Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đốm Lửa Lưu Lạc

"Đôi khi người ta cần phải cắt đứt quan hệ với những nơi họ sinh ra, với quá khứ của chính họ và bắt đầu lại từ đầu. Giống như những ngọn lửa thảo nguyên. Sau khi lửa thiêu rụi, đất sẽ màu mỡ hơn và những thứ mới mẻ có thể sinh sôi." Ở Shaker Heights, một vùng ngoại ô cấp tiến và yên bình, mọi thứ đều tuân theo trật tự định sẵn - từ cách bố trí các con đường quanh co, màu sắc của những ngôi nhà, đến sự sung túc, thịnh vượng của cư dân trong vùng. Không ai hiểu rõ điều ấy như Elena Richardson. Thế nhưng, sự xuất hiện của người mẹ đơn thân Mia Warren cùng cô con gái tuổi teen Pearl đã làm thay đổi cuộc sống của gia đình Richardson, gây xáo trộn cộng đồng vốn nề nếp đến từng chi tiết này. Một câu chuyện xúc động về sự gắn kết mãnh liệt của tình mẫu tử, sức nặng của những bí mật, bản chất của nghệ thuật và tính đồng nhất trong một cộng đồng, như những ngọn lửa âm ỉ ủ trong vẻ ngoài tĩnh lặng, cứ chực chờ bùng cháy. "Dí dỏm, thông minh và êm ái. Thật là một điều kỳ diệu." - Paula Hawkins "Phi thường! Những quyển sách thế này không thường xuất hiện." - John Green *** Có quá nhiều câu hỏi về hạnh phúc trong tiểu thuyết “Những đốm lửa lưu lạc” của tác giả người Mỹ gốc Hoa Celeste Ng. Ðây là tác phẩm day dứt về gia đình và cả bản ngã của mỗi người. Sách do NXB Phụ nữ phối hợp với Phương Nam Book phát hành năm 2019. Mở đầu câu chuyện là vụ hỏa hoạn thiêu rụi căn nhà của gia đình Richardson, may mắn không ai thiệt mạng hay bị thương. Từ đây, những chuyện xảy ra trước đó được kể lại. Lần lượt từng gia đình, nhân vật được khắc họa, mở ra nhiều bí mật, bất ngờ. Hai mẹ con Mia Warren và Pear đi khắp nơi bằng chiếc xe tải chất đầy đồ đạc và đổi chỗ ở liên tục. Nhưng đến vùng ngoại ô Shaker Heights, thuê được căn hộ tốt của ông bà Richardson với giá bình dân, cuộc sống của họ ổn định hơn. Khi thấy con gái Pear gắn bó và vui vẻ khi ở cạnh gia đình Richardson, người mẹ đơn thân Mia quyết định sẽ ở hẳn nơi này. Thế nhưng, mối quan hệ giữa những đứa con vị thành niên của hai nhà, rồi việc ông bà McCullough, một gia đình hàng xóm hiếm muộn, nhận con nuôi, bị vướng vào kiện tụng với mẹ ruột đứa trẻ; đã khiến mọi chuyện phức tạp, dẫn đến kết cục không ngờ. Tác phẩm có nhiều nhân vật, nhiều chi tiết, nhưng tác giả đã khéo léo khắc họa rõ nét tính cách và tâm lý, vừa dẫn dắt câu chuyện khúc chiết. Ấn tượng nhất là những người mẹ và tình mẫu tử. Mia Warren, một tài năng nhiếp ảnh đã từ bỏ tương lai, trốn gia đình mà cô ký hợp đồng mang thai hộ, để được sống bên cạnh con. Bà Richardson nghiêm khắc với con gái út khiến cô bé luôn chống đối, nhưng cũng vì bà lo lắng cho đứa con sinh non, ốm yếu này. Hai người phụ nữ ấy đối lập trong tính cách, hoàn cảnh sống và cả cách nuôi dạy con cái. Nếu Mia phóng khoáng, cảm xúc và đeo đuổi nghệ thuật; thì Richardson gò mình trong khuôn khổ và kế hoạch cuộc đời. Cuối cùng, họ đối đầu vì những đứa con. Ở một hoàn cảnh khác là cuộc tranh chấp của 2 người phụ nữ giành quyền nuôi con. BeBe Châu, cô gái Trung Quốc, trong lúc túng quẫn, trầm cảm đã bỏ rơi đứa con mới sinh khi người yêu bỏ rơi. Sau những tháng ngày dằn vặt, cô đòi lại con từ gia đình nhận nuôi đứa trẻ. Trong khi đó, bà McCullough quyết liệt giữ đứa bé đến cùng, khiến người đọc xót xa trước những đau khổ của cả hai người mẹ. Tình mẫu tử là chủ đề của tác phẩm, nhưng có lẽ bản ngã và sự cố chấp của mỗi người, từ các bà mẹ đến những đứa con, mới là mấu chốt làm nên câu chuyện hấp dẫn, giúp “Những đốm lửa lưu lạc” là một trong những tác phẩm bán chạy nhất do New York Times bình chọn. Cát Ðằng *** Ở Shaker Heights mọi người vẫn đang bàn tán về chuyện xảy ra vào mùa hè năm ấy: tại sao mà con bé Isabelle, đứa con út của gia đình Richardson, lại có thể phát điên mà châm lửa đốt nhà. Suốt mùa xuân, chuyện về bé Mirabelle McCullough trở thành chủ đề buôn chuyện - hoặc, tùy bạn đứng về phía nào, mà có thể gọi bé là Châu Mai Linh - còn bây giờ, rốt cuộc cũng có chuyện mới, một đề tài hấp dẫn để bàn luận. Một sáng thứ Bảy của tháng Năm, vừa non trưa, nhiều khách đang đẩy xe hàng mua sắm trong siêu thị Heinen’s đã nghe tiếng xe cứu hỏa inh ỏi chạy loạn xạ, hướng thẳng về phía hồ vịt. Khoảng 12 giờ 15 phút, bốn chiếc xe cứu hỏa đỗ thành một dãy đỏ lộn xộn dọc đường Parkland Drive, nơi cả sáu phòng ngủ của gia đình Richardson đang ngùn ngụt cháy, ai nấy trong vòng nửa dặm đều thấy khói bốc lên từ những ngọn cây giống như đám mây giông đen ngòm dày đặc. Sau đó, người ta đồn rằng từ lâu đã xuất hiện nhiều dấu hiệu rõ ràng: rằng Izzy là con nhỏ điên loạn, rằng gia đình Richardson lúc nào cũng có gì đó kỳ lạ, rằng vừa nghe tiếng còi báo động vào sáng hôm ấy thì họ biết chắc có chuyện khủng khiếp đã xảy ra rồi. Dĩ nhiên, lúc bấy giờ Izzy vẫn mất tích, không ai biện hộ cho cô và thiên hạ có thể - hoặc đã - đồn đoán bất cứ thứ gì mà họ thích. Dù khi xe cứu hỏa đến, và rồi sau đó một lúc, cũng không ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Những người hàng xóm nép sát hết mức vào rào chắn tạm thời - chiếc xe tuần dương của cảnh sát, đỗ chắn ngang cách xa vài trăm mét - để quan sát đội cứu hỏa tháo các cuộn ống trong nét mặt khắc nghiệt của người đã nhận ra sự vô vọng. Bên kia đường, đàn ngỗng trong hồ vẫn ngụp đầu xuống nước lặn tìm rong, hoàn toàn không chút xáo trộn trước sự hỗn loạn này. Bà Richardson đứng trên bờ cỏ, tay túm chặt cổ áo choàng màu xanh nhạt. Dù trời đã sang chiều, bà vẫn còn đang ngủ khi đầu báo khói rú lên. Bà đã đi ngủ muộn, cố vào giấc, tự nhủ thầm phải gắng nghỉ ngơi sau một ngày dài khó nhọc. Tối hôm qua, từ cửa sổ tầng trên, bà nhác thấy một chiếc xe hơi cố đậu lại trước nhà. Lối lái xe vào nhà vừa xa vừa vòng, hình cung trũng kiểu móng ngựa uốn cong từ lề đường đến trước cửa rồi trở ra - vì vậy con đường chính chỉ cách cỡ trăm bước, nhưng với bà nó xa đến mức bà khó lòng nhìn rõ, dù bây giờ vẫn đang là tháng Năm , huống hồ lúc đó là chín giờ rưỡi đêm, trời đã sầm tối. Tuy vậy bà nhận ra chiếc Volkswagen cỡ nhỏ màu nâu vàng nhạt của vị khách thuê nhà, cô Mia, với chiếc đèn pha sáng rực. Cửa phụ mở ra, một dáng người mảnh mai xuất hiện, khép hờ cánh cửa: đứa con gái tuổi teen của Mia, là Pearl. Đèn dưới mui chiếu sáng bên trong khiến chiếc xe giống như một hộp trưng bày, nhưng chiếc xe xếp đầy nào hộp, nào túi đến gần chạm trần và bà Richardson chỉ có thể nhận ra chiếc bóng mờ nhạt tạo ra từ đầu cô Mia với búi tóc rối bù ngự trên đỉnh đầu. Pearl cúi xuống hộp thư, và bà Richardson chỉ có thể hình dung được tiếng cót két yếu ớt phát ra khi cửa hộp thư mở ra, rồi đóng lại. Sau đó Pearl nhảy lò cò trở vào xe và đóng cửa. Đèn phanh xe lóe lên đỏ rực sau đó chớp tắt, chiếc xe tất tả lao vào màn đêm đang buông đầy. Lòng thấy nhẹ nhõm, bà Richardson xuống chỗ hộp thư và nhìn thấy bộ chìa khóa đặt trên một chiếc nhẫn trơn, không một lời nhắn. Bà định sáng mai sẽ xem xét kỹ lưỡng cũng như kiểm tra căn hộ ở đường Winslow, dù bà biết rõ hai mẹ con họ đã đi rồi. Nhờ biết chuyện này nên bà mới chịu đi ngủ, và bây giờ là mười hai giờ rưỡi, bà đang đứng trên bờ cỏ trong chiếc áo choàng tắm, chân xỏ đôi giày tennis của cậu con trai Trip, nhìn căn nhà của gia đình đang cháy thành tro bụi. Khi bị đánh thức bởi tiếng rít ầm ĩ từ đầu báo khói, bà chạy hết phòng này đến phòng khác tìm cậu, tìm Lexie, tìm Moody. Thật ngạc nhiên khi bà không tìm Izzy, có vẻ như bà đã đinh ninh rằng Izzy là đứa gây nên tội. Phòng nào cũng trống trơn nhưng lại nồng nặc mùi xăng cùng ngọn lửa nhỏ đang cháy tanh tách ngay giữa mỗi chiếc giường, y như có con điên đang cắm trại trên đó. Đến khi bà kiểm tra phòng khách, phòng sinh hoạt gia đình, phòng giải trí và phòng bếp thì khói đã bắt đầu lan rộng bao phủ hoàn toàn, cuối cùng bà tháo chạy ra ngoài, nghe tiếng còi báo động, tín hiệu phát ra từ hệ thống an toàn của căn nhà. Ngoài ngõ vào, bà thấy chiếc Jeep của Trip không còn, cả chiếc Explorer của Lexie, xe đạp của Moody cũng vậy và dĩ nhiên chiếc ô-tô mui kín của chồng bà cũng vắng mặt. Người ta phải gọi cho ông từ sở làm. Sau đó bà sực nhớ Lexie, ơn trời, tối qua con nhỏ qua đêm ở nhà Serena Vương. Bà tự hỏi liệu Izzy đã đi đâu. Bà tự hỏi liệu mấy đứa con trai của bà đang ở đâu, và làm cách nào tìm được chúng để báo chúng biết chuyện gì đã xảy ra. Khi ngọn lửa được dập tắt, ngôi nhà chưa đến mức bị thiêu rụi hoàn toàn nhưng bà Richardson vẫn còn rất sợ hãi. Tất cả cửa sổ đều cháy rụi nhưng khung gạch của ngôi nhà vẫn còn, ẩm ướt, đen nhẹm đi và bốc đầy hơi nước, phần lớn mái nhà, các tấm bảng màu đen bóng bẩy lấp lánh giống như những chiếc vảy cá họ mới vừa ngâm tẩm. Trong vài ngày tới, gia đình Richardson không được vào nhà cho đến khi các kỹ sư của sở cứu hỏa kiểm tra xong tất cả những thanh xà còn trụ lại, tuy vậy, chỉ cần đứng từ bờ cỏ - nơi gần nhất với bảng CẢNH BÁO màu vàng mà họ được phép đến - họ vẫn nhìn thấy chút gì đó còn sót lại trong căn nhà đổ nát. “Trời ơi,” Lexie sửng sốt. Cô ngồi ngay mép mui xe của mình, chiếc xe đang đỗ bên kia đường, trên bãi cỏ giáp cái hồ vịt. Cô và Serena vẫn đang say ngủ, lưng đâu lưng cuộn tròn trong chiếc chăn cỡ queen của Selena thì bác sĩ Vương lay vai cô, nói nhỏ, “Lexie. Cục cưng Lexie. Dậy nào. Mẹ con vừa gọi đấy.” Họ đã thức đến hơn hai giờ sáng, nói chuyện - như họ đã làm suốt mùa xuân - về bé Mirabelle McCullough, tranh luận về việc quyết định của quan tòa là đúng hay sai, liệu bố mẹ nuôi của con bé có nên nhận được quyền giám hộ hoặc liệu có nên trả nó về với mẹ ruột. Cuối cùng Serena nói “Thậm chí Mirabelle McCullough cũng không phải tên thật của con nhỏ, ôi trời,” và Lexie đáp lại, “Mẹ nó đã từ bỏ nó, đồng nghĩa cô ta từ bỏ luôn quyền đặt tên cho nó,” rồi họ rơi vào không khí tĩnh lặng ảm đạm cho đến khi cả hai ngủ thiếp đi. Bây giờ Lexie nhìn đám khói cuồn cuộn bốc ra từ cửa sổ phòng ngủ của cô, cái cửa sổ hướng ra bãi cỏ, và nghĩ đến mớ đồ đạc trong phòng chẳng còn gì. Mỗi chiếc áo phông trong ngăn tủ kéo, mỗi cái quần jean trong tủ quần áo. Mớ ghi chú mà Serena đã viết cho cô từ hồi lớp Sáu hãy còn xếp lại thành các quả banh giấy, chúng được cất giữ trong một hộp giày đặt dưới giường; cả cái giường, các tấm ga trải giường và chiếc chăn bông đều cháy rụi thành than. Đóa hồng cài áo mà bạn trai Brian đã tặng trong chuyến hành hương được treo trên bàn trang điểm đến khô đi, những cánh hồng đỏ thắm, sẫm lại hóa đỏ bầm. Giờ chẳng còn gì ngoài tro tàn. Đột nhiên Lexie nhận ra rằng, trong bộ đồ vừa thay mà cô mang đến nhà Serena, thì cô còn khá khẩm hơn các thành viên còn lại trong nhà: trên ghế sau cô có cái túi du lịch, cái quần jean và bàn chải đánh răng. Bộ đồ ngủ. Cô liếc vội mấy đứa em, nhìn qua mẹ, mẹ hãy còn mặc áo choàng tắm đứng nơi bờ cỏ, và cô nghĩ, Thật luôn, mọi người chẳng còn gì ngoài bộ đồ dính trên người. “Thật luôn” là một trong những từ cửa miệng của Lexie, thậm chí cô gán nó vào những tình huống chẳng thật chút nào. Trong trường hợp này, chí ít một lần, không ít thì nhiều cô cũng dùng chính xác. Ngay cạnh cô, Trip thất thần đưa tay xước tóc. Lúc này mặt trời đang đứng bóng, mồ hôi làm cho những lọn tóc quăn của cậu cứ ngang tàng dựng ngược. Cậu đang chơi bóng rổ tại trung tâm cộng đồng thì nghe tiếng xe cứu hỏa rền rĩ, nhưng cậu chẳng mấy để ý. Ngay sau đó, mọi người đói bụng và quyết định nghỉ chơi, cậu lập tức lái xe về nhà. Đúng kiểu Trip, thậm chí cửa xe có đang hạ xuống thì cậu cũng không bận tâm đến đám khói khổng lồ phảng phất bay về phía mình mà chỉ bắt đầu nhận ra chuyện không ổn khi thấy xe cảnh sát phong tỏa con đường. Sau mười phút giải thích, cuối cùng cậu cũng được phép đỗ chiếc Jeep của mình ở phía bên kia ngôi nhà, nơi Lexie và Moody đang ngồi đợi từ lúc nào. Ba chị em ngồi trên mui xe theo thứ tự, như thứ tự trong các bức ảnh chân dung gia đình từng treo chỗ cầu thang, những bức ảnh giờ đã thành tro bụi. Lexie, đến Trip, Moody: học sinh năm cuối, năm ba, năm hai. Cạnh bên, mấy chị em nhận ra chỗ trống mà Izzy, học sinh năm nhất, “con cừu đen” trong nhà, một đứa bất định, đã để lại. “Rồi chúng ta sẽ ở đâu?” Trip hỏi. Phút lặng thinh bỗng chốc vây lấy ba chị em khi họ nhìn lại tình cảnh của nhà mình. “Chúng ta sẽ đến khách sạn hoặc nơi nào đó đại loại thế,” cuối cùng Lexie trả lời. “Chị nghĩ trước đây gia đình Josh Trammell cũng làm vậy.” Ai cũng biết chuyện này: vài năm trước, Josh Trammell, một học sinh năm hai đã ngủ quên khi đèn cầy còn cháy làm căn nhà của bố mẹ cậu bị thiêu rụi. Nhiều năm qua, ở trường trung học vẫn đồn rằng nguyên nhân không phải cây đèn cầy mà vì hút cần sa, nhưng bên trong ngôi nhà đã bị hủy hoại hoàn toàn nên chẳng thể nào biết được, và Josh mắc kẹt trong chuyện cây đèn cầy của chính mình. Người ta vẫn xem cậu là thằng đầu đất đốt nhà, dù chuyện này đã trôi qua nhiều năm, và mới đây Josh đã tốt nghiệp Đại học Ohio State với tấm bằng danh dự. Giờ đây, dĩ nhiên, đám cháy của Josh Trammell không còn là vụ hỏa hoạn lừng danh nhất ở Shaker Heights này nữa. “Một phòng khách sạn? Cho cả bọn?” “Sao cũng được. Thì hai phòng. Hoặc chúng ta sẽ đến khách sạn Embassy Suites. Chị không biết.” Lexie nhịp mấy ngón tay lên đầu gối. Cô muốn làm một điếu, nhưng sau những gì vừa xảy ra - và trước mắt mẹ với mười người lính cứu hỏa - cô không dám châm điếu. “Bố mẹ sẽ tính toán thiệt hại. Và phía bảo hiểm sẽ bồi thường cho nhà mình.” Mặc dù chỉ hiểu biết mơ hồ về thủ tục bảo hiểm, thì suy nghĩ này của cô nghe có vẻ hợp lý. Dù sao đi nữa, đây là chuyện của người lớn, không phải của bọn trẻ. Những lính cứu hỏa cuối cùng đang từ nhà bước ra, kéo chiếc mặt nạ bảo hộ ra khỏi mặt. Khói từ đám cháy hầu như đã không còn, nhưng cảm giác oi bức vẫn bao phủ khắp nơi rất giống bầu không khí phòng tắm sau khi tắm nước nóng. Mui xe nóng dần lên và Trip duỗi chân xuống kính chắn gió, di mũi dép tông đẩy đẩy vào cần gạt nước. Rồi cậu phì cười. “Gì mà vui vậy?” Lexie hỏi. “Chỉ đang tưởng tượng cảnh con Izzy chạy loanh quanh để đánh diêm khắp nhà.” Cậu khịt mũi. “Cái con điên.” Moody đang ngồi vắt chéo chân trên bãi cỏ cạnh chiếc xe đạp của mình. “Sao ai cũng khẳng định là nó?” “Thôi đi.” Trip nhảy khỏi xe. “Là Izzy chứ ai. Chúng ta đều ở đây. Mẹ cũng ở đây. Bố thì trên đường về. Còn thiếu ai nữa?” “Vì Izzy không có ở đây. Nên nó là đứa duy nhất có khả năng gây ra hay sao?” “Thủ phạm?” Lexie cắt ngang. “Izzy á?” “Bố đang ở sở làm,” Trip nói tiếp. “Chị Lexie ở nhà Serena. Em thì đang chơi bóng bên đường Sussex. Còn em, Moody?” Moody ngập ngừng. “Em đạp xe đến thư viện.” “Đó. Chị thấy chưa?” Với Trip, đáp án quá hiển nhiên. “Kẻ tình nghi duy nhất chỉ còn Izzy và mẹ. Mà mẹ thì đang ngủ.” “Biết đâu đường điện nhà mình bị chập. Hoặc giả có người quên tắt lò nướng thì sao.” “Đội cứu hỏa nói có nhiều mồi lửa rải khắp nhà,” Lexie nói. “Rất nhiều điểm phát lửa. Khả năng có cả chất xúc tác. Không phải sự cố.” “Chúng ta đều biết con nhỏ đó thần kinh mà.” Trip ngả người tựa vào cửa xe. Bên kia đường, xe cứu hỏa bắt đầu cuộn ống vào guồng. Ba đứa trẻ còn lại của nhà Richardson dõi theo đội cứu hỏa buông rìu xuống và cởi bỏ những lớp áo khoác vàng ám đầy mùi khói. “Đứa nào qua đó ngồi với mẹ đi,” Lexie bảo, nhưng chẳng ai nhúc nhích. Sau một phút, Trip tuyên bố, “Khi bố mẹ tìm thấy Iz, họ sẽ nhốt nó vào bệnh viện tâm thần đến hết đời.” Không ai bận tâm đến việc cô Mia và Pearl vừa rời khỏi căn hộ ở đường Winslow. Bà Richardson, đang quan sát đội trưởng đội cứu hỏa tỉ mỉ ghi chép vào hồ sơ tạm nên đã hoàn toàn quên mất hai vị khách thuê cũ của mình. Bà còn chưa báo với chồng hay bọn trẻ về chuyện đó; nhưng sáng sớm hôm ấy, Moody đã phát hiện sự vắng mặt của họ và cậu vẫn không chắc mình nên làm gì. Phía cuối đường Parkland Drive, đốm xanh nhỏ - chiếc BMW của bố chúng - đang tiến lại gần. “Sao anh biết chắc họ sẽ tìm ra nó?” Moody hỏi. Mời các bạn đón đọc Những Đốm Lửa Lưu Lạc của tác giả Celeste Ng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Vô Luân - André Gide
Cuốn sách này đáng giá bao nhiêu, tôi xin trao cho người với giá đó. Ấy là một Trái Cây chứa chất những tro than chát ngấm. Nó giống như loại Dưa Đắng ở Sa Mạc, mọc tại những vùng khô cằn nung nấu, và chỉ ban cấp cho cơn khát nước của con người một trận cháy bỏng càng thê thảm tàn khốc thêm; nhưng nằm trên mặt cát vàng (hoàng sa) không phải là không đẹp. Nếu như tôi có ý đưa nhân vật mình ra làm gương mẫu (cho người soi) thì phải nhìn nhận rằng tôi đã không thành công chi lắm; một vài kẻ hiếm hoi hỉ hữu nào đã vui lòng chú tâm hữu ý tới trận chìm nổi của Michel, ấy chẳng phải để cảm thông, mà chỉ là để nguyền rủa chàng, với tất cả lòng thiện lương sôi nổi của họ. Tôi đã không hoài công trang điểm Marceline bằng xiết bao đức hạnh; người ta không tha thứ được cho Michel đã vị kỉ không yêu chuộng nàng hơn thân mình. Nếu rằng tôi có ý muốn đưa cuốn sách ra đời nhằm cứu cánh lên án Michel, thì ắt là tôi cũng chẳng thành công gì ráo, chẳng đạt mục đích hơn được chút nào. Bởi vì không một ai người, ai kẻ, ai con, vui lòng cảm tạ tôi vì mối phẫn nộ của họ đối với những nhân vật. Phẫn nộ đối với Michel, và từ Michel cơn phẫn nộ tràn lan tới tác giả. Mép bờ rất mong manh. Một chút xíu thôi, và người ta đã muốn lẫn lộn tôi và nhân vật. Nhưng thật ra tôi không có ý muốn đưa cuốn sách ra đời như một cuộc lên án, mà cũng chẳng phải là trận biện hộ biện minh, và tôi đã tự giữ mình không thôi lời phán đoán. Công chúng độc giả ngày nay không cho phép tác giả được quyền làm khán giả suông. Tác giả sau khi miêu họa cơn kia, cuộc nọ xong, lầm lì không đưa lời nhận định, không bày tỏ lập trường, hoặc đứng phía này hoặc thiên về phía nọ, - đó là điều công chúng khổng thể tha thứ cho... Hà huống...? Hơn nữa, ngay cả trong giờ diễn tiến tồn lưu của tấn tuồng phù động, người ta còn muốn rằng tác giả phải liên tiếp bày tỏ lập trường, phải phán định rõ ràng rành mạch là mình đứng về phía của A hoặc của B, của Bê hoặc của Bối, mình ở bên cánh Philinte hay là bên phe Alceste, mình tán đồng Hamlet hay biểu đồng tình với Ophélie, mình theo chân Faust hay là bén gót theo Marguerite, mình lân mộ Adam hay là sùng mộ Jehovah? Mình tơ tưởng Nausicaa hay là mình nhớ nhung Pénélope? Mình muốn cùng Ulysse vượt trùng dương về trở lại cố hương Ithaque, hay là mình còn lưu luyến mãi cái hương mùi hương dị dị trong lãnh cốc Thần Nữ Calypso? Mình muốn xổ bồ đánh trận vây hãm thành Troie, hay là mình muốn bôn ba lùa bò về lên đầu non đồi sim trái chín? Quả thật, tôi không chủ trương rằng trạng huống trung lập (tôi suýt nói: tình huống lưỡng lự dùng dằng) là dấu hiệu vững chắc của một đầu não hoang viễn huệ năng; nhưng tôi tưởng rằng nhiều bộ óc hoằng đại thông tuệ đã từng chán ghét vô ngần cái lôi kết luận dứt khoát - và: đặt định chính xác một vấn đề, không phải là cho rằng vấn đề đã được giải quyết từ trước. Tiếng “vấn đề” tôi dùng tại đây, là dùng một cách miễn cưỡng. Lòng không muốn, mà buộc phải dùng. Tình phi đắc dĩ... Thật ra, nói cho đúng, thì trong lĩnh vực nghệ thuật, trong miền cõi địa hạt văn chương, không hề có vấn đề nào mà tác phẩm nghệ thuật lại chẳng là lời giải đáp viên túc tự tại tự như. Nếu bằng tiếng “vấn đề” người ta ngụ ý thể hội nghĩa "tấn tuồng” tôi có được phép nói rằng cái tấn tuồng cuốn sách này kể lại, dẫu rằng nó diễn ra trong linh hồn nhân vật của tôi, vẫn cứ là một tấn tuồng quá phổ quát, không thể nào chịu nằm lì giới hạn trong cuộc phiêu bồng chìm nổi dị biệt riêng tây của mình. “Vấn đề” kia, tôi không có ý tự phụ cho rằng mình phát minh ra nó. Nó vốn dĩ đã tồn lưu trước khi cuốn sách này xuất hiện. Thì dẫu... Thì rằng... Rằng Michel thắng cuộc hoặc thua cơn, rằng Michel thong dong duỗi dậy hoặc đồi phế rụng rơi, dù sao thì dù, “vấn đề” vẫn tồn liên tiên trình thị hiện; và cả cơn thắng, cả cuộc thua, tác giả đều không cho đó là một kết quả thu hoạch, vốn dĩ là, đã thế, đã thôi, (đã xong, đã xuôi, đã đành, đã đủ). Nếu rằng một vài tinh thần thông tuệ cao nhã chỉ chấp nhận nhìn thấy trong tấn tuồng kia, bản trình bày một trường hợp oái oăm quỷ dị: và chỉ nhìn thấy trong nhân vật kia, một kẻ bị bệnh hoạn éo le: nếu họ không biết rằng một vài ý tưởng cấp thiết liên can tới cõi chung rất mực rộng tầm, vẫn rất có thể âm thầm cư lưu trong tấn tuồng âm ỉ nọ - vâng, nếu họ quan niệm như thế, thì tội lỗi chẳng phải tại những ý tưởng kia hoặc tấn tuồng kia, mà tại tác giả. Tôi muốn nói: tại chỗ vụng về của tác giả, tại vì tác giả ăn nói không ra câu - mặc dầu y đã đặt vào trong sách này tất cả niềm tha thiết, tất cả những nước mắt sôi cuồng và xiết bao ân cần chăm sóc. Tuy nhiên, ý nghĩa tồn lưu thực tại âm thầm của cuốn sách và cái ý vị lân la mà công chúng tìm ra trong sách, đó là hai sự vụ khác biệt nhau vô cùng. Thiết tưởng: không cần quá nham nhở tự phụ hỗn mang, tôi nghĩ thế, người ta có thể liều chịu trận hững hờ trong buổi mới, không ai thèm ngó ngàng gì đến của lạ ngon ngọt ngẫu nhiên về ngày nhà ma thứ nhất - vâng thà như thế còn hơn là ngẫu nhĩ về gây cuồng hỉ tê mê cho một công chúng thèm ăn những vật đồ lai rai, rồi trôi biệt bỏ xuôi không có một ngày mai tao phùng trong cửa quỷ. Tuy nhiên? Chung quy, tôi chẳng có ý tìm hiểu chứng minh cái gì ráo, mà chỉ duy mong muốn hoạ sao cho nên hình và làm sao cho bức hoạ sáng tỏ với mù sương. TỰA của André Gide *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Kẻ Vô Luân của tác giả André Gide.
Giờ Xấu - Gabriel Garcia Márquez
Giờ Xấu là một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Gabriel Carcía Márquez. Được xuất bản vào năm 1962, viết trước Trăm Năm Cô Đơn và Mùa Thu Của Vị Trưởng Lão, hai trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất làm nổi bật phong cách viết của Márquez. Với nhận định này, ta có thể nói Giờ Xấu là một cuốn tiểu thuyết thực sự hay. Đây không phải là cuốn tiểu thuyết viết theo trường phái hiện thực huyền ảo một trong những trường phái làm nên tên tuổi của Márquez. Tác phẩm này hoàn toàn hiện thực, nhưng đây là một câu chuyện thu hút và tưởng tượng hay đến mức không thể nào không đọc đến tận dòng chữ cuối cùng. Câu chuyện xảy ra tại một thị trấn nhỏ do một vị xã trưởng lập dị điều hành. Ngài giữ vai trò vừa là xã trưởng vừa là phó xã trưởng hay nói cách khác, ở nơi chốn ấy, ngài chính là luật lệ. Cư dân sống trong thị trấn phải đối mặt với một vấn đề rắc rối nhỏ. Cứ mỗi sáng ra, đều có một cư dân nào đó trong thị trấn tìm thấy một tờ rơi dán trên cửa nhà mình viết những mẩu chuyện lượm lặt về chính bản thân người đó hoặc về gia đình của họ. Lạ một cái là những chuyện được viết trong tờ rơi ấy, tất cả mọi người trong thị trấn ai cũng biết dù chẳng ai nói ra. Sự việc ấy khiến cho các cư dân trong thị trấn vô cùng căng thẳng, không phải vì những gì được viết ra mà là ai là tác giả của những tờ rời ấy. Giải quyết sự việc bí ẩn ấy là nhiệm vụ của vị xã trưởng, nhưng ngài không lấy làm quan tâm cho lắm. Ngài cho rằng cái trò ngồi lê đôi mách ấy sớm muộn gì cũng sẽ chấm dứt thôi. Trong Giờ Xấu, ngài xã trưởng giữ một vai trò hết sức thú vị vì ngài là một nhân vật có tính cách không rõ ràng. Khi lật mở các trang sách, người đọc có thể nhận ra rằng chẳng thể nói ngài xã trưởng – người chẳng có lấy cả cái tên – là người tốt hay kẻ xấu một cách đơn giản cho được. Ngài là một người phức tạp. Người dân ở thị trấn đó cũng thấy thế. Márquez đã khiến những con người ấy cùng với những câu chuyện hàng ngày thú vị của họ hấp dẫn và lôi cuốn đến độ người đọc cứ thế là lật mở cho tới trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết. Giờ Xấu đề cập đến những vấn đề chính trị, nhưng theo một cách cực kỳ tinh tế. Những tình tiết giải đáp về những thay đổi mà cái thị trấn phải đối mặt được tác giả đặt để khắp mọi nơi. Quá khứ có vẻ như đã từng tối tăm mù mịt, nhưng ta không bao giờ chắc chắn được điều đó. Márquez khai thác những đề tài nặng nề về Lịch sử Châu Mỹ Latinh đen tối với lòng chân thành, thái độ khoan dung và lối hài hước đặc biệt của riêng ông. Và cuối cùng, dường như chúng ta đã dành một khoảng thời gian sống cùng với các cư dân trong cái thị trấn đó. Tuy nhiên, cho dù ta có thấy cuốn tiểu thuyết hấp dẫn ta nhiều hay ít, cho dù có thể vào một ngày nào đó sắp tới, ta sẽ cầm cuốn tiểu thuyết này lên và đọc lại thì có lẽ ta sẽ không bao giờ có ý định trở lại nơi chốn ấy, thời kỳ ấy. *** Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Matêô đê Axit định bụng căn cứ theo tiếng gà gáy để đoán giờ. Cuca cùng anh tỉnh hẳn và không biết đích xác đã mấy giờ. - Mấy giờ rồi nhỉ? Nôra đê Hacôp vươn dài cánh tay trong bóng tối vớ lấy chiếc đồng hồ dạ quang ở trên bàn ngủ. Câu trả lời của bà cho thấy vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn. - Bốn rưỡi rồi – bà nói. - Của khỉ! Matêô đê Axit vùng dậy khỏi giường. Nhưng cơn đau đầu, cơn khát khô họng, đã buộc anh phải từ từ đứng dậy. Anh quơ chân tìm đôi giày. - Trời sáng bạch mất rồi và anh làm sao ra về được. Rõ khổ. - Hay quá đi mất! – Nôra nói. Bà thắp đèn và thấy mình đang trần như nhộng. – Có lẽ anh phải ẩn trong phòng này đợi đến ngày mai. Nôra đang khỏa thân hoàn toàn. Bộ phận sinh dục hầu như được che kín nhờ tấm ga trải giường. Ngay cả tiếng nói của bà cũng loãng ra cùng với ánh đèn tờ mờ. Matêô đê Axit đang đi giày. Anh to cao, lực lưỡng. Nôra đê Hacôp, vốn tiếp anh thường xuyên như thế này từ hai năm nay, bỗng thấy đau khổ trước nỗi bất hạnh vì có quan hệ vụng trộm với một người đàn ông mà đáng lẽ ra phải là nơi nương tựa của mình. - Nếu không cẩn thận anh sẽ béo ra đấy – bà nói. - Đó là cuộc sống sung sướng mà em. – Anh cãi lại bà để lẩn tránh nỗi chán chường của lòng mình. Anh cười rồi nói: Hình như anh có thai. - Để xem – Bà nói – Nếu đàn ông các anh mà đẻ con thì ít bị điều tiếng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Xấu của tác giả Gabriel Garcia Márquez.
Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ lướt qua, những loài hoa trổ bông mùa hè cũng tàn rụi dần rồi mất hẳn. Ếch nhái im tiếng trong ao vũng. Cò hạc tung cánh bay xa, và Đan Thanh trở về. Chàng về đến một buổi trưa, mưa bay lất phất, không vào tu viện, từ cổng lớn chàng bước thẳng vào xưởng mỹ nghệ. Chàng đi bộ, không mang theo ngựa. Bảo Ân giựt mình khi thấy chàng bước vào. Dù nhận ra chàng ngay thoáng nhìn đầu tiên, cậu ta vẫn bàng hoàng khi chào đón chàng, người trở về dáng dấp hoàn toàn khác lạ: không phải là Đan Thanh thật, mà già đi nhiều tuổi, mặt mũi bơ phờ, đầy bụi và nhăn nhíu, với đôi má hóp bệnh hoạn, cặp mắt như đau đớn, nhưng chàng không lộ vẻ gì thống khổ, nụ cười vẫn nở trên môi, một nụ cười quen thuộc, già cỗi và kiên nhẫn. Chàng bước đi khó nhọc, hai chân lê lết, có vẻ như nhuốm bệnh và quá mệt mỏi. Một Đan Thanh lột xác khác lạ đang nhìn cậu tập sự với đôi mắt dị thường. Chàng trở về trong âm thầm, như chưa hề rời xa nơi đây giây phút nào và bước vào xưởng như từ phòng bên cạnh. Chàng bắt tay Bảo Ân, không nói gì, không chào hỏi hoặc kể chuyện. Chàng chỉ nói: Tôi muốn ngủ,” dáng điệu thật mệt mỏi. Chàng gọi Bảo Ân đi chỗ khác và vào phòng riêng cạnh xưởng. Chàng cất mũ để nước mưa nhiễu xuống, cởi giày và đến gần giường. Bên trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm vải che, chàng gật đầu nhưng không tháo vải che xuống để mừng đón. Chàng tiến đến khung cửa sổ, thấy Bảo Ân bứt rứt đứng chờ bên ngoài, chàng lên tiếng gọi: “Bảo Ân, cậu không cần nói với bất cứ ai là tôi đã về. Tôi mệt lắm. Hãy đợi đến mai!” ... Mời các bạn đón đọc Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang của tác giả Hermann Hesse.
Người Mẹ - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Pearl S. Buck.