏ trùm khuất tại cái nơi xưa kia từng có một ngôi nhà xinh mái thấp của họ - và ngoài ra chẳng còn gì khác nữa. Chao ôi là buồn! Chưa chi tôi đã thấy trước là buồn quá mất rồi! Nhưng thôi chúng ta hẵng quay lại câu chuyện. ... Mời các bạn đón đọc Những Điền Chủ Nếp Xưa của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.